You are on page 1of 86

Câu 1: Khái niệm luật hành chính Việt Nam?

Trả lời:

Luật hành chính Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ chấp hành và điều hành
phát sinh trong quá trinh tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; trong
hoạt động hành chính nội bộ mang tính chất phục vụ cho các cơ quan nhà nước khác;
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khác hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà
nước trao quyền thực hiện hoạt động đó.

(Kiến thức bổ sung)

1. Đối tượng điều chỉnh: gồm 3 nhóm lớn

– Những quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước- đây là nhóm lớn nhất, cơ bản nhất và do đó quan trọng nhất

– Những quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động hành chính nội bộ
phục vụ cho hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, HĐ ND, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân các cấp và Kiểm toán nhà nước

– Những quan hệ hành chính phát sinh trong hoạt động của các cơ quan Kiểm toán nhà
nước, Hội đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân
các cấp hoặc tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền thực hiện nhiệm vụ, chức
năng hành chính nhà nước

2. Phương pháp điều chỉnh:

Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương, được hình thành
từ quan hệ quyền lực – phục tùng, mối quan hệ này biểu hiện:
Giữa một bên nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc thi hành và một bên có
nghĩa vụ phục tùng.
Quan hệ quyền lực phục tùng biểu hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia vào
quan hệ pháp luật hành chính, sự không bình đẳng thể hiện:
Chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước áp đặt ý chí lên đối tượng quản lý.
Chủ thể quản lý căn cứ vào pháp luật để phê chuẩn hoặc bãi bỏ yêu cầu, đề nghị của cấp
dưới, của công dân tổ chức.
Phối hợp hoạt động giữa các chủ thể mang quyền lực nhà nước.
Ví dụ: Khi các bộ thực hiện công tác đào tạo thì hình thức, quy mô đào tạo thì phải được
sự đồng ý của Bộ Giáo dục Đào tạo.
Chủ thể quản lý có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính và đối tượng
quản lý phải thực hiện

3. Nguồn luật hành chính: là những hình thức chứa các quy phạm pháp luật hành chính.

– Có thể chia loại nguồn của luật HC theo căn cứ :

+ Theo phạm vi hiệu lực : Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở TW
và của các cơ quan nhà nước ở địa phương.

+ Theo cấp độ hiệu lực pháp lý: Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới
luật

– Theo pháp luật hiện hành, nguồn luật HCVN bao gồm:

+ Hiến pháp năm 2013.

+ Luật tổ chức CP năm 2001.

+ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND năm 2003.

+ Cán bộ luật, đạo luật về quản lý các ngành và lĩnh vực về các tổ chức xã hội và các tổ
chức nhà nước khác.

+ Nghị quyết của Quốc hội.

+ Pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

+ Nghị định của CP, quyết định của thủ tướng CP.

+ VB QPPL của Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

+ Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

+ Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước.

+ VB quy định PL liên tịch.

+ Nghị quyết của HDND các cấp, quyết định của UBND các cấp.
Câu 2: Hãy chứng minh: Luật Hành chính là một ngành luật về hành chính nhà
nước (quản lý hành chính nhà nước).

– Quản lý hành chính nhà nước là tổ chức thực hiện quyền hành pháp bằng hoạt động
chấp hành pháp luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và điều hành hoạt động
trong các lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội của các cơ quan Nhà nước mà chủ yếu là các
cơ quan HCNN và những người được ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở thi hành pháp
luật nhằm thực hiện trong đời sống hằng ngày các chức năng của Nhà nước trên các lĩnh
vực chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như vậy, bản chất của QLHCNN thể
hiện ở các mặt chấp hành và điều hành.

– Chủ thể cúa quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước (chủ vếu là các cơ
quan hành chính nhà nước), các cán bộ nhà nước có thẩm quvền, các tổ chức và cá nhân
được nhà nước trao quyền quán lý hành chính trong một số trường hợp cụ thể.

Những chủ thể kể trên khi tham gia vào các quan hệ quản lý hành chính cớ quyền sử
dụng quyền lực nhà nước được chỉ đạo các đối tượng quản lý thuộc quyền nhằm thực
hiện nhiệm vụ quản lý đổng thời bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.

– Khách thể của quản lý hành chính nhà nước là trật tự quản lý hành chính tức là trật tự
quản lý trong lĩnh vực chấp hành – điểu hành. Trật tự quản lý hành chính do các quy
phạm pháp luật hành chính quy định.

– Trong khi đó, Luật Hành chính là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành nhà
nước. Luật Hành chính hướng sự quy định và các vấn đề chủ yếu: tổ chức QLHCNN
và kiểm soát đối với QLHCNN.

– Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ
chức và hoạt động QLHCNN. Đo đó, chúng ta có thể khẳng định Luật Hành chính là một
ngành luật về tổ chức và quản lý nhà nước.

Câu 3: Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính được thể hiện trong quan hệ
pháp luật hành chính như thế nào?

Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh được hình thành
từ quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những
mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục
tùng các mệnh lệnh đó. Sự không bình đẳng đó là sự không bình đẳng về ý chí và thể
hiện rõ nét ở những điểm sau:
– Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở
chỗ chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng
quản lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lí lên đối
tượng quản lý trong những trường hợp khác nhau được thực hiện dưới những hình thức
khác nhau:

+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối
với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên kia có nghĩa vụ thực hiện các quy
định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là quan
hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên.

+ Hoặc một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem xét, giải
quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó. Ví dụ: Công dân có quyền yêu
cầu (cùng với những giấy tờ nhất định) công an quận, huyện giải quyết cho di chuyển hộ
khẩu. Công an quận, huyện xem xét và có thể chấp nhận yêu cầu (nếu hồ sơ của công dân
đó là hợp lệ) hoặc không chấp nhận (nếu hồ sơ không đầy đủ, không hợp lệ).

+ Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định điều gì phải
được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quvết định. Ví dụ: Quan hệ
giữa Bộ giáo dục và đào tạo và các bộ khác về việc quyết định hình thức, quy mô đào tạo.
Việc các bộ khác quvết định hình thức, quy mô đào tạo phải được Bộ giáo dục và đào tạo
cho phép hay phê chuẩn.

– Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể áp dụng các
biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lí phải thực hiện mệnh lệnh của mình.
Các trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể nội dung và giới hạn.

Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước luôn thể
hiện rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, hoàn toàn khống phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của các bên tham gia vào quan hệ đó.

Sự không bình đẳng giữa các bên là các cơ quan trong bộ máy nhà nước bắt nguồn từ
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong tổ chức của bộ máy nhà nước. Sự không bình
đẳng giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ
chức và cá nhân khác không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà từ quan hệ “quyền lực –
phục tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước để
thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực được phân công phụ trách. Do
vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà nước mà người đại diện là cơ
quan hành chính nhà nước.

– Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước còn
thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lí hành chính khác, dựa vào thẩm
quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có quyền ra những mệnh lệnh
hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể. Những quyết
định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thế hiện ý chí cúa chủ thể quản lí hành chính
nhà nước trên cơ sờ quyền lực đã được pháp luật quy định.

Những quyết định hành chính đơn phương đều mang tính chất bắt buộc đối với các đối
tượng quản lý. Tính chất bắt buộc thi hành của các quyết định hành chính được bảo đảm
bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định hành chính đơn
phương không phải bao giờ cũng được thực hiện trên cơ sở cưỡng chế mà được thực hiện
chủ yếu thông qua phương pháp thuyết phục.

Câu 4: Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là gì ? So sánh với các ngành
luật khác ?
1. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính

Phương pháp điều chỉnh là cách thức mà nhà nước áp dụng trong việc điều chỉnh bằng
pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội.

Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mênh lệnh được hình thành
từ quan Ịiệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những
mệnh lệnh bắt buộc đối vói bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục
tùng các mệnh lệnh đó. Chính mối quan hệ “quyền lực – phục tùng” thể hiện sự không
bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Sự không bình
đẳng đó là sự không bình đẳng về ý chí và thể hiên rõ nét ở những điểm sau:

– Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước thể hiên ở
chỗ chủ thể quản lí có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng
quản lí. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lí lên đối
tượng quản lí trong những trường hợp khác nhau được thực hiện dưới những hình thức
khác nhau:

+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối
với bên kia và kiểm tra việc thực các cơ quan hành chính nhà nước vối các tổ chức xã
hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà
từ quan hệ “quyền lực – phục tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước
nhân danh nhà nước để thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực được
phân công phụ trách. Do vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà nước
mà người đại diện là cơ quan hành chính nhà nước.

– Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước còn
thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chù thể quản lí hành chính khác, dựa vào thẩm
quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có quyền ra những mệnh lệnh
hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với từng đôì tượng cụ thể. Những quyết
định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lí hành chính
nhà nước trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.

Trong thực tiễn quản lí có những trường hợp cơ quan hành chính nhà nước ra quyết định
do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hay của cá nhân. Cũng có nhiều
trường hợp trước khi ra quyết định các chủ thể quản lí hành chính nhà nước tổ chức trao
đổi, thảo luân về nội dung quyết định với sự tham gia của đại diện cho cơ quan cấp dưới,
đơn vị trực thuộc hoặc những đối tượng có liên quàn. Ngay cả trong những trường hợp
này quyết định của cơ quan có thẩm quyền vẫn có tính chất đơn phương bởi vì yêu cầu
của các đối tượng có liên quan, của cấp dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các cuộc thảo
luận không có tính chất quỹết định mà chỉ là những ý kiến để chủ thể quản lí hành chính
nhà nước nghiên cứu, xem xét, tham khảo trước khi ra quyết định. quy phạm luật hành
chính. Do vậy, có nhiều quan hệ xã hội đồng thời được điều chỉnh bởi các quy phạm luật
hiến pháp và các quy phạm luật hành chính. Các quy phạm luật hiến pháp quy định
những vấn đề chung và cơ bản, còn quy phạm luật hành chính cụ thể hoá quy phạm luật
hiến pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động chấp hành
– điều hành của nhà nước. Nói cách khác, các quy phạm luật hiến pháp quy định về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong trạng thái tĩnh, còn các quy phạm luật
hành chính quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong trạng thái động.
2. So sánh phương áp điều chỉnh luật hành chính với luật dân sự

Việc phân biệt hai ngành luật này chủ yếu dựa vào phương pháp điều chỉnh. Phương
pháp điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự là bình đẳng, thoả thuận; phương pháp điều
chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương. Trong quan hệ pháp luật dân sự các
chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ thể
không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ: Một bên có quyền ra mệnh lệnh còn bên kia có
nghĩa vụ phải phục tùng.

Ngoài ra, để phân biệt hai ngành luật này còn có thể căn cứ vào đối tượng điều chỉnh của
chúng. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan hệ tài sản mang tính chất
hàng hoá – tiền tệ và các quan hệ nhân thân. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là
các quan hê xã hội phát sinh trong lĩnh vực chấp hành – điều hành. Trong một số trường
hợp, hai ngành luật này cùng điều chỉnh những quan hệ về tài sản nhưng ở các góc độ
khác nhau. Luật dân sự quy định nội dung quyền sở hữu, những hình thức chuyển
nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản… Luật hành chính quy định những vấn đề như thẩm
quyền giải quyết ngân sách, quản lí và phân phối nguồn vốn của nhà nước, công tác tín
dụng, quản lí lưu thông tiền tệ V.V..

Các quy phạm của luật hành chính chủ yếu quy định thẩm quyền cùa bộ máy quản lí tài
chính, cơ cấu tổ chức cũng như trình tự, thủ tục hoạt động của bộ máy đó và thủ tục tiến
hành các quan hê tài chính. Còn các quy phạm của luật tài chính chủ yếu điều chỉnh bản
thân các quan hệ tài chính, xác định nội dung các quyết định của các cơ quan tài chính.
3. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật lao động

Hai ngành luật này cùng điều chỉnh các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, cho thôi việc đối
với cán bộ, công chức, viên chức nhưng từ những góc độ khác nhau.

Luật lao động điều chỉnh các vấn đề có liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích của người
lao động như quyền được nghỉ ngơi, quyền được trả lương, được hưởng các chế độ bảo
hiểm xã hội và bảo hộ lao động V.V..

Luật hành chính xác định thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh
vực lao động đồng thời điều chỉnh những quan hệ liên quan đến việc tổ chức quá trình lao
động và quy chế công vụ, quy định thủ tục tuyển dụng, cho thôi việc, khen thưởng, kỉ
luật v.v. đối với cán bộ, công chức, viên chức.
4. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật tố tụng hành chính

Luật hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các khiếu nại hành chính. Thủ
tục giải quyết các khiếu nại hành chính do luật hành chính quy định là thủ tục hành chính.

Luật tố tụng hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu kiện hành
chính. Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính do luật tố tụng hành chính quy định là
thủ tục tố tụng. Những nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy nhà nước nói chung và trước từng
cơ quan nhà nước nói riêng.

Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ
bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hành chính, tức
là những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.

Phần lớn và là phần quan trọng trong nguồn của luật hành chính là những văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước
ban hành trong phạm vi thẩm quyền của từng cơ quan.

Thông thường, các văn bản quy phạm pháp luật hành chính được ban hành bởi một cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, cũng có những văn bản do nhiều cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan trung ương
của tổ chức chính trị-xã hội phối hợp ban hành.

Từ những điều đã phân tích ở trên cho thấy luật hành chính có hệ thống nguồn khá phức
tạp. Nếu xem xét kĩ hơn thì điều đó có nghĩa là không có cơ quan chuyên ban hành chỉ
riêng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính. Chúng được ban hành bởi nhiều cơ
quan khác nhau, có chức năng và nhiệm vụ khác nhau, ở những cấp khác nhau. Tuy
nhiên, những văn bản quy phạm pháp luật hành chính đều xuất phát từ một nguồn – đó là
luật hiến pháp.

Căn cứ vào cơ quan ban hành, nguồn của luật hành chính gổm sáu loại:

– Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.

– Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.

Các luật quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, ván hoá, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, đối ngoạt, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ
công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân.

Các luật đều có nội dung là những quy định cụ thể, chi tiết những vấn đề cơ bản được ghi
nhận trong hiến pháp. Thực tiễn lập pháp cho thấy luật quy định những vấn đề quan trọng
trong quản lí nhà nước và xã hội khi những vấn đề đó đã chín muồi và có đủ điều kiện để
Quốc hội quy định ổn định trong thời gian dài.

Trong các luật do Quốc hội ban hành, những luật có chứa đựng quy phạm pháp luật hành
chính là nguồn quan trọng của luật hành chính (như Luật tổ chức Chính phủ, Luật Cán
bộ, Công chức V.V.).

– Nghị quyết của Quốc hội:

Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã
hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; điều chỉnh ngân sách
nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định chế độ làm việc của Quốc
hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề
khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Những nghị quyết hoặc phần của nghị quyết có chứa đựng các quy phạm pháp luật hành
chính được coi là nguồn của luật hành chính.

Ví dụ: Nghị quyết của Quốc hội số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một số
điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

mà hội đồng nhân dân các cấp ban hành và được ban hành trong các trường hợp sau đây:
+ Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành hiến pháp,
luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;

+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa
phương;

+ Quyết định biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi
nhiệm vụ cấp trên giao cho;

+ Quyết định trong phạm vi thẩm quyền được giao những chủ trương, biện pháp có tính
chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của địa phương nhằm phát
huy tiềm năng của địa phương nhưng không được trái VỚỊ các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

+ Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho hội đồng nhân dân quy định một vấn
đề cụ thể.

Khi trong nghị quyết có các quy phạm pháp luật hành chính thì nghị quyết (hoặc một
phần của nghị quyết) được coi là nguồn của luật hành chính.

Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội số 08/2013/NQ-HDND ngày
17/7/2013 về số lượng, chức danh, mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên
trách ở xã, phường, thị trấn và ở thôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Câu 5: Tương quan giữa luật hành chính với các ngành luật khác trong hệ thống
pháp luật Việt Nam?

Trả lời

– Chúng bổ trợ cho nhau. Cùng nhau hoàn thiện các quy tắc ứng xử hành vi để đảm bảo
trật tự an toàn xã hội.

Ví dụ: Luật Hành chính cụ thể hóa chi tiết hóa và bổ sung các quy định của hiến pháp còn
LHP đặt ra cơ chế đảm bảo chúng.

– Trong một số trường hợp chế tài hành chính không thể giải quyết được nên cần có sự
hỗ trợ của các ngành luật khác.

Luật hành chính đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc
gia vì hoạt động hành chính tác động toàn diện và trực tiếp tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Qua nghên cứu mối tương quan giữa Luật hành chính với các ngành luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, có thể khẳng định rằng Luật hành chính không chỉ là phương
tiện đưa quy phạm vật chất của Luật hành chính vào cuộc sống mà còn đưa cả quy phạm
vật chất của nhiều ngành luật khác vào thực thi trong đời sống thực tế. Do đó, quan tâm
đến việc củng cố và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của Luật Hành chính là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng đối với hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay

Câu 6: Mối quan hệ giữa luật hành chính với Luật hiến pháp; Luật hình sự; Luật
đất đai; Luật Lao động?

Trả lời

– Hành chính với Hiến pháp:đối tượng điều chỉnh của LHP rộng hơn

+ Luật Hành chính cụ thể hóa, chi tiết hóa và bổ xung các quy định của HP

+ Luật Hành chính đặt ra cơ chế đảm bảo LHP.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Đất đai

Luật Đất đai là ngành luật điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước với người sử dụng đất đai,
đó là tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để bảo vệ đất đai-một tài sản quý của quốc gia và điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng và bảo vệ đất đai.

Trong quan hệ Luật Đất đai, nhà nước có tư cách vừa là đại diện chủ sở hữu đối với đất
đai, vừa là người thực hiện quyền lực nhà nước. Bởi quan hệ đất đai chỉ xuất hiện, thay
đổi hoặc chấm dứt khi có quyết định của cơ quan nhà nước giao đất cho người sử dụng
đất. Các cơ quan quản lý nhà nước giám sát việc sử dụng đất của người sử dụng đất đai
nhằm đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng vẫn bảo vệ môi
trường và giữ gìn độ phì nhiêu của đất đai nhưng không làm tổn hại đến lợi ích chính
đáng của người sử dụng đất. Trong những trường hợp do luật định, nhà nước có quyền
đơn phương thu hồi đất, xử phạt hành chính đối với người sử dụng đất có hành vi vi
phạm quy định của Luật Đất đai. Người sử dụng đất trong quan hệ Luật Đất đai là người
chấp hành quyền lực nhà nước. Như vậy, Luật hành chính là phương tiện thực hiện Luật
Đất đai. Có thể khẳng định giữa Luật Hành chính và Luật đất đai có mối liên hệ với nhau,
đó là cùng điều chỉnh những quan hệ liên quan đến đất đai, những quan hệ đó xuất hiện
nhằm mục đích bảo đảm sử dụng đất đai hợp lý, đúng mục tiêu, đúng quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Hình sự

Luật Hình sự là một ngành luật quy định tội phạm, xác định hình phạt với các tội phạm
nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Như vậy,
quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là quan hệ hình thành giữa Nhà nước và người
phạm tội khi người đó thực hiện hành vi được Nhà nước quy định là tội phạm. Đây là
ngành luật không điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, mà chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội liên
quan đến tội phạm và hình phạt.

Luật Hình sự và Luật Hành chính cũng có điểm chung là cả hai ngành luật đều điều chỉnh
các hành vi vi phạm pháp luật và cách xử lý đối với những hành vi này, chỉ khác trong
Luật hình sự, tội phạm là loại vi phạm pháp luật có mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã
hội cao hơn so với Luật hành chính. Theo đó, Luật hình sự xác định hành vi nào là tội
phạm, hình phạt nào được áp dụng đối với tội phạm ấy, điều kiện áp dụng các hình phạt
đó. Còn Luật hành chính quy định các quy tắc có tính chất bắt buộc chung (quy tắc giao
thông, vệ sinh, phòng cháy chữa cháy, lưu thông hàng hóa,…) mà nếu vi phạm các quy
tắc này, trong một số trường hợp có thể bị xử lý hình sự theo quy định của Luật hình sự
hoặc xử phạt vi phạm hành chính. Do mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn
nên hình phạt đối với tội phạm do Luật hình sự quy định cũng nặng hơn những hình thức
phạt và biện pháp cưỡng chế khác mà Luật hành chính quy định áp dụng đối với chủ thể
thực hiện vi phạm hành chính. Trình tự xử lý và chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính và tội phạm cũng khác nhau.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Lao động

Luật lao động là một ngành luật điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm
công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với
quan hệ lao động.

Giữa Luật Hành chính và Luật Lao động có quan hệ chặt chẽ trong những trường hợp sau
đây:

– Thẩm quyền của các cơ quan trực tiếp quản lý lao động như Bộ Lao động, thương binh
và xã hội, Sở Lao động, thương binh và xã hội do Luật hành chính quy định (trong đó các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát công tác bảo
hộ lao động và quy tắc an toàn lao động) nhưng bản thân các quy tắc về bảo hộ và an toàn
lao động là thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Lao động

– Thông thường nội dung các văn bản cá biệt của các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực lao động do Luật Lao động quy định, còn trình tự, thủ tục ban hành chúng thì do
Luật Hành chính quy định.

– Luật Hành chính và Luật Lao động đều cùng điều chỉnh chế độ phục vụ, hoạt động
công vụ nhà nước, vì cán bộ, công chức, viên chức là lực lượng lao động đặc biệt.
Luật hành chính đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc
gia vì hoạt động hành chính tác động toàn diện và trực tiếp tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Qua nghên cứu mối tương quan giữa Luật hành chính với các ngành luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, có thể khẳng định rằng Luật hành chính không chỉ là phương
tiện đưa quy phạm vật chất của Luật hành chính vào cuộc sống mà còn đưa cả quy phạm
vật chất của nhiều ngành luật khác vào thực thi trong đời sống thực tế. Do đó, quan tâm
đến việc củng cố và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của Luật Hành chính là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng đối với hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay

Câu 7: Hệ thống ngành Luật Hành chính Việt Nam?

Trả lời

Gồm phần chung và phần riêng, trong mỗi phần có các chế định, trong mối chế định gồm
các quy phạm vật chất và quy phạm thủ tục:

– Phần chung cua luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định:

+ Những nguyên tắc cơ bản của quản lí hành chính nhà nước;

+ Địa vị pháp lí của các cơ quan hành chính nhà nước, hình thức và phương pháp quản lí
cũng như văn bản quán lí;

+ Địa vị pháp lí của cán bộ, công chức và hoạt động công vụ;

+ Quy chế pháp lí hành chính của các tổ chức xã hội;

+ Quy chế pháp lí hành chính của cá nhân:

+ Trách nhiệm hành chính, thủ tục hành chính và tài phán hành chính;

+ Những biện pháp pháp lí bảo đảm pháp chế trong quán lí hành chính nhà nước:

– Phần riêng của luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định:

+ Hoạt động quản lí chức nâng như tài chính, kế hoạch, đầu tư, thống k …

+ Hoạt động quản lí ngành như công nghiệp, nông nghiệp.

Câu 8: Vai trò của luật hành chính Việt Nam đối với hành chính hành chính nhà
nước?
Trả lời

Luật hành chính Việt Nam là một ngành luật về quản lý nhà nước, đóng một vai trò hết
sức quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Cụ thể:

1. Về phương diện chính trị:

– Tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước,
việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;

– Góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

1. Về phương diện kinh tế

– Ðóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân;

– Thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế phát triển đồng bộ, nâng cao đời sống nhân dân.

1. Về phương diện xã hội

– Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thể, của nhà nước;

– Hướng tới mục tiêu cao cả nhất của thể chế hành chính, đồng thời cũng là bản chất của
chế độ XHCN là phục vụ cho nhân dân và “công bộc” của nhân dân.

Câu 9: Nguồn Luật Hành chính? Các loại nguồn, đặc điểm nguồn?

Nguồn của luật hành chính là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có chứa các quy
phạm pháp luật hành chính.

Một văn bản được coi là nguồn của luật hành chính nếu văn bản đó thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu sau:

– Do chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật theo Luật định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành.

– Văn bản được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, dưới hình thức theo luật định. Nội
dung văn bản đó có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính.

Các loại nguồn:

 Hiến pháp;
 Luật, Nghị quyết của Quốc hội;
 Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH;
 Lệnh, quyết định của CTN;
 Nghị định của CP; quyết định của TTCP;
 Nghị quyết của hội đồng thẩm phán TANDTC;
 Thông tư của chánh án TANDTC ; thông tư của Viện trưởng VKSNDTC;
 Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
 Quyết định của Tổng kiểm toán NN;
 Nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH or giữa CP với cơ quan TƯ của tổ chức
CT- XH;
 Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viên trưởng viện KSNDTC,
giữa bộ trưởng, thủ trưởng cq ngang bộ vs chánh án tòa tối cao, viện trưởng
VKSTC; giữa các bộ trưởng thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
 VB QPPL của Hội đồng, UB ND(Nghị quyết của HĐND, Quyết định- Chỉ
thị của UBND)   bộ trưởng only thông tư, chỉ thị đg có xu hg’ sửa đổi

Đặc điểm nguồn: nhiều, luôn thay đổi, đối tượng điều chỉnh rộng, khó pháp điển hóa. Vì
qhxh nó điều chỉnh luôn thay đổi, phức tạp.

Câu 10: Mọi nghị định của CP có phải nguồn Luật Hành chính không?

Đúng.

Nghị định của Chính phủ có thể chia thành hai loại. Loại thứ nhất là nghị định quy định
chi tiết thi hành luật, nghị quvết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức
bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác
thuộc thẩm quyền của Chính phủ; các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phú. Loại thứ hai là nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng
chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà
nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Cả hai loại này đều là những quy phạm pháp luật
trong quản lí hành chính nhà nước nên nó được coi là nguồn của pháp luật hành chính.

Câu 11: Khái niệm, nội dung, đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính?

* Khái niệm: Những quy phạm pháp luật được dùng để điều chỉnh các quan hệ quản lí
hành chính nhà nước là các quy pham pháp luật hành chính. Do đó, có thể hiểu: Quy
phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quán lí hành chính theo phương
pháp mệnh lệnh – đơn phương.

Là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật nên các quy phạm pháp luật hành chính có
đầy đủ các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật như: Là quy tắc xử sự chung thể hiện
ý chí cúa nhà nước; được nhà nước bảo đảm thực hiện; là tiêu chuẩn để xác định giới hạn
và đánh giá hành vi của con người về tính hợp pháp.

* Nội dung: điều chỉnh các quan hệ quản lý trước hết bằng cách đặt ra quyền và nghĩa vụ
có quan hệ tương hỗ với nhau của các chủ thể luật HC trong các loại hoạt động, các môi
trường quản lý khác nhau, các đặc trưng là điều chỉnh các quan hệ mang tính chất tổ chức
và điều hành, cụ thể

– Xác định thẩm quvền quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của đối tượng quản lí hành chính
nhà nước.

– Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
quá trình thực hiện quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định thủ tục hành chính.

– Quy định vi phạm hành chính.

– Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính.

* Đặc điểm

Ngoài ra, quy phạm pháp luật hành chính còn có những đặc điểm cụ thể sau:

– Thứ nhất, các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành.

Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có thể là chủ thể lập pháp hoặc chủ
thể quản lý hành chính nhà nước.

Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành trên cơ sở, cụ thể hóa, chi tiết hóa
các quy định của Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước.
– Thứ hai, các QPPL hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau.

Do phạm vi điều chỉnh của luật hành chính rất rộng và tính chất đa dạng về chủ thể ban
hành, nên các QPPL hành chính có số lượng lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu
lực pháp lý trên cả nước và chung cho các ngành, lĩnh vực quản lý, nhưng có những quy
phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lý hay trong một địa
phương nhất định.

– Thứ ba, các QPPL hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp
lý nhất định.

Do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, các
QPPL có số lượng lớn và hiệu lực khác nhau, song chúng cần phải hợp thành một hệ
thống. Các chủ thể có thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật hành chính có trách
nhiệm tuân thủ các nguyên tắc pháp lý thống nhất sau đây:

+ Một là các QPPL hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với
nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành.

+ Hai là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, Chủ tịch nước, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của
quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Các cơ quan
hành chính nhà nước vơi tư cách là các cơ quan quyền lực nhà nước, khi ban hành các
QPPL hành chính cần phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp. Mặt khác, các cơ quan quyền lực nhà nước có trách nhiệm
và thẩm quyền trong việc giám sát, phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật
trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước hay những cơ quan khác do mình quyết
định thành lập và những người giữ chức vụ do mình bầu. Ví dụ: Quốc hội có quyền bãi
bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội.

+ Ba là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn ban hành phải phù hợp với nội dung mà mục đích của quy phạm pháp luật do cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành.

+ Bốn là các QPPL hành chính do người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban
hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan
đó ban hành.

+ Năm là bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các QPPL hành chính do các chủ thể có
thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý ban hành.
+ Sáu là các QPPL hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và dước
hình thức nhất định do pháp luật quy định. Các QPPL hành chính phải được các cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp
luật theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thống nhất với từng loại hình văn bản quy
phạm pháp luật cụ thể:

 Xác định thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước.


 Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của đối tượng quản lý hành
chính nhà nước.
 Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
 Quy định thủ tục hành chính.
 Quy định vi phạm hành chính.
 Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính.

Câu 12: Cơ cấu của quy phạm pháp luật hành chính?

Giả định + quy định + chế tài

– Giả định: + mang tính xác định tuyệt đối(công dân VN, 18 tuổi trở lên), tương đối(Ví
dụ: tiêu chuẩn công chứng viên- từ 18+ , trung thành vs Tổ quốc) è tương đối: có những
quy định không xác định được giá trị vật chất, thuộc tinh thần;

+ Giả định đơn giản, phức tạp- đơn giản: nếu 1 đk hoàn cảnh, phức tạp: nhiều

+ Giả định thường mang tính chất chung, k đi liền với quy định: quy phạm định nghĩa,
quy phạm về các nguyên tắc.

– Quy định: đặt ra quy tắc hành vi, trình tự, thủ tục quy định các chủ thể được làm, phải
làm ntn (quy định quyền và nghĩa vụ). Mang tính mệnh lệnh, là phần trọng tâm.

– Chế tài: biện pháp tác động của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm phần quy định của
quy phạm. thường k có mặt bên cạnh phần giả định và quy định mà nằm trong VB khác.

Câu 13: Phân loại quy phạm pháp luật hành chính?

Do tính chất đa dạng và phức tạp của các quy phạm pháp luật hành chính nên việc phân
loại các quy phạm này có ý nghĩa quan trọng về lí luận và thực tiễn xây dựng cũng như
áp dụng pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước. Việc phân loại các quy phạm này
có thể được thực hiện theo các tiêu chí cơ bản sau:
Căn cứ vào chủ thể ban hành

+ Quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.

+ Quy phạm pháp luật hành chính do Chủ tịch nước ban hành.

+ Quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành.

+ Quy phạm pháp luật hành chính do Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ban hành.

Căn cứ vào cách thức ban hành

+ Quy phạm pháp luật hành chính do một cơ quan hay người có thẩm quyền độc lập ban
hành.

+ Quy phạm pháp luật hành chính liên tịch.

Căn cứ vào mối quan hệ được điều chỉnh

+ Quy phạm nội dung là loại quy phạm được ban hành để quy định nội dung quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Các quy phạm này
được ban hành chủ yếu để quy định về địa vị pháp lí hành chính của các chủ thể tham gia
quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ: Quy định vể thẩm quyền xử lí vi phạm hành
chính của chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp hay quy định về nghĩa vụ lao động công ích
của công dân…

+ Quy phạm hình thức là loại quy phạm được ban hành để quy định những trình tự, thủ
tục cần thiết mà các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo khi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định. Ví
dụ: Các quy phạm quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, thủ lục giải quyết
khiếu nại hành chính…

Căn cứ vào hiệu lực pháp lí về thời gian

+ Quy phạm áp dụng lâu dài là loại quy phạm mà trong văn bản hành chính không ghi
thời hạn áp dụng. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp năm 1992
hay trong Luật thanh tra nãm 2004… Các quy phạm này chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ,
thay thế. Các quy phạm này có số lượng rất lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc điều
chỉnh lâu dài và ổn định các quan hệ phát sinh trong quản lí hành chính nhà nước.
+ Quy phạm áp dụng có thời hạn là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh các quan
hệ quản lí hành chính nhà nước chỉ phát sinh trong những tình huống đặc biệt hay chỉ tổn
tại trong khoảng thời gian nhất định.

Khi tình huống đó không còn hay hết thời hạn đó thì quy phạm hết hiệu lực (ví dụ: Nghị
quyết của Chính phủ số 12/2000/NQ-CP ngàv 14/8/2000 về “Chính sách quốc gia phòng,
chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000 – 2010).

+ Quy phạm tạm thời là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh một số loại quan hệ
quản lí hành chính nhà nước trong một phạm vi, trong khoảng thời gian nhất định làm cơ
sở tổng kết để ban hành chính thức nếu phù hợp..

Căn cứ vào hiệu lực pháp lí về không gian

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước. Các quy phạm này do các cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành.

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi từng địa phương nhất định. Các quy phạm
này chủ yếu do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đáp ứng nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước phù hợp với đặc thù của địa phương mình

Câu 14: Hiệu lực quy phạm pháp luật hành chính?

Hiệu lực pháp lí về thời gian

+ Quy phạm áp dụng lâu dài là loại quy phạm mà trong văn bản hành chính không ghi
thời hạn áp dụng. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp năm 1992
hay trong Luật thanh tra nãm 2004… Các quy phạm này chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ,
thay thế. Các quy phạm này có số lượng rất lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc điều
chỉnh lâu dài và ổn định các quan hệ phát sinh trong quản lí hành chính nhà nước.

+ Quy phạm áp dụng có thời hạn là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh các quan
hệ quản lí hành chính nhà nước chỉ phát sinh trong những tình huống đặc biệt hay chỉ tổn
tại trong khoảng thời gian nhất định.

Khi tình huống đó không còn hay hết thời hạn đó thì quy phạm hết hiệu lực (ví dụ: Nghị
quyết của Chính phủ số 12/2000/NQ-CP ngàv 14/8/2000 về “Chính sách quốc gia phòng,
chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000 – 2010).

+ Quy phạm tạm thời là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh một số loại quan hệ
quản lí hành chính nhà nước trong một phạm vi, trong khoảng thời gian nhất định làm cơ
sở tổng kết để ban hành chính thức nếu phù hợp..
Hiệu lực pháp lí về không gian

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước. Các quy phạm này do các cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành.

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi từng địa phương nhất định. Các quy phạm
này chủ yếu do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đáp ứng nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước phù hợp với đặc thù của địa phương mình

Câu 15: Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính?

Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam

Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là việc các tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng những hành vi theo quy định của pháp luật hành chính Việt Nam hiện hành.
Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam thường thể hiện ở các trường hợp
sau:

– Thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam buộc phải
thực hiện như, Luật Giao thông đường bộ quy định: Người điều khiển xe máy và ngồi
trên xe máy phải đội mũ bảo hiểm. Thực hiện đúng hành vi này nghĩa là mỗi khi cá nhân
điều khiển xe máy tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm.

– Không thực hiện những hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam ngăn
cấm như, quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam tại Luật Giao thông đường bộ quy
định cá nhân khi điều khiển phương tiện giao thông không được đi ngược chiều đường
một chiều. Chấp hành quy phạm này mỗi cá nhân khi tham gia giao thông nhìn thấy biển
báo đường ngược chiều thì không điều khiển phương tiện giao thông vào đường ấy.

– Thực hiện các hành vi trong giới hạn mà các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam
quy định. Điều 29, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính sửa đối năm 2008 quy định chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử phạt hành chính với mức phạt tiền tới
30 triệu đồng. Như vậy, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ có thể ban hành quyết
định xử phạt hành chính đối với cá nhân vi phạm hành chính có mức phạt tiền không quá
30 triệu đồng.

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là việc cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam hiện hành để giải
quyết các công việc cụ thể phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước.Hoạt động áp
dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam được thực hiện bởi nhiều chủ thể có thẩm
quyền khác nhau. Do hệ quả của việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam
rất dễ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nếu chủ thể có thẩm
quyền áp dụng không đúng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam. Nên khi áp dụng
các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam cán bộ, công chức cần phải tuân thủ các
yêu cầu sau:

-Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải đúng mục đích và nội dung.
Mục đích của quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là ý nghĩa xã hội của việc áp
dụng quy phạm pháp luật, còn nội dung của quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là
yêu cầu về tính pháp lý khi áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam.

Ví dụ: Khoản b, Điều 6, Nghị định 87/NĐ-CP ngày 21/11/2001 quy định: Phạt tiền từ 50
nghìn đồng đến 200 nghìn đồng đối với người có hành vi tổ chức việc kết hôn cho người
chưa đến độ tuối kết hôn. Mục đích của việc áp dụng quy phạm này là hướng tới bảo đảm
việc kết hôn đúng độ tuối mà Luật Hôn nhân và gia đình quy định, từ đó giáo dục ý thức
pháp luật cho nhân dân. Nội dung của quy phạm này đòi hỏi khi áp dụng người có thẩm
quyền phải xử phạt trong mức phạt đã quy định. Điều đó, đòi hỏi khi áp dụng quy phạm
này người có thẩm quyền xử phạt hành chính phải cân nhắc mức phạt tiền sẽ áp dụng để
vừa đảm bảo mục đích cũng như nội dung của quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam
đó.

– Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện bởi chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Ví dụ: Ủy ban nhân dân huyện X ban hành quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông
A (chuyên viên thuộc Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn) là vi phạm thẩm
quyền. Bởi căn cứ vào Luật Cán bộ, công chức thì thầm quyền ban hành quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức phải thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện X
chứ không phải Ủy ban nhân dân huyện X.

– Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện đúng thủ tục do
pháp luật quy định.

Ví dụ: Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu bao
gồm: Thụ lý, đối thoại, xác minh thu thập tài liệu, ban hành quyết định giải quyết khiếu
nại. Nhưng khi giải quyết khiếu nại người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã ban
hành quyết định giải quyết khiếu nại mà không tiến hành thủ tục đối thoại. Trong trường
hợp này quyết định giải quyết khiếu nại là không hợp pháp vì việc áp dụng giải quyết
khiếu nại đã không tuân thủ thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu.

– Áp dụng quy phạm phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện trong
thời hạn, thời hiệu do pháp luật quy định.
Ví dụ: Điều 56, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định thời hạn ban hành quyết
định xử phạt hành chính là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản. Như vậy, nếu quá 10 ngày kể
từ-ngày lập biên bản vi phạm hành chính người có thẩm quyền không ban hành quyết
định xử phạt hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Điều 10, Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi năm 2008 quy định: Thời hiệu xử phạt hành chính
trong lĩnh vực xây dựng là 2 năm kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Quy
định này đặt ra yêu cầu đối với người có thẩm quyền xử phạt hành chính: chỉ ban hành
quyết định xử phạt hành chính khi còn thời hiệu xử phạt hành chính theo Điều 10 của
Pháp lệnh.

– Kết quả của hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được, trả
lời, công khai, chính thức bằng văn bản (trừ trường hợp có quy định khác). Quy định này
buộc các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thông báo tới người khiếu nại
về việc thụ lý hay không thụ lý đơn khiếu nại bằng văn bản.

Câu 16: Cho ví dụ chứng minh các đặc trưng của quy phạm pháp luật hành chính?

Đặc trưng: Các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam tạo thành hệ thống quy phạm
pháp luật hành chính Việt Nam thống nhất với một trật tự nghiêm ngặt về thứ bậc hiệu
lực pháp lý. Đặc điểm này là yếu tố quan trọng bảo đảm sự vận hành thông suốt và thống
nhất của bộ máy quản lý hành chính nhà nước, đảm bảo trật tự kỷ cương trong quản lý
hành chính nhà nước- mang tính tổ chức, điều hành.

Ví dụ: luật về tổ chức HĐND và UBND của QH 26/11/2003

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế – xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và của công dân ở địa phương.

Câu 17: Mối quan hệ giữa QPPL vật chất hành chính và quy phạm thủ tục hành
chính?
QPPL vật chất hành chính và quy phạm thủ tục hành chính đều là quy phạm pháp luật
hành chính nhìn dưới giác độ nội dung thủ tục hành chính. Nếu không có các quy phạm
thủ tục (là quy phạm quy định trình tự thực hiện các quy phạm vật chất) thì các quy phạm
vật chất sẽ không giá trị, sẽ không thực hiện được vì không có bảo đảm pháp lý quan
trọng nhất cho sự thực hiện chúng.

Ngược lại, quy phạm vật chất là quy phạm trả lời cho câu hỏi cần phải làm gì, cần tuân
thủ quy tắc hành vi nào. Còn quy phạm thủ tục trả lời câu hỏi phải làm như thế nào, các
quy tắc đó phải thực hiện theo trình tự ra sao.

Câu 18: Ví dụ về quy phạm vật chất, quy phạm thủ tục, mối quan hệ?

*QPVC: là loại quy phạm được ban hành để quy định nội dung quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Các quy phạm này được ban hành
chủ yếu để quy định về địa vị pháp lí hành chính của các chủ thể tham gia quan hệ quản lí
hành chính nhà nước. Ví dụ: Quy định vể thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính của chủ
tịch uỷ ban nhân dân các cấp hay quy định về nghĩa vụ lao động công ích của công dân…

*QPTT: là loại quy phạm được ban hành để quy định những trình tự, thủ tục cần thiết mà
các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo khi thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định. Ví dụ: Các quy
phạm quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, thủ lục giải quyết khiếu nại hành
chính…

MQH: Luật thủ tục là hình thức sống của luật vật chất, không có các quy phạm thủ tục
quy định trình tự và cách thực hiện các quy phạm vật chất, thì các quy phạm vật chất sẽ
không thể đi vào đời  sống, sẽ mất giá trị, sẽ “chết trong ngăn kéo” vì không được thực
hiện.

Câu 19: Quy phạm thủ tục hành chính là gì. Ví dụ chứng minh vai trò QPTTHC?

Quy phạm thủ tục hành chính được hiểu là hệ thống các quy phạm được điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính làm phát sinh các quan hệ thủ
tục hành chính. Quy phạm thủ tục hành chính quy định các nguyên tắc thủ tục, trình tự
tiến hành, quyền của các bên tham gia thủ tục, các quyết định phù hợp với các loại thủ
tục…

Ví dụ chứng minh vai trò: Có vai trò lớn nhất trong các thủ tục xin cấp đất là quyết định
phê duyệt cuối cùng dựa trên mặt bằng quy hoạch chung đã được các cq Nhà nước có
thẩm quyền công bố. Để được phê duyệt, cá nhân hay tổ chức phải làm đơn theo mẫu quy
định, phải có xác nhận của chính quyền nơi cư trú…Tuy nhiên, các thủ tục đó tự nó
không có ý nghĩa gì nếu cq Nhà nước có thẩm quyền không thực hiện đúng thủ tục phê
duyệt cuối cùng. Khi thủ tục cơ bản này bị vi phạm thì có nghĩa là hiện tượng vi phạm
pháp luật đã bắt đầu gây ra hậu quả không tốt. Chẳng hạn như đất sẽ bị cấp sai đối tượng,
người không đủ thẩm quyền vẫn ký cấp đất, người có quyền lợi chính đáng không được
cấp đất.

Câu 20: Khái niệm, đặc điểm và phân loại quan hệ pháp luật hành chính?

1. Khái niệm

Như vậy, quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
chấp hành và điều hành của nhà nước được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành
chính giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp
luật hành chính.

1. Ðặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính.

– Quan hệ pháp luật hành chính chủ yếu chỉ phát sinh trong quá trình quản lý hành chính
nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, luôn gắn liền với hoạt động
chấp hành và điều hành của nhà nước, chúng vừa thể hiện lợi ích của các bên tham gia
quan hệ vừa thể hiện những yêu cầu và mục đích của hoạt động chấp hành – điều hành.

– Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh giữa tất cả các loại chủ thể như cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, công dân, người nước ngoài…nhưng ít nhất một bên trong quan
hệ phải là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan nhà nước khác hoặc tổ chức, cá
nhân được trao quyền quản lý. Ðiều này có nghĩa là quan hệ giữa công dân với công
dân, tổ chức với tổ chức hay tổ chức với một công dân nào đó (không mang quyền lực
hành chính nhà nước) thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính.

– Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do đề nghị hợp pháp của bất kỳ bên nào,
sự thỏa thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc cho sự hình thành quan hệ .

– Các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính phần lớn được giải quyết
theo trình tự, thủ tục hành chính và chủ yếu thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính
nhà nước.

– Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước
nhà nước chứ không phải chịu trách nhiệm trước bên kia của quan hệ pháp luật hành
chính.

1. Phân loại quan hệ pháp luật hành chính

Có các cách phân loại quan hệ pháp luật hành chính


Thứ nhất: Căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa các chủ thể thì quan hệ pháp luật
hành chính được chia thành hai nhóm:

– Quan hệ pháp luật hành chính nội bộ: là loại quan hệ pháp luật hành chính phát sinh
giữa các chủ thể có quan hệ lệ thuộc về mặt tổ chức, các quan hệ phát sinh trong quá trình
các cơ quan nhà nước kiện toàn cơ cấu tổ chức của cơ quan mình

Do yêu cầu về tính thống nhất hiệu quả hoạt động của nhà nước nên các cơ quan, tổ chức
và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước chịu sự chi phối bởi các quan hệ lệ thuộc về
tổ chức – quan hệ giữa 1 bên là cơ quan tổ chức hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền
quyết định đối với bên kia về việc thành lập giải thể hoặc bầu,  bãi nhiệm, bổ nhiệm cách
chức cán bộ, công chức.

Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính nội bộ, thường đề cập đến vấn đề như phân
cấp quản lý, chỉ đạo điều hành, kiểm tra đối với các cơ quan tổ chức trực thuộc hoặc kiện
toàn về tổ chức và bảo đảm kỷ luật về bộ máy nhà nước

Quan hê pháp luật hành chính liên hệ: là loại quan hệ pháp luật hành chính phát sinh giữa
các chủ thể không có quan hệ trực thuộc về mặt tổ chức mà trong quan hệ đó ý chí của
các bên được biểu hiện theo phương thức thỏa thuận

Đó là quan hệ giữa cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước với tổ
chức cá nhân ngoài bộ máy nhà nước.

Có thể là quan hệ ngang cấp giữa các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức trong bộ máy
nhà nước với nhau. Ví dụ: quan hệ giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế trong việc kiểm tra
khám sức khỏe công dân tham gia nghĩa vụ quân sự.

Các quan hệ hành chính liên hệ cũng có thể chuyển hóa thành quan hệ pháp luật hành
chính nội bộ, hay nói cách khác quan hệ pháp luật hành chính liên hệ là tiền đề cho quan
hệ pháp luật hành chính nội bộ. Ví dụ: trong các giai đoạn của trình tự ban hành nghị
quyết, thông tư liên tịch thì tồn tại quan hệ ngang giữa các cơ quan nhà nước với nhau
trong việc ban hành nên nghị quyết, thông tư liên tịch đó. Nhưng khi nghị quyết, thông tư
liên tịch đó có hiệu lực sẽ làm phát sinh quan hệ nội bộ (quan hệ dọc) giữa các cơ quan
ban hành và các cơ quan, tổ chức, cá nhân, thi hành nghị quyết, thông tư liên tịch đó.

Thứ hai: Căn cứ vào tính chất quyền và nghĩa vụ của các chủ thể:

Quan hệ nội dung là loại quan hệ pháp luật hành chính được thiết lập đổ trực tiếp thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đó. Các quan hệ này do quy
phạm nội dung điều chình. Ví dụ: Quan hệ giữa chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với cá
nhân phát sinh khi cá nhân này được chủ tịch uỷ ban nhân dân quyết định bổ nhiệm làm
chánh thanh tra tỉnh.

Quan hệ thủ tục là loại quan hộ pháp luật hành chính hình thành trong quá trình các chủ
thể thực hiện các thủ tục pháp lí cần thiết giúp cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của họ trong các quan hệ nội dung được nhanh chóng và đúng đắn. Các quan hệ này do
quy phạm thủ tục điều chỉnh. Ví dụ: Quan hệ giữa Thủ tướng Chính phủ với bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bò phát sinh khi bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ “kiến
nghị với Thủ tướng đình chỉ việc thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của bộ, cơ
quan ngang bộ về lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách

Câu 21: Cơ sở làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính.

Cơ sở làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính là : quy phạm
pháp luật, sự kiện pháp lý và năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức cá nhân liên
quan. Trong đó, quy phạm pháp luật hành chính năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan là điều kiện chung cho việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan
hệ pháp luật hành chính.

– Quy phạm pháp luật là quy tắc, hành vi có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận, để thể hiện ý chí nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

quy phạm pháp luật hành chính là cơ sở làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp
luật hành chính. Việc thực hiện quy phạm pháp luật hành chính được tiến hành dưới
nhiều hình thức khác nhau nhưng quan trọng nhất là chấp hành và áp dụng chúng.

Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính là một hình thức thực hiện quy phạm pháp
luật hành chính, trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện những hành vi mà pháp
luật hành chính đòi hỏi họ phải thực hiện. Ví dụ : Thực hiện nghĩa vụ lao động công ích ;
thực hiện nghĩa vụ đăng ký tạm trú, tạm vắng theo quy định của pháp luật  v.v…

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính là một hình thức thực hiện quy phạm pháp luật,
trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền căn cứ vào quy phạm pháp luật
hành chính hiện hành để giải quyết các công việc cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý
hành chính nhà nước.

– Năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan : Năng lực chủ thể là khả
năng pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính
với tư cách là chủ thể của quan hệ đó.Tùy thuộc vào tư cách của các cơ quan, tổ chức và
các cá nhân mà năng lực chủ thể của họ có những điểm khác nhau về nội dung, thời điểm
phát sinh và các yếu tố chi phối.
nhìn chung năng lực chủ thể của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được xem xét ở những
khía cạnh chủ yếu như sau:

+ Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và
chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể.Năng lực này được pháp luật hành chính quy định
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó trong quản lý hành chính
nhà nước. Ví dụ : Do có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên các cơ quan thanh
tra chuyên nghành mới có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính về xử
phạt vi pham hành chính đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chinh ; mặt khác, vì
thanh tra Chính Phủ là cơ quan của Chính Phủ chịu tránh nhiệm trước Chính Phủ thực
hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra
trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính Phủ, nên thanh tra Chính Phủ có khả năng
tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với Chính Phủ trong việc soạn thảo các văn 
bản quy phạm pháp luật của Chính Phủ về công tác thanh tra khi được Chính Phủ chỉ
định làm cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản đó.

+ Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức phát sinh khi cá nhân được nhà nước giao đảm
nhiệm một công vụ,chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước và chấm dứt khi không còn
đảm nhiệm công vu chức vụ đó. Năng lực này được pháp luật hành chính quy định phù
hợp với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ, công chức đó. Ví dụ :
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung nên có thẩm
quyền xử phạt các vi phạm hành chính phát sinh trên các lĩnh vực của quản lý hành chính
nhà nước ở địa phương.

 Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, đơn vị
hành chính – sự nghiệp …phát sinh khi nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ
của tổ chức đó trong quản lý hành chính nhà nước và chấm dứt khi không còn
những quy định đó hoặc tổ chức bị giải thể.

+ Năng lực chủ thể của cá nhân được biểu hiện trong tổng thể năng lực pháp luật hành
chính và năng lực hành vi hành chính.

Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là khả năng cá nhân được  hưởng các quyền
và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do nhà nước  quy định. Năng lực
pháp luật hành chính của cá nhân là thuộc tính pháp lý hành chính của các cá nhân.

Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được nhà nước thừa
nhận mà với khả năng đó họ có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
do những hành vi của mình mang lại.

Năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan là điều kiện chung cho việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
 Sự kiện pháp lý hành chính là những sự kiện thực tế mà việc xuất hiện, thay đổi
hay chấm dứt chúng được pháp luật hành chính gắn với việc làm phát sinh, thay
đổi hoặc làm chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.

Cũng như các sự kiện pháp lý khác,sự kiện pháp lý hành chính chủ yếu được phân loại
thành:

+ Sự biến : Là sự kiện thực tế xảy ra trong đời sống hàng ngày nhưng được pháp luật gắn
với sự xuất hiện của nó với những dấu hiệu pháp lý làm phát sinh hoặc làm thay đổi hoặc
làm chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể.

Nhưng không phải bất kỳ sự kiện thực tế nào cũng được coi là sự kiện pháp lý mà chỉ
những sự kiện thực tế được quy pham pháp luật hành chính quy định trước rằng nếu nó
sảy ra thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý, lúc đó mới xác lập là sự kiện pháp lý.

Sự biến là sự kiện sảy ra trong đời sống theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của con người.

+ Hành vi là sự kiện pháp lý chịu sự chi phối bởi ý chí của con người, mà việc thực hiện
hay không thực hiện chúng được pháp luật hành chính gắn với việc làm phát sinh, thay
đổi, hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.

Hành vi bao gồm hành đông (cách xử sự chủ động) và không hành động (cách xử sự thụ
động) là những sự kiện sảy ra phụ thuộc trực tiếp vào ý chí con người.Trong các sự kiện
pháp lý thì hành vi chiếm đại bộ phận.Các hành vi là sự kiện pháp lý rất đa dạng.Thông
thường chúng được phân loại thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.

Ÿ Hành vi hợp pháp là xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật.Rất nhiêu hành vi hợp
pháp được nhà làm luật gắn với sự hiện diện của nó với sự phát sinh, thay đổi và chấm
dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.

Căn cứ vào chủ thể ta có thể phân loại hành vi hợp pháp thành hành vi của công dân (gửi
đơn khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn,không mang hàng cấm
qua các cửa khẩu, các tổ chức nộp thuế kinh doanh…).Một loại hành vi hợp pháp quan
trọng luôn làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dứt quan hệ pháp luật là quyết định cá
biệt hợp pháp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ÿ Hành vi bất hợp pháp là xự sự trái với yêu cầu của pháp luật.Thông thường người ta
căn cứ vào tiêu chuẩn nghành luật để phân loại hành vi bất hợp pháp thành: Tội phạm,vi
phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật…Có thể phân loại hành vi
bất hợp pháp thành hành vi của công dân và hành vi của cơ quan, tổ chức.Ở đây cũng cần
lưu ý đến một hành vi bất hợp pháp quan trọng là việc ban hành các quyết định cá biệt vi
phạm pháp luật (buộc thôi việc trái pháp luật, bắt người trái phép…). Những hành vi bất
hợp pháp dẫn đến sự xuất hiện quan hệ pháp luật bảo vệ, quan hệ pháp luật về tránh
nhiệm pháp lý.

Thực tiễn pháp lý cho thấy việc phân biệt sự kiện pháp lý hành chính với các sự kiện
pháp lý khác chỉ có tinh chất tương đối. Vì : sự kiện pháp lý hành chính chỉ là một bộ
phận của sự kiện pháp lý nói chung và có nhiều sự kiện pháp lý đồng thời là sự kiện pháp
lý của một số quan hệ pháp luật khác.

Như vậy nếu quy phạm pháp luật hành chính và năng lực chủ thể của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan là điều kiện chung cho việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các
quan hệ pháp luật hành chính, thì sự kiện pháp lý hành chính là điều kiện thực tế cụ thể
và trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ đó.

Câu 22:  Cho ví dụ về 1 sự kiện pháp lý HC. Sự kiện đó làm phát sinh quan hệ HC
nào?

Sự kiện pháp lý hành chính là sự kiện thực tế phù hợp với dự liệu tại các quy phạm pháp
luật hành chính Việt Nam. Như vậy, sự kiện pháp lý hành chính là cơ sở thực tế đã làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam cụ thể. Sự
kiện pháp lý hành chính có thể là hành vi ( hành động hoặc không hành động) và sự biến.

-Hành vi là sự kiện pháp lý hành chính có tính ý chí. Đây là sự kiện mà khi xảy ra trên
thực tế gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính
Việt Nam cụ thể.

Ví dụ : Hành vi gửi đơn khiếu nại của một công dân B đến chủ tịch Uỷ ban nhân dân
huyện khiếu nại của công dân B là sự kiện thực tế phù hợp với hành vi đã dự liệu tại Luật
khiếu nại năm 2011 làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam về giải quyết
khiếu nại giữa chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện với công dân B.

-Hành vi được chia thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp. Hành vi hợp
pháp là những hành vi của cá nhân tổ chức phù hợp và không trái với quy phạm pháp luật
hành chính Việt Nam, đó có thể là yêu cầu, sáng kiến của cá nhân, tổ chức hay có thể là
hành động công vụ của cán bộ, công chức.

Hành vi bất hợp pháp là những hành vi không phù hợp, trái với quy phạm pháp luật hành
chính Việt Nam, đó có thể là yêu cầu, sáng kiến của cá nhân, tổ chức hay có thể là hành
động công vụ của cán bộ, công chức. Hành vi bất hợp pháp là những hành vi không phù
hợp, trái với quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam, hành vi hành chính trái quy định
của pháp luật. Những hành vi bất hợp pháp dẫn đến sự xuất hiện các quan hệ pháp luật về
bảo vệ, quan hệ pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
-Sự kiện là sự kiện pháp lý hành chính không mang tính ý chí. Đó là những sự kiện thực
tế xảy ra theo quy luật khách quan không phù thuộc vào ý chí của con người. Sự biến chỉ
được coi là sự kiện pháp lý hành chính khi sự biến đó đã được dữ liệu tại quy phạm pháp
luật hành chính Việt Nam.

Tóm lại, sự kiện là những sự kiện pháp lý hành chính xảy ra không phụ thuộc vào ý chí
của con người mà việc xuất hiện chúng được pháp luật hành chính Việt Nam gắn với việc
làm phát sinh thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính Việt Nam cụ thể.

Câu 23: Sự kiện pháp lý là gì ? Đặc điểm, phân loại, ý nghĩa sự kiện pháp lý?
1. Khái niệm sự kiện pháp lý

Sự kiện pháp lý là sự việc nảy sinh trong cuộc sống dưới dạng một hành vi của con người
hoặc một sự cố tự nhiên được pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
một quan hệ pháp luật nhất định như việc li hôn một cặp vợ chồng đưa đến việc chia tài
sản và giao con cho một người nuôi hoặc sự cố bão lụt làm sập cầu làm ách tắc ô tô vận
tải không thể vận chuyển đưa hàng đến đúng giờ theo hợp đồng đã kí kết.

Sự kiện pháp lí phải là một sự kiện có thật trong thực tế, nhưng một sự kiện có thật chỉ có
thể trở thành sự kiện pháp lí khi được pháp luật quy định mà trở thành cơ sở làm nảy sinh
quan hệ pháp luật.

Sự kiện pháp lí là một khái niệm pháp lí đa dạng có thể phân loại ở nhiều cấp độ khác
nhau. Ở cấp độ chung nhất, sự kiện pháp lí được phân thành hành vi và sự cố.

Hành vi là sự kiện gắn liền với con người, nảy sinh do ý chí của con người. Dấu hiệu tiêu
biểu của hành vi là biểu thị ý chí của con người – chủ thể của quan hệ pháp luật như là
đơn khiếu tố, mệnh lệnh, hợp đồng, còn sự cố là một sự biến, một hiện tượng tự nhiên,
hoàn toàn độc lập với con người nhưng vẫn làm phát sinh các quan hệ pháp luật như hạn
hán, bão lụt hoặc thiên tai nói chung. Tuy nhiên, hành vi lại có thể phân loại thành hành
động và không hành động. Hành động là hành vi, cách xử sự tích cực, chủ động như sự
việc một người đi đường gặp một người bị tai nạn đã dừng xe, đưa người bị tai nạn lên xe
và đưa đi cấp cứu là hành vi hành động và cũng người đó nhưng khi gặp người bị tai nạn
lại phất lờ, bỏ qua, phóng xe đi thẳng, đó là một trường hợp không hành động trong việc
cứu người, vi phạm vào điều cấm và làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự theo Điều
102 Bộ Luật hình sự. Xét theo tiêu chí tính hợp pháp thì hành vi (kể cả hành động và
không hành động) lại có thể phân loại thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.
Hành vi hợp pháp hay hành vi không hợp pháp đều có thể phân loại thành hành vi (hợp
pháp hoặc hợp pháp) hình sự, dân sự, lao động. hành chính… Thông thường, một sự kiện
pháp lí có thể làm phát sinh một quan hệ pháp luật như sự kiện kí kết hợp đồng làm phát
sinh quan hệ hợp đồng, nhưng trong một số trường hợp. để một quan hệ pháp luật có thể
xuất hiện phải cần đến một loạt sự kiện pháp Ií, chẳng hạn, để nhận được lương hưu cần
đến một số sự kiện pháp lí, như phải đạt đến một tuổi đời nhất định như nam – 60 tuổi, nữ
55 tuổi, tuổi về hưu – năm công tác 30 năm, nữ 25 năm; đơn xin hưởng lương hưu, quyết
định của cơ quan bảo hiểm xã hội và có thể một sự kiện khác. Trong trường hợp này, các
sự kiện pháp lí tập hợp lại thành một tập hợp sự khăng khít với nhau. Nhưng trong một số
trường hợp, khoa học pháp lí và cả trong thực tiễn tư pháp lại chấp nhận trường hợp giả
định mà theo thuật ngữ chuyên môn gọi là “suy đoán” như suy đoán vô tội được vận
dụng rộng rãi trong khoa học và thực tiễn tố tụng hình sự.
2. Đặc điểm của sự kiện pháp lý

Một sự việc chỉ được coi là sự kiện pháp lý khi nó có những đặc điểm sau:

– Sự kiện phải được thể hiện trên thực tế dưới dạng hành vi hoặc những sự kiện nằm
ngoài ý chí của con người nhưng để lại hậu quả thực tiễn với các chủ thể tham gia quan
hệ đó.
– Sự kiện đó được đề cập trong phần giả định của các quy phạm pháp luật và khi nó xảy
ra thì sẽ làm cho quy tắc xử sự nêu trong phần quy định của quy phạm phát sinh hiệu lực.

– Khi sự kiện đó xảy ra thì sẽ gây ra những hậu quả pháp lý nhất định, tức là làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.

Ví dụ: Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam quy định nam, nữ đủ tuổi kết hôn phải làm thủ
tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là sự kiện pháp lý vì nó làm phát
sinh quan hệ hôn nhân giữa các chủ thể.
3. Phân loại sự kiện pháp lý

Sự kiện pháp lý có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu chí
phân loại khác nhau. Cụ thể:

Căn cứ vào vào mối liên hệ giữa sự kiện thực tế xảy ra với ý chí của thể tham gia quan
hệ pháp luật:

Sự kiện pháp lý được chia thành hai loại: sự biến và hành vi.

– Sự biến

Là những sự kiện pháp lí xảy ra và hậu quả của nó nằm ngoài ý chí của chủ thể quan hệ
pháp luật. Đó là những hiện tượng tự nhiên như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, sinh tử,
… mà sự xuất hiện của chúng đã làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, sự biến còn phải gắn liền với đời sống con người và dẫn tới hậu quả pháp lý
mới được coi là sự biến. Những hiện tượng tự nhiên như thiên tai, bão lũ xảy ra ở nơi
hoang vắng không có người ở, thì chỉ là sự kiện thông thường, không được coi là sự kiện
pháp lý. Những hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, nhật thực, nguyệt thực, hoa quả đâm
chồi nảy lộc vào mùa xuân,….cũng không phải là sự kiện pháp lí vì chúng là quá trình
phát triển thông thường của tự nhiên, không gắn với cuộc sống của con người và không
dẫn tới hậu quả pháp lý nào.

Sự biến pháp lý bao gồm hai loại là sự biến tuyệt đối và sự biến tương đối.

+ Sự biến tuyệt đối là sự kiện vốn là kết quả của một hiện tượng tự nhiên nhưng làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.

+ Sự biến tương đối là sự kiện vốn là kết quả của một sự việc hoặc hành vi xảy ra trong
thực tế nhưng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.

– Hành vi

Là sự kiện pháp lí xảy ra do ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật, được thể hiện dưới dạng
hành động hoặc không hành động.

Tuy nhiên, hành vi đó phải do chính chủ thể có đầy đủ nhận thức thực hiện dẫn tới các
hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Ngược lại, hành vi do những người mất khả
năng nhận thức, hạn chế về nhận thức thực hiện không được coi là sự kiện pháp lý mà chỉ
lá sự biến pháp lý do họ không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nên họ không
thể chịu trách nhiệm pháp lý cho những hậu quả do hành vi của mình gây ra.

Căn cứ vào hậu quả pháp lý:

Sự kiện pháp lý được chia thành ba loại:

– Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật

VD: Việc kết hôn dẫn đến hình thành quan hệ hôn nhân.

– Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật

VD: Việc sáp nhập doanh nghiệp A và doanh nghiệp Bcó thể làm thay đổi chủ thể và cả
một số nội dung của quan hệ hợp đồng còn dang dở mà bên A đã ký kết và đã chuyển
giao cho B tiếp tục thực hiện.

– Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật

VD: Sự kiện người chết làm chấm dứt quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ xã hội, quan
hệ lao động,… của công dân đó với nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, cách phân loại này chỉ có tính chất tương đối vì cùng một sự kiện pháp lý có
thể làm phát sinh quan hệ pháp luật này nhưng lại làm thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật khác.

VD: Sự kiện người chết làm chấm dứt các quan hệ pháp luật của công dân nhưng đồng
thời cũng làm phát sinh quan hệ thừa kế.

Căn cứ vào số lượng sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lý:

Sự kiện pháp lý gồm hai loại: sự kiện pháp lý đơn nhất và sự kiện pháp lý phức hợp.

– Sự kiện pháp lý đơn nhất

Là sự kiện chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự kiện thực tế này với việc
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.

Ví dụ: A đưa xe vào bãi giữ xe và nhận vé giữ xe, đó là một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ hợp đồng gửi giữ giữa A với người giữ xe và là sự kiện pháp lý đơn nhất.

– Sự kiện pháp lý phức hợp

Là sự kiện bao gồm nhiều sự kiện thực tế mà nếu thiếu đi một trong các sự kiện cấu thành
tập hợp đó thì quan hệ pháp luật không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt.

Ví dụ: Quan hệ nghỉ hưu của người lao động chỉ phát sinh khi họ có đủ các điều kiện về
độ tuổi, số năm đóng bảo hiểm và quyết định cho nghỉ hưu của chủ thể có thẩm quyền…
4. Ý nghĩa của sự kiện pháp lý

Sự kiện pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện pháp
luật vì nó làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật, từ đó giúp cơ quan nhà
nước có căn cứ để xác định nguồn luật điều chỉnh nhằm quản lý, giải quyết các vấn đề
giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật được thuận lợi, dễ dàng hơn.

Ngoài ra, sự kiện pháp lý còn là cơ sở để xây dựng pháp luật vì bản chất sự việc pháp lý
là những sự kiện thông thường diễn ra trên thực tế mà pháp luật lại được sinh ra thực tiễn
đời sống xã hội, gắn liền với xã hội. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật, các nhà làm luật cần
nắm chắc sự kiện pháp lý để xây dựng những quy định pháp luật phù hợp, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá thể trong xã hội.

Câu 24 : Chủ thể luật hành chính và chủ thể quan hệ pháp luật hành chính khác
nhau ở điểm nào?
Chủ thể của Luật hành chính là các cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể pháp luật
hành chính. Các cá nhân – chủ thể Luật hành chính là những công dân Việt
Nam, người nước ngoài và người không có quốc tịch sinh sống, người học tập trên lãnh
thổ Việt Nam. Các tổ chức là các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế,
đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị vũ trang…

Chủ thể pháp luật hành chính là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên
tham gia quan hệ pháp luật hành chính có những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở
những quy phạm pháp luật hành chính. Quan hệ pháp luật hành chính là một loại quan hệ
pháp luật, là hình thức thể hiện của quan hệ xã hội, có tính ý chí, do đó chủ thể của pháp
luật hành chính chỉ là cá nhân hoặc tổ chức.
Chủ thể pháp luật hành chính được nhà nước trao cho năng lực chủ thể pháp luật hành
chính, tức là khả năng trở thành chủ thể pháp luật hành chính, chủ thể quản lý pháp luật
hành chính mà khả năng đó được nhà nước thừa nhận.

Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau
theo quy định của pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy
định của pháp luật hành chính. Như vậy, điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải có
năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà họ tham gia.

Câu 25: Khái niệm KH luật hành chính, đối tượng, phương pháp nghiên cứu:

Khái niệm khoa học Luật Hành chính

Là một hệ thống thống nhất những học thuyết , luận điểm khoa học , những khái niệm ,
phạm trù về ngành Luật Hành chính.

– Cơ sở lí luận của khoa học luật hành chính

Là chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là triết học Mác-Lênin. Chính vì vậy, phương pháp
luận là duy vật biện chứng.

Lênin – lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, là người đã nêu ra những luận điểm cơ bản về
tổ chức, quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nguồn tư liệu quan trọng là đường lối, chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam. Các văn
kiện của Đảng, bài phát biểu của các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước là sự vận dụng sáng
tạo lí luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào những điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam. Do đó chúng có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của khoa học này.
Khoa học luật hành chính coi trọng việc tham khảo những tác phẩm nghiên cứu lí luận về
luật hành chính,khoa học luật hành chính của các nước trên thế giới. Điều đó dựa trên cơ
sở nắm vững thực tiễn Việt Nam, phát huy tính độc lập tự chủ. Từ đó có thể tiếp thu lí
luận và kinh nghiệm một cách đúng đắn, có phê phán.

Nó sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu như phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,V.V..

Nó có mối quan hệ mật thiết với các khoa học xã hội cơ bản như triết học, kinh tế – chính
trị học Mác-Lênin… Triết học Mác-Lênin là cơ sớ nhận thức luận và phương pháp luận
của khoa học luật hành chính.

Nó cũng có mối quan hệ mật thiết với lí luận về nhà nước và pháp luật, với khoa học luật
hiến pháp.

Nó cũng có liên hệ mật thiết với nhiều môn khoa học nghiên cứu về hoạt động quản lí,
đặc biệt là với khoa học quản lí.

Sự phát triển của cả hai ngành khoa học này là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần hoàn thiện bộ máy và tăng cường hiệu lực của Nhà nước.

– Đối tượng nghiên cứu của Khoa học Luật Hành chính

Hệ thống quy phạm Luật Hành chính. Nó bao gồm: nội dung, phân loại, hệ thống hóa và
pháp điển hóa….. Ngoài ra còn có các vấn đề hoàn thiện các chế định, hiệu quả quy
phạm hành chính.

Các quan hệ pháp luật hành chính. Nó bao gồm nội dung pháp lý, cơ cấu của các quan hệ
đó. Ngoài ra còn có quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Đồng thời có những cơ
chế bảo đảm thực hiền quyền và nghĩa vụ đó.

Quy chế pháp lý của các chủ thể Luật Hành chính.

Các hình thức và phương pháp hoạt động hành chính. Ví dụ như là quyết định hành
chính, cưỡng chế hành chính, trách nhiệm hành chính, thủ tục hành chính,…

Các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính.

Các vấn đề mang tính tổ chức – pháp lý của hoạt động hành chính.

Theo đó, khoa học Luật Hành chính có nhiệm vụ làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận cơ bản
của Luật Hành chính.
Câu 26: Mối quan hệ giữa luật HC với khoa học LHC:

– LHC và khoa học LHC có mối liên hệ rất chặt chẽ.

Khoa học luật hành chính là một ngành KH pháp lý chuyên ngành gồm một hệ thống
những luận thuyết KH, những khái niệm, phạm trù, quan niệm về ngành LHC, được phân
bổ, sắp xếp theo một trình tự logic nhất định cấu thành KH LHC.

Mối quan hệ này thể hiện rõ ở đối tượng nghiên cứu của KH LHC:

+ KH LHC nghiên cứu những vấn đề của lý luận QLHCNN có liên quan chặt chẽ tới
ngành LHC (như nội dung, vị trí của QLHCNN trong cơ chế quản lý xã hội, cơ cấu, bản
chất, chức năng, phương pháp thực hiện, các nguyên tắc chính trị và tổ chức của
QLHCNN…)

+ Nghiên cứu hệ thống Quy phạm LHC điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các ngành và
lĩnh vực QLHCNN, các vấn đề hoàn thiện các chế định PLHC, hệ thống hoá và pháp điển
hoá LHC; vấn đề hiệu quả của quy phạm LHC

+ Nghiên cứu về nội dung pháp lý, cơ cấu, tương quan giữa các yếu tố nội tại của các
quan hệ PLHC; quan hệ và cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
quan hệ PLHC

+ Nghiên cứu các hình thức và phunơg7 pháp QLHCNN, thủ tục hành chính, trách nhiệm
hành chính

+ Nghiên cứu các phương thức kiểm soát đối với hoạt động HCNN

+ Nghiên cứu cơ sở PLHC đối với tổ chức và hoạt động QLHCNN đối với các ngành và
lĩnh vực.

Trên cơ sở đó, KH LHC đề xuất những kiến nghị khoa học đổi mới tổ chức bộ máy và
phương thức hoạt động của bộ máy, đáp ứng nhiệm vụ phức tạp của QLHCNN hiện nay
đồng thời làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở hoạt động giảng dạy.

Câu 27: Phân biệt sự khác nhau giữa khoa học Luật Hành chính và môn học LHC:

Khoa học Luật Hành chính

Là một hệ thống thống nhất những học thuyết, quan niệm, luận điểm khoa học, những
khái niệm, phạm trù về ngành Luật hành chính. Nhiệm vụ của khoa học Luật hành chính
là nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện sự điều chỉnh pháp luật hành chính đối với
các quan hệ xã hội thực tế đồng thời làm sáng tỏ các vấn đề thuộc dạng lý luận để tạo cơ
sở cho hoạt động giảng dạy Luật hành chính trong các trường đào tạo luật.

Môn học Luật Hành chính

Là môn học được xây dựng trên cơ sở khoa học Luật hành chính với chương trình học
khác nhau đối với từng cơ sở đào tạo luật.

Câu 28: Phân biệt giữa ngành Luật Hành chính và Khoa học Luật Hành chính

Ngành Luật Hành chính Việt Nam

Là ngành luật điều chỉnh các hoạt động hành chính nhà nước cụ thể là điều chỉnh những
quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong lĩnh vực tổ chức và
hoạt động hành chính nhà nước.

Do đặc trưng của mối quan hệ xã hội mà luật hành chính điều chỉnh có sự tham gia của
một bên chủ thể là các cơ quan hành chính nhà nước, khác với các ngành luật khác như
Luật dân sự, Luật thương mại,… nên Luật hành chính còn được gọi là ngành luật công.

Khoa học Luật Hành chính

Là một hệ thống thống nhất những học thuyết, quan niệm, luận điểm khoa học, những
khái niệm, phạm trù về ngành Luật hành chính. Nhiệm vụ của khoa học Luật hành chính
là nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện sự điều chỉnh pháp luật hành chính đối với
các quan hệ xã hội thực tế đồng thời làm sáng tỏ các vấn đề thuộc dạng lý luận để tạo cơ
sở cho hoạt động giảng dạy Luật hành chính trong các trường đào tạo luật.

Như vậy, định nghĩa khoa học Luật Hành chính là khái niệm bao hàm phạm vi nghĩa rộng
hơn so với ngành Luật Hành chính.

Câu 29: Khái niệm, bản chất và đặc trưng của hoạt động quản lí hành chính nhà
nước

Quản lý hành chính nhà nước chính là hoạt động thể hiện tính quyền lực của nhà nước
trong việc quản lý nhà nước, nó là được hiểu là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà
nước và được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp, có nội dung để bảo
đảm sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước,
nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên đối với  công cuộc xây dựng
kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị của một nhà nước. Quản lý hành chính
nhà nước bao gồm 5 đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước.

Quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước trước hết thể hiện ở việc các chủ
thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định , trong đó
phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hành chính
nhà nước . Bằng việc ban hành văn bản , chủ thể quản lý hành chính nhà nước thể hiện ý
chí của mình dưới dạng các chủ trương , chính sách pháp luật nhằm định hướng cho hoạt
động xây dựng và áp dụng pháp luật ; dưới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các
quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và của cấp trên thành những quy
định chi tiết để có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn ; dưới dạng các mệnh lệnh cá
biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn , trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ quản lý ; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ đạo cấp dưới trong hoạt
động ,nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn ; dưới dạng những thông tin
hướng dẫn đối lập với cấp dưới nhằm đảm bảo sự thống nhất , có hệ thống của bộ máy
hành chính nhà nước .

Bên canh đó , quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm quyền tiến
hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà nước , như các biện pháp
về tổ chức , về kinh tế , tuyên truyền giáo dục , thuyết phục cưỡng chế … Chính những
biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh nhà nước , một bộ phận tạo
nên quyền lực nhà nước , nhờ đó ý chí của chủ thể quản lý hành chính nhà nước được bảo
đảm thực hiện .

Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt hoạt động quản lý hành chính với những hoạt
động quản lý không mang tính quyền lực nhà nước , nhu quản lý trong nội bộ của các
đảng phái chính trị , các tổ chức xã hội , doanh nghiệp… Trong các hoạt động quản lý phi
nhà nước , quyền lực cũng được sử dụng nhưng không phải là quyền lực nhà nước , chỉ
tác động trong nội bộ tổ chức , nhằm đạt mục tiêu của tổ chức trong khuôn khổ pháp
luật ; các chủ thể quản lý cũng thể hiện ý chí và sử dụng sức mạnh của mình để bảo đảm
thực hiện ý chí đó , tuy nhiên họ chỉ nhân danh cá nhân hay tổ chức mình mà không nhân
danh nhà nước .

Thứ hai, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi những chủ
thể có quyền năng hành pháp.

Cách hiểu phổ biến hiện nay thì nhà nước có ba quyền năng : lập pháp , hành pháp và tư
pháp .Trong đó , quyền năng hành pháp trước hết và chủ yếu thuộc về các cơ quan hành
chính nhà nước , tuy nhiên trong rất nhiều hoạt động khác như : việc ổn định tổ chức nội
bộ của các cơ quan nhà nước , hoạt động quản lý được tiến hành bởi các bộ…Trong
những trường hợp này quyền năng hành pháp cũng thể hiện rõ nét và nếu xét về bản chất
thì tương đồng với hoạt động hành pháp của các cơ quan hành chính nhà nước . Do dó ,
có thể kết luận chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các chủ thể mang quyền lực nhà
nước trong lĩnh vực hành pháp , bao gồm : cơ quan hành chính nhà nước và công chức
của những cơ quan này ; thủ trưởng của các cơ quan nhà nước ; các công chức nhà nước ,
cá nhân hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền quản lý hành chính đối với một số
loại việc nhất định . Và như vậy , quản lý hành chính nhà nước có đối tượng tác động là
các quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội , từ quan trọng tới ít
quan trọng , từ phổ biến tới cá biệt , phát sinh trong đời sống dân cư , đời sống pháp luật
và trong nội bộ của các cơ quan nhà nước . Trong khi đó hoạt động lập pháp , tư pháp chỉ
phát sinh trong phạm vi tương đối hẹp , có đối tượng tác động là những quan hệ xã hội
quan trọng .

Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức
chặt chẽ.

Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp , bộ máy các cơ quan hành pháp
được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa phương , đứng đầu là
Chính phủ , nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo , điều hành thống nhất , bảo
đảm lợi ích chung của cả nước , bảo đảm sự liên kết , phối hợp nhịp nhàng giữa các địa
phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả , tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa
phương hay vùng miền khác nhau . Tuy nhiên , do mỗi địa phương đều có những nét đặc
thù riêng về điều kiện kinh tế – xã hội , nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của
từng địa phương , tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành , bộ máy hành chính
còn được tổ chức theo hướng phân cáp , trao quyền tự quyết , tạo sự chủ động sáng tạo
cho chính quyền địa phương .

Để cùng lúc đạt được hai mục đích này , nguyên tắc “ hai chiều lệ thuộc” được sử dụng
như một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước . Theo đó ,
loại trừ Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính nhà thì mỗi cơ quan khác
trong bộ máy này đều lệ thuộc vào hai cơ quan : một cơ quan theo chiều dọc để đảm bảo
sự thống nhất của bộ máy ; một cơ quan theo chiều ngang để đảm bảo sự chủ động của
mỗi cấp quản lý . Vấn đề căn bản được đặt ra trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước là xác định hợp lý thẩm quyền của mỗi cấp quản lý , vừa tránh được sự chồng chéo
chức năng , vừa không bỏ lọt những lĩnh vực cần quản lý ;vừa bảo đảm sự điều hành
xuyên suốt , thống nhất trong bộ máy , vừa tạo ra được sự chủ động , sáng tạo của mỗi
cấp quản lý , có như vậy mới vừa bảo đảm thống nhất lợi ích chung của nhà nước , vừa
đảm bảo lợi ích của từng địa phương .

Thứ tư, hoạt động quản lý hành chính nhà nước có tính chấp hành và điều hành.

Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước thể hiện trong việc những
hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp
luật , cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng không được
vượt quá khuôn khổ pháp luật , điều hành cấp dưới , trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ
chức những hoạt động thực tiễn… , trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa
pháp luật .
Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong việc chủ thể có
thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội . Trong quá trình đó , các
chủ thể này , không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà quan trọng hơn cả chúng đảm
nhận chức năng chi đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan , đơn vị trực thuộc
theo một quy trình thống nhất ; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật
nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý .

Như vậy , trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước , tính chấp hành và tính điều
hành luôn đan xen , song song tồn tại , tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước , nhờ đó có thể phân biệt với hoạt động lập pháp và tư pháp : trong lập
pháp , chấp hành là để xây dựng pháp luật làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn ;
trong tư pháp , chấp hành là để bảo vệ pháp luật tránh khỏi sự xâm hại ; còn trong quản lý
hành chính , chấp hành là để tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội .

Thứ năm, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính liên tục.

Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính nhà nước luôn cần có tính
liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội.
Chính điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về
tổ chức và hoạt động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nước; tạo
ra bộ máy hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức năng
động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình

Câu 30: Phân biệt quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước
Phân biệt quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước
Thứ nhất: Quản lý nhà nước
– Khái niệm:

Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước
thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo những mục tiêu mà
tầng lớp cầm quyền theo đuổi.

Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy
nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất.
Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan hành
pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.

Quản lý tài sản là quá trình quản lý bắt đầu từ việc xac định mục tiêu đến khi đạt được
hiệu quả thực tế, tạo thành một chu kì quản lý liên tục nối tiếp nhau. Quản lý xuất hiện
trong mọi tổ chức, tập thể có hoạt động chung.
Chủ thể quản lý nhà nước là cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước,
được sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý. Pháp luật là công cụ chủ yếu của quản lý
nhà nước. Đôi tượng quản lý nhà nước là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong một quốc
gia, là sinh hoạt, đời sống của xã hội diễn ra trên từng lĩnh vực.

Quản lý nhà nước được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và được phân biệt với
quản lý mang tính chất nội bộ một tổ chức xã hội, đờn thể, đơn vị, xí nghiệp, một cộng
đồng dân cư mang tính tự quản.
– Đặc điểm của quản lý nhà nước:

Dựa trên khái niệm, ta có thể dễ dàng rút ra được một số đặc điểm nổi bật của quản lý
nhà nước như sau:

+ Mang tính quyền lực tối cao, tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Được thiết lập
dựa trên cơ sở mối quan hệ “ủy quyền” và “sự phục tùng”.

+ Mang tính khoa học, tính kế hoạch: đặc điểm này đòi hỏi Nhà nước cần có sự tổ chức
các hoạt động quản lý của mình lên đối tượng bị quản lý phải nhất quán, cụ thể dựa trên
những kế hoạch đã được vạch ra từ trước và phải được nghiên cứu một cách khoa học.

+ Mang tính tổ chức và điều chỉnh: tính tổ chức ở đây có thể được heieru là khoa học về
cách thức thiết lập mối quan hệ giữa con người với con người phục vụ cho quá trình quản
lý xã hội. Còn tính điều chỉnh chính là cách mà nhà nước sử dụng các công cụ pháp luật
để buộc đối tượng bị quản lý phải tuân theo những quy luật xã hội khách quan.

+ Mang tính liên tục, ổn định: hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên,
liên tục, không bị gián đoạn bắt kịp với sự vận động biến đổi của đối tượng quản lý. Các
quyết định của nhà nước phải có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Điều này
giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện toàn họt động của mình và hệ thống hành vi xã
hội được ổn định.
Thứ hai: Quản lý hành chính nhà nước
– Khái niệm:

Quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn quản lý nhà nước.

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động  thực thi quyền hành pháp, tức là hoạt động
chấp hành và điều hành.

Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cácn bộ, công chức hành chính nhà
nước trong hệ thống hành chính từ Trung ương tới cơ sở.
Như vậy, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với  các quá trình xã hội và
hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở thực hiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển kinh tế –
xã hội, duy trì trật tự an ninh, thõa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân.
– Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước:

+ Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước:

Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính
mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực
nhà nước để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các hoạt động quản lý
khác.

+ Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế hoạch để
thực hiện mục tiêu.

Mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước là mục tiêu tổng hợp, bao gồm: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao… Các mục tiêu này mang tính trước
mắt và lâu dài. Để đạt được mục tiêu, hành chính nhà nước cần xây dựng các chương
trình, dự án và hệ thống kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

+ Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt:

Tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt này được thể hiện trong việc điều hành, phối hợp,
huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội theo đúng chức năng, thẩm quyền.

+ Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng:

Nhiệm vụ hành chính nhà nước là phục vụ xã hội và công dân. Đây là công việc hàng
ngày, thường xuyên và liên tục vì các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân được pháp
luật điều chỉnh diễn ra thường xuyên, liên tục.

+ Quản lý hành chính nhà nước có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao:

Quản lý hành chính nhà nước có nội dung phức tạp và đa dạng đòi hỏi các nhà hành
chính phải có kiến thức xã hội, kiến thức quản lý hành chính và kiến thức chuyên môn
sâu rộng. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tiêu chuẩn về năng lực chuyên
môn của đội ngũ cán bộ, công chức phải là tiêu chuẩn hàng đầu.

+ Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ.
+ Quản lý hành chính nhà nước ở nước ta không có sự tách biệt tuyệt đối giữa người
quản lý và người bị quản lý.

Câu 31: Khái niệm và hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước:
I. Khái niệm – Đặc điểm
1. Khái niệm nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước

Nguyên tắc trước hết được hiểu là “Ðiều cơ bản định ra, nhất thiết phái tuân theo trong
một loạt việc làm“. Trong quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc cơ bản là
những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ
bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt động quản lý
hành chính nhà nước.

Dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là
tổng thể những quy phạm pháp luật hành chính có nội dung đề cập tới những tư tưởng
chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Mỗi
nguyên tắc quản lý đều có những hình thức biểu hiện khác nhau.

Các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc quản lý hành chính nhà
nước nói riêng đã được quy định trong pháp luật như quy định trong hiến pháp, luật, văn
bản dưới luật. Những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp được xem là nguyên tắc
cơ bản nhất.

Như vậy, nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng, quan điểm chỉ
đạo đảm bảo hoạt động quản lý hành chính nhà nước diễn ra đúng định hướng.
II. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước
1. Các nguyên tắc chính trị – xã hội

a) Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo

 Cơ sở pháp lý : Ðiều 4-Hiến pháp 1992 quy định : “Ðảng cộng sản Việt Nam-
đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội”.
 Nội dung nguyên tắc

Bằng những hình thức và phương pháp lãnh đạo của mình, Ðảng cộng sản giữ vai
trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của nhà nước trên mọi lĩnh
vực; sự lãnh đạo của Ðảng đối với nhà nước mang tính toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội…Sự lãnh đạo đó chính là việc định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường
lối, quan điểm giai cấp, phương châm, chính sách, công tác tổ chức trên lĩnh vực chuyên
môn.

Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện cụ thể ở các hình
thức hoạt động của các tổ chức Ðảng:

1. Trước hết, Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc đưa ra
đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác
nhau của quản lý hành chính nhà nước. Trên cơ sở đường lối chủ trương, chính
sách của Ðảng thông qua các Nghị quyết, các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước xem xét và đưa ra các quy định quản lý của mình để từ đó đường lối, chủ
trương, chính sách của Ðảng sẽ được cụ thể hóa, thể chế hóa trong quản lý hành
chính nhà nước.
2. Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong công tác tổ
chức cán bộ. Các tổ chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào tạo những Ðảng viên ưu tú,
có phẩm chất và năng lực gánh vác những công việc trong bộ máy hành chính
nhà nước, đưa ra các ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị
trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ
nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để cơ quan xem xét và đưa ra
quyết định cuối cùng.
3. Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thông qua công tác kiểm tra
việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng trong quản lý hành
chính nhà nước. Thông qua kiểm tra xác định tính hiệu quả, tính thực tế của các
chủ trương chính sách mà Ðảng đề ra từ đó khắc phục khiếm khuyết, phát huy
những mặt tích cực trong công tác lãnh đạo.
4. Sự lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực hiện
thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của từng
Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy tín của Ðảng đối với dân, với cơ quan
nhà nước.
5. Ðảng chính là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo của Ðảng là
cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi
cuốn nhân dân lao động tham gia thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở
tất cả các cấp quản lý.
6. Ðây là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, cần được vận
dụng một cách khoa học và sáng tạo cơ chế Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước, tránh khuynh hướng
tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Ðảng cũng như khuynh hướng hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đường lối, chính
sách của Ðảng không được dùng thay cho luật hành chính, Ðảng không nên và
không thể làm thay cho cơ quan hành chính nhà nước. Các nghị quyết của Ðảng
không mang tính quyền lực- pháp lý. Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước không thể tách rời sự lãnh đạo của Ðảng.

b) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

 Cơ sở pháp lý : Ðây là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi vì trước hết việc tổ chức và hoạt động
hành chính phải hợp pháp, tức là phải tuân theo pháp luật. Tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa vì vậy là một biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa. “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa”. (Ðiều 12- Hiến pháp 1992)
 Nội dung nguyên tắc

Biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước
như sau:

1. Trong lĩnh vực lập quy

Khi ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan hành
chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng vị trí cao nhất
của hiến pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật ban hành không được trái với hiến
pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm
vi thẩm quyền và hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

2. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật

Việc áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,
tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, phải
thiết lập trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp dụng quy phạm pháp luật, mọi vi
phạm phải xử lý theo pháp luật, áp dụng pháp luật phải đúng nội dung, thẩm quyền và
phải tôn trọng những văn bản quy phạm pháp luật do chính cơ quan ấy ban hành.

3. Trong lĩnh vực tổ chức

Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi việc thực hiện pháp chế
phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý và ngay trong bộ máy quản
lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức năng này. Vi phạm nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
và nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, vi
phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau.
4. Trong việc quản lý nói chung

Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định hành chính và hành
vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trực tiếp hoặc
gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp dụng trên cơ sở hiến định.

5. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật

Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của
mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động
quản lý gắn liền với một chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý.
Chế độ trách nhiệm ấy thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn,
yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để
pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp
luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể
quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự
kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và công
dân.

c) Nguyên tắc tập trung dân chủ

 Cơ sở pháp lý : Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà
nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên
tắc này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc hội, hội đồng nhân dân và các
cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ.
 Nội dung nguyên tắc

Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ,
vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ
dưới sự lãnh đạo tập trung.

¨ Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những
vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp
dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương;
đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc
giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối
hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng
phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
¨ Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ
quan quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan
quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền
chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống “song trùng trực thuộc” của nhiều cơ
quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền
quản lý tổng thể của địa phương.

¨ Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên
xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết
hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ
khi ra đời, mỗi cấp đã có “sứ mệnh lịch sử” và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng,
đặc thù. Có những chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên,
hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là
một ví dụ. Hương ước không thể được “lập ra” ở cấp huyện, cấp mà có thể có rất nhiều
làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau. Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ
được biểu hiện cụ thể như sau:

– Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp.

Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra
để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản
lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó
luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

+ Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập,
thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.

+ Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của
cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp.

Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động,
bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách
nhiệm trước nhân dân.
– Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương.

Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà nước để chỉ
đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ
xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ.

+ Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp
luật.

+ Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác
tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước.

+ Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được “thẩm quyền cấp mình”.
Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động
sáng tạo của địa phương, cấp dưới.

– Sự phân cấp quản lý.

Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà
nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức
cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.

Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân
cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:

+ Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt,
những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã
hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.

+ Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động
sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục
vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.

+ Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình
trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp
dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực
hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng
thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới.

– Sự hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở
quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã
hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật
chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý
thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ
sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một
cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện
“dân là gốc” trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

– Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ
thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên.

Ví dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều ngang, một
mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.

Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.

Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác phụ thuộc
vào Bộ Tư pháp.

Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo
đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi
ích ngành với lợi ích của lãnh thổ.

d) Nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước

 Cơ sở pháp lý :  Ðiều 2 – Hiến pháp 1992 nêu rõ : “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức”.
 Nội dung nguyên tắc

Việc tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý hành chính nhà nước thông
qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp tương ứng như sau:
1. Tham gia gián tiếp:

* Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước

Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, việc
nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích
cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu
đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp
vào công việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

– Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là
thành viên của cơ quan này – họ là những đại biểu được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc
với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi ở cương vị là
thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương trong đó có các vấn đề
quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì người lao
động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình
thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.

– Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà
nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình
vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức tham gia
rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

*  Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội

– Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tích cực vào hoạt động
của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội là công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong
việc thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Thông qua các hoạt
động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát
huy. Ðây là một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở
rộng nền dân chủ ở nước ta.

2. Tham gia trực tiếp

*  Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở

– Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện, các hoạt động này gần gủi
và thiết thực đối với cuộc sống của người dân như hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ
sinh môi trường,…Những hoạt động này xảy ra ở nơi cư trú, làm việc, sinh hoạt nên
mang tính chất tự quản của nhân dân.
– Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người lao động là những chủ
thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của họ được
tôn trọng và bảo đảm thực hiện.

* Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà
nước

– Ðiều 53-Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội hay chính người dân trực tiếp thực hiện.

– Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước.

– Tham gia trực tiếp với tư cách là thanh viên không chuyên trách trong hoạt động cơ
quan quản lý, các cơ quan xã hội.

– Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải quyết những vấn
đề quan trọng của cơ quan…

Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính
nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò
làm chủ của mình.

Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể
hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính
nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu cho rắng cán bộ hành chính nhà nước vi
phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình tham
gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân
lao động. Ðiều này này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong
quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực
hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào
quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận của nguyên tắc vì vậy chỉ có ý
nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền của
công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp những gì mà
Hiến pháp đã định.

e) Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc

 Cơ sở pháp lý : Ðiều 5- Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước thực hiện chính
sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi
kỳ thị, chia rẽ dân tộc”
 Nội dung nguyên tắc
 Trong công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ : Nhà nước ưu tiên
đối với con em các dân tộc ít người, thực hiện chính sách
khuyến khích về vật chất, tinh thần để họ học tập. Số cán bộ
nhà nước là người dân tộc ít người cũng chiếm một số lượng
nhất định trong cơ quan nhà nước, tạo điều kiện cho người dân
tộc ít người cùng tham gia quyết định những vấn đề có liên
quan đến quyền và lợi ích chính đáng của họ và các vấn đề
quan trọng khác của đất nước.
 Trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế-văn
hóa-xã hội :
 Nhà nước chú ý tới việc đầu tư xây dựng
công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng
ở các vùng dân tộc ít người, một mặt khai
thác những tiềm năng kinh tế, xóa bỏ sự
chênh lệch giữa các vùng trong đất nước, đảm
bảo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
các dân tộc ít người.
 Nhà nước có những chính sách đúng đắn đối
với người đi xây dựng vùng kinh tế mới, tổ
chức phân bố lại lao động một cách hợp lý tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc ít người
nâng cao trình độ về mọi mặt.

Những ưu tiên cho các dân tộc ít người là sự cần thiết không thể phủ nhận nhằm bù đắp
phần nào cho việc thiếu thốn điều kiện, đồng thời để tất cả các dân tộc có thể đủ điều kiên
để vươn lên trong xã hội. Tuy nhiên, sự ưu tiên chính sách sẽ mất đi tác dụng nếu vượt
khỏi phạm vi khuyến khích, động viên. Nếu sự ưu tiên quá lớn, chắc chắn sẽ dẫn đến việc
cùng một vị trí giống nhau, nhưng hai khả năng không tương đồng nhau. Ðiều này sẽ dẫn
đến những khó khăn nhất định trong công việc chung cũng như cho chính bản thân người
được ưu tiên đó.
2. Các nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật

a) Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa giới hành chính.

Ngành là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất, kinh doanh có cùng
một cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với cùng một mục đích
giống nhau. Có sự phân chia các hoạt động theo ngành tất yếu dẫn đến việc thực hiện
hoạt động quản lý theo ngành.
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã
hội có cùng cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay hoạt động với cùng một mục đích giống nhau
nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp
nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội. Hoạt động quản lý theo ngành
được thực hiện với hình thức, qui mô khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng
địa hay một vùng lãnh thổ.

Quản lý theo địa giới hành chính là quản lý trên một phạm vi địa bàn nhất định theo sự
phân vạch địa giới hành chính của nhà nước. Quản lý theo địa giới hành chính ở nước ta
được thực hiện ở bốn cấp:

– Cấp Trung ương (cấp nhà nước)

– Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

– Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

– Xã, phường, thị trấn.

Nội dung của hoạt động quản lý theo địa giới hành chính gồm đề ra các chủ trương, chính
sách, có quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên một phạm vi toàn lãnh thổ.
Bắt đầu từ qui hoạch xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng cho sản xuất, đời sống dân cư
sống và làm việc trên lãnh thổ. Tiếp đó, có sự tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, quản
lý thống nhất về khoa học công nghệ, liên kết, liên doanh các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã
hội trên lãnh thổ…

Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành luôn được kết hợp
chặt chẽ với quản lý theo địa giới hành chính. Ðây chính là sự phối hợp giữa quản lý theo
chiều dọc của các Bộ với quản lý theo chiều ngang của chính quyền địa phương theo sự
phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Sự kết hợp này là
một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, mang tính cần thiết, khách
quan. Nội dung của quản lý theo điạ giới hành chính:

+ Xây dựng qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên lãnh thổ, nhằm xây dựng
cơ cấu kinh tế có hiệu quả từ trung ương tới địa phương.

+ Qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất và đời sống dân cư sống và làm việc
trên một địa giới hành chính. Ðầu tư kinh tế luôn được khuyến khích và chù ý trong quá
trình lập dự án hạ tầng. Tuy nhiên, phải có kế hoạch và định hướng, tránh tình trạng “đầu
tư đi trước, qui hoạch theo sau”, làm sự phát triển và an cư bị xáo trộn, gây mất cân bằng
trong quản lý kinh tế-xã hội.
+ Tổ chức điều hoà, phối hợp, hợp tác liên doanh giữa các đơn vị kinh tế trực thuộc
Trung ương về những mặt có liên quan đến linh tế- xã hội trên địa bàn lãnh thổ; bảo đảm
cho các điều kiện ở địa phương phục vụ cho phương hướng phát triển của trung ương, và
đa dạng hoá các khả năng, ngành nghề phát triển.

+ Tổ chức, chăm lo đời sống nhân dân trên một địa bàn lãnh thổ, không kể các nhân, tổ
chức đó do Trung ương hay địa phương quản lý. Mặt khác, bảo đảm sự chấp hành pháp
luật chính sách của địa phương, không trái với Trung ương.

b) Sự kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng

Khi thực hiện hoạt động quản lý ngành đòi hỏi các chủ thể quản lý phải thực hiện rất
nhiều việc chuyên môn khác nhau như lập quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, quản
lý thực hiện các khoản thu chi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật…Do khối
lượng công việc quản lý ngày càng nhiều và mang tính chất phức tạp nên đòi hỏi tính
chyên môn hóa cao, vì thế nhu cầu quản lý theo chức năng luôn được đặt ra.

Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Cơ quan quản lý theo chức năng là cơ quan quản lý
một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm các lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau.

Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng nhằm đảm bảo việc thực hiện có
hiệu quả từng chức năng quản lý riêng biệt của các đơn vị, tổ chức trong ngành, đồng
thời bảo đảm mối quan hệ liên ngành, làm cho toàn bộ hoạt động của hệ thống ngành
được phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả.

Ví dụ: Trong lĩnh vực xây dựng, có sự kết hợp giữa Bộ Xây dựng, Bộ kế hoạch và đầu tư,
Bộ Giao thông vân tải…Trong đó, Bộ Xây dựng có vai trò trung tâm, kết hợp với các bộ
và các cơ quan hữu quan lập nên các dự án qui hoạch xây dựng tương ứng.

Theo quy định của pháp luật, hệ thống các cơ quan chuyên môn được hình thành để thực
hiện việc quản lý theo chức năng. Theo hệ thống dọc có bộ, sở, phòng, ban chuyên môn
quản lý chức năng, chịu sự quản lý của cơ quan quản lý theo chức năng có thẩm quyền ở
cấp trên. Nguyên tắc này thể hiện quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan quản lý theo chức
năng trong việc thực hiện các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể:

 Các cơ quan quản lý theo chức năng có quyền ban hành các quy phạm pháp
luật, các mệnh lệnh cụ thể liên quan đến chức năng quản lý của mình theo quy
định của pháp luật, có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các cơ quan quản lý
chuyên ngành.
 Các cơ quan quản lý theo chức năng kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chủ
trương do mình đề ra, xử lý hay đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi
phạm các chính sách, chủ trương đó theo quy định của pháp luật.

Có thể nói nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng là một
nguyên tắc có tầm quan trọng rất lớn trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nó
giúp cho hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước có sự đồng bộ và thống nhất với
nhau. Nếu thiếu sự liên kết này, hoạt động của ngành trở nên thiếu đồng bộ, ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

c) Phân định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh
doanh.

Theo Điều 15 Hiến pháp 1992, nền kinh tế nước ta là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa“. Liên quan đến chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, có các vấn đề sau:

 Tuy nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, nhà nước không phải là
người trực tiếp kinh doanh. Các cơ quan nhà nước định ra chiến lược, qui hoạch
và định hướng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và cơ chế quản lý có cơ sở
pháp lý ổn định vững chắc. Các tổ chức kinh doanh có nhiệm vụ chấp hành và
cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch kinh tế- xã hội của nhà nước, thực hiện cơ
chế kinh doanh, tiêu chuẩn, định mức của nhà nước, chịu sự kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
 Nhà nước có chức năng tổ chức và điều chỉnh nền kinh tế quốc dân bằng những
biện pháp vĩ mô: thông qua các biện pháp kinh tế, hành chính, tạo khung
cho cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Các tổ chức kinh doanh
trực tiếp thực hiện kinh doanh như: xây dựng, vận tải, ngân hàng… trong phạm
vi vĩ mô, nhằm tạo nhiều của cải vật chất thiết yếu cho xã hội, tránh sự độc
quyền của tư nhân, có thể ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế quốc dân.
 Khác với các mối quan hệ trong hoạt động chấp hành điều hành, các quan hệ
trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh được điều chỉnh bình
đẳng theo quan hệ pháp luật dân sự, luật thương mại.
 Nếu các cơ quan nhà nước hoạt động bằng ngân sách nhà nước, thì các tổ chức
kinh doanh là những tổ chức độc lập tự chủ về tài chính, tự cấp vốn và hạch
toán kinh tế.
 Việc quản lý trong hành lang pháp lý chặt chẽ thông qua các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế thuận lợi, thông
thoáng, tự chủ và đạt hiệu quả cao.
Câu 32: Phân tích nội dung nguyên tắc Đảng lãnh đạo; tập trung dân chủ; thu hút
nhân dân tham gia hoạt động HCNN; pháp chế; dân tộc trong hoạt động HCNN

1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo

CS p.lí: điều 4 Hiến pháp 1992

Đặc điểm: nhất nguyên, toàn diện và không làm thay

Biểu hiện trong các hình thức và pp hoạt dộng của các tổ chức Đảng:

Thứ nhất, Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc đưa ra những
đường lối, Chính sách của mình về các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà
nước.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ:

Tổ chức Đảng bồi dưỡng, đào tạo những Đảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực để
gánh vác những nhiệm vụ trong BMHCNN.

Tổ chức Đảng có ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo
của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ ba, bằng hình thức kiểm tra (ktra việc thực hiện đường lối, chủ trương, c.sách của
Đảng trong quản lý hành chính nhà nước.

Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu
của các tổ chức Đảng và các đảng viên.

2. Nguyên tắc NDLĐ tham gia đông đảo vào QLHCNN

Cơ sở p.lí: điều 2 điều 3 HP 1992

Đặc điểm: là quyền chính trị cao nhất của công dân, thể hiện phương châm của NN “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, xuất phát từ bản chất NN XHCN

Ý nghĩa: khẳng định vai trò của NDLĐ trong QLHCNN.

Biểu hiện:

1. Tham gia vào HĐ của các CQNN


Là hình thức NDLĐ tham gia tích cực, toàn diện và có hiệu quả nhất. Thể hiện:

 Nhân dân có thể tham gia vào Hoạt dodọng của các cơ quan quyền lực NN với
tư cách là thành viên của các cơ quan này, ở cương vị này, ng dân trực tiếp xem
xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương,
trong đó có quản lý hành chính nhà nước.
 ND có thể tgia vào HĐ của các CQNN khác (CQ xét xử,…) vs tư cách là cán
bộ, công chức. Là cán bộ, công chức của NN, NDLĐ sẽ SD 1 cách trực tiếp
quyền lực NN để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính
nn.
 NDLĐ còn có thể gián tiếp tham gia vào HĐ của các CQNN thông qua việc lựa
chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào các cơ quan quyền lực NN
ở TW hay ĐP.

2. Tham gia vào HĐ của các TCXH

3. Tham gia vào các HĐ tự quản: HĐ do chính ND tự tổ chức và tgia, có mối l.hệ chặt
chẽ vs những công việc của quản lý hành chính nn

4. Trưc tiếp tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

3. Nguyên tắc tập trung dân chủ

 Cơ sở p.lí: điều 6 HP 1992


 Đặc điểm: bao hàm 2 yếu tố tập trung và dân chủ => cần có sự phối hợp đồng
bộ
 Biểu hiện:
 Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nn vào cơ quan quyền lực cùng cấp:
 Cơ quan quyền lực NN có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, giải
thể hay sáp nhập các CQHCNN cùng cấp. VD: ở TW, Quốc hội thành lập ra
CP, trao quyền hành pháp cho CP. Ở ĐP, HĐND bầu ra UBND, thực hiện chức
năng quản lý hành chính nn, báo cáo hoạt động trước cơ quan quyền lực NN
cùng cấp => Đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực NN
do dân bầu và chịu trách nhiệm trước ND.
 Yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc các cơ quan quyền lực NN trao quyền
chủ động sáng tạo cho các cơ quan quyền lực nn trong việc chỉ đạp thực hiện
HP, luật và các VBOL của cơ quan quyền lực NN.
 Sự phục tùng của cơ quan nn cấp dưới, địa phương đối với CQNN cấp trên,
TW.
Đảm bảo cho cấp trên và TW tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp
dưới và ĐP. Thiếu sự phục tùng sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo…

Thể hiện ở 2 mặt:

 Tất cả các mệnh lệnh do cấp trên và TW đưa ra, cấp dưới, địa phương phải thực
hiện. Tuy nhiên ko phải là phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những
mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
 Đồng thời, cấp trên, TW cũng phải tôn trong ý kiến của cấp dưới, địa phương
về công tác tổ chức, hoạt động và các vấn đề khác của quản lý hành chính nn.
Phải tạo mọi đk để cấp dưới, đp nắm rõ và phát huy sự chủ động sáng tạo.
 Sự phân cấp quản lý: là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được 1 cách có hiệu quả mục tiêu chung của HĐ quản lý hành chính
nn.

Yêu cầu: có 3 yêu cầu

 Phải đảm bảo cho TW vẫn có quyền quyết định những lĩnh vực then chốt,
những vấn đề có tính chiến lược, nhằm đảm bảo sự tập trung và thống nhất của
NN trong pvi toàn quốc.
 Mạnh dạn trao quyền cho ĐP để phát huy tính chủ động, sáng tạo…-> tránh
cho cấp trên ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc trách nhiệm của ĐP.
 Phải thật cụ thể, hợp lí dựa trên CS là những quy định của pháp luật.

+ Hướng về cơ sở: là việc các cơ quan hành chính nn mở rộng dân chủ trên cs q.lí tập
trung đối với HĐ của toàn bộ hệ thống các đvi kte, VH-XH trực thuộc.

+ Sự phụ thuộc 2 chiều của cơ quan hành chính nn ĐP: các cqhcnn ở ĐP đều đc tổ chức
và HĐ theo nguyên tắc phụ thuộc 2 chiều hay còn gọi là song trùng trực thuộc.

UBND các cấp phụ thuộc vào HĐND cùng cấp (mối phụ thuộc ngang): giúp cho cấp
dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của từng địa phương để hoàn thành nhiệm vụ.

UBND các cấp phụ thuộc vào cơ quan có thẩm quyền chung trực tiếp (mối phụ thuộc
dọc): giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực NN để chỉ đạo HĐ của cấp dưới.

4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc

 Cơ sở p.lí: điều 5 HP 1992

Thể hiện qua 2 mặt sau:


 Trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ:

+ C.sách ưu tiên đối vs con em dân tộc

+ C.sách đãi ngộ về cả vc và tinh thần cho cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo

 Trong việc hoạch định các c.sách phát triển  kt – xh:

+ Chú trọng đầu tư xây dựng các công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng ở các
vùng dân tộc ít người, phát huy tiềm năng, thế mạnh,…

+ Chính sách đúng đắn đối với người đi xây dựng vùng kinh tế mới.

5. Nguyên tắc pháp chế XHCN

Pháp chế XHCN là sự tôn trong và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nn, nhân
viên nn, các tổ chức xã hội và mọi công dân.

Thể hiện qua 2 mặt:

 Trong hoạt động ban hành vbpl:


 Các vbpl trong quản lý hành chính nn phải ban hành đúng thẩm quyền
 Các vbpl trong quản lý hành chính nn phải có nội dung hợp pháp và thống nhất
 Các vbpl trong quản lý hành chính nn phải được ban hành đúng tên gọi và hình
thức theo pháp luật quy định
 Các vbpl trong quản lý hành chính nn phải được ban hành theo đúng trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định
 Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
 Triệt để tôn trọng các vbpl về thẩm quyền và ND ban hành
 HĐ giám sát, ktra, thanh tra việc thi hành pháp luật trong quản lý hành chính
nn, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo phải được thực hiện 1 cách nghiêm ngặt
theo đúng trính tự pháp luật.
 Phải xử lí nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi vphc trong quản
lý hành chính nn.

Câu 33: Nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật trong HCNNVN: kết hợp ngành theo lãnh
thổ,…
1. Quản lí theo ngành, theo chức năng kết hợp vs quản lý theo Địa phương

 Ngành là KN chỉ tổng thể những đvi, tổ chức SX kinh doanh có cùng cơ cấu
kinh tế- kỹ thuật hay tổ chức, đvi hoạt động có cùng mục đích giống nhau.
 Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đi, tổ chức k.tế, vh, xh có cùng cơ
cấu k.tế – kỹ thuật hoặc HĐ vs mục đích giống nhau làm cho HĐ của các tổ
chức, đvi này ptr 1 cách nhịp nhàng, đồng bộ.
 Quản lý theo chức năng là quản lý theo lĩnh vực chuyên môn nhất định của
quản lý hành chính nn như kế hoach, tài chính, giá cả,…
 Quản lý theo ĐP là quản lý trên pvi lãnh thổ nhất định theo sự phân vạch địa
giới HC của NN
 Trong quản lý hành chính nn, quản lý theo ngành, quản lý theo chức năng và
quản lý theo Đp được kết hợp chặt chẽ. Sự phối hợp này là cần thiết, vì:
 Mỗi đvi, tổ chức của 1 ngành đều nằm trên lãnh thổ của 1 ĐP nhất định. Chỉ
cso quản lý theo ngành mới có thể khai thác hết những tiềm năng, thế mạnh của
địa phương
 Ở mỗi địa bàn lãnh thổ nhất định có sự khác nhau về các yếu tố tự nhiên, vh,
xh,… nên yêu cầu đặt ra đối với HĐ của ngành, lĩnh vực chuyên môn trên địa
bàn lãnh thổ cũng manh những nét đặc thù riêng biệt.
 Trên lãnh thổ của 1 ĐP có HĐ của các đvi, tổ chức của các ngành khác nhau.
Hđ của các đvi, tổ chức này phụ thộc vào yếu tố ĐP, nguyên tắc này giúp trành
tính trạng cục bộ, khép kín trong 1 ngành hay trong tình trạng cục bộ, ĐP.

2. Nguyên tắc quản lí theo ngành, theo chức năng và phối hợp quản lý liên
ngành

 Nguyên nhân:

+ Sự phát triển của 1 ngành phải có sự quản lý của các cơ quan chuyên môn

+ Các ngành luôn nằm trong mối l.hệ và sự phụ thuộc vs những ngành khác, không thể có
1 ngành tồn tại độc lập.

+ Mỗi đvi, tổ chức của 1 ngành đồng thời phải chịu sự quản lý theo chức năng của tất cả
các cơ quan chuyên môn.

 ND nguyên tắc:
+ Cơ quan quản lý theo chức năng (cơ quan có thẩm quyền chung) có quyền ban hành
các quy định của pháp luật, có tính chấp bắt buộc đối với các ngành, các cấp, các cơ quan
quản lý theo chức năng.

+ Cơ quan quản lý theo ngành có quyền ban hành các quy định quản lý có tính chất bắt
buộc phải thực hiện đối với các ngành có lquan trong pvi những vđề thuộc quyền quản lý
của ngành đó.

+ Cơ quan quản lý theo chức năng phải phối hợp để ban hành các quyết định quản lí
chung.

Câu 34: Khái niệm CQHCNN:

Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quàn lí hành chính nhà nước. Các
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành (đó là những
hoạt động được tiến hành trên cơ sở luật và để thi hành luật) nhằm thực hiện chức nâng
quàn lí hành chính nhà nước.

Như vậy, hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lí hành chính
nhà nước là phương diện hoạt động chủ vếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ
quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quán lí hành chính nhà nước nhưng
đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện
nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bán của các cơ quan nhà nước đó như: chức
nàng lập pháp của Quốc hội, chức nàng xet xử của toà án nhân dân, chức năng kiểm sát
cúa viên kiểm sát nhân dân. Chỉ các cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện hoạt
động quản lí hành chính nhà nước cũng chính là dể nhằm hoàn thành chức năng quản lí
hành chính nhà nước.

Đặc điểm của quan hành chính nhà nước:

 Tập hợp những con người có tính độc lập tương đối về cơ cấu-tổ chức.
 Chịu sự giám sát lãnh đạo của các cơ quan quyền lực tương ứng.
 Thực hiện các hoạt động mang tính dưới luật – hoạt động tiến hành trên cơ sở
và để thi hành luật.
 Thẩm quyền chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành.
 Tất cả các cơ quan có mối quan hệ chặt chẽ (trực thuộc trên – dưới, ngang –
trái) có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.

Câu 35: Đặc điểm chung:


Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận của bộ máy nhà nước nên cũng có các dấu hiệu
chung của các cơ quan nhà nước như sau:

– Cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí với mục đích hướng tới lợi ích
công;

– Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy đinh;- Các cơ quan hành chính nhà nước được
thành lập và hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền riêng và có những mối quan hộ phối hợp trong thực thi công việc được giao.

– Nguồn nhân sự chính của cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức
được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo quv định của Pháp lệnh cán
bộ, công chức.

Câu 36: Những đặc điểm riêng

– Là loại cơ quan nhà nước chuyên thực hiện hoạt động hành chính, tức là hoạt động
mang tính dưới luật, tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật.

– Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương đến cơ sở
đứng đầu là Chính phủ tạo thành một chính thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống
thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi
quyền quản lí hành chính nhà nước.

– Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trôn cơ sớ
lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyén và
nghĩa vụ pháp lí hành chính chi giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành.

– Các cơ quan hành chính nhà nuớc đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà
nước.

– Các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ
sở của bộ máv hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức nâng quản lí hành chính đều có các đơn vị cơ sờ
trực thuộc. Ví dụ: các trường đại học trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo; các tổng công ty,
các công ty nhà máy trực thuộc Bộ công nghiệp, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Bộ giao thông vận tải; các đơn vị công an, quân đội trực thuộc Bộ công an, Bộ quốc
phòng…
Câu 37: Phân loại CQHCNN:

Theo cơ sở pháp lý của việc thành lập

1. Cơ quan hiến định: là các cơ quan do Hiến pháp quy định việc thành lập, gồm
Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, UBND các cấp; các cơ quan này có
dịa vị pháp lý ổn định phù hợp với sự ổn định của Hiến pháp.
2. Cơ quan pháp định: là các cơ quan được thành lập trên cơ sở các đạo luật
và văn bản dưới luật, như: các tổng cục, cục, chi cục, vụ, sở, phòng ban, … ,
chúng ít ổn định hơn cơ quan hiến định.

Theo trình tự thành lập cơ quan

1. Bầu (như UBND các cấp)


2. Bổ nhiệm (như giám đốc sở, trưởng phòng thuộc UBND cấp huyện …);
3. Lập (Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ v.v.): “Lập” là trình tự phức tạp
kết hợp cả bầu, bổ nhiệm, đề nghị danh sách để phê chuẩn.

Theo vị trí cơ quan trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước kết hợp với địa giới
hành chính

1. Ở Trung ương:

– Chính phủ;

– Các bộ, cơ quan ngang bộ.

1. Ở địa phương:

– UBND các cấp;

– Sở, phòng, ban – cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và cấp huyện.

.Theo tính chất thẩm quyền của cơ quan

1. Cơ quan thẩm quyền chung (Chính phủ và UBND): Là cơ quan mà các quyền


hạn của nó có hiệu lực đối với mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng tương
ứng trong phạm vi cả nước hoặc địa phương (tỉnh, thành phố, huyện, thị xã, xã,
v.v..).
2. Cơ quan thẩm quyền riêng: Là cơ quan mà các quyền hạn của nó có hiệu lực
chỉ trong phạm vi ngành (đối với cơ quan quản lý ngành) hoặc lĩnh vực liên
ngành (đối với cơ quan quản lý liên ngành – còn gọi là cơ quan quản lý theo
chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các sở, phòng trực
thuộc ở địa phương v.v.). Vì thế, “thẩm quyền riêng” còn gọi là “thẩm quyền
chuyên môn”.

Theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động

1. Cơ quan tập thể lãnh đạo: Là Hội đồng Bộ trưởng và UBND theo Hiến pháp
năm 1980. Nguyên tắc đó được ghi trực tiếp hoặc thể hiện trong nhiều điều của
Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng năm 1981 (các Điều 6, 17), LTCHĐND-
UBND 1983 hoặc LTCHĐND- UBND 1989 (Điều 52).
2. Cơ quan thủ trưởng lãnh đạo: Như bộ, cơ quan ngang bộ, tổng cục, sở, phòng,
ban, v.v..
3. Cơ quan kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ thủ trưởng: Là Chính phủ
và UBND theo Hiến pháp hiện hành, nhưng chúng vẫn “nghiêng về” chế độ tập
thể lãnh đạo.

Theo cơ quan thành lập

1. Do các cơ quan dân cử trực tiếp thành lập (Chính phủ, bộ và cơ quan ngang
bộ, UBND);
2. Do Chính phủ thành lập (một số tổng cục, cục, viện, phòng …);
3. Do các bộ, cơ quan ngang bộ thành lập (xem mục tổ chức- cơ cấu của bộ);
4. Do UBND thành lập (sở, phòng, ban, … thuộc UBND).

Câu 38: Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương bao gồm: Chính phủ , bộ và
các cơ quan ngang bộ

*Chính phủ

– Vị trí,tính chất pháp lý: Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của quốc
hội

– Tổ chức: Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số

– Cơ cấu:Chính phủ bao gồm thủ tướng chính phủ, các phó thủ tướng chính phủ, các bộ
trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ

Thu tướng chính phủ là người đứng đầu chính phủ, chịu trách nhiệm trước quốc hội
Phó thủ tướng chính phủ giúp thủ tướng chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của
thủ tướng chính phủ và chịu trách nhiệm trước thủ tướng

Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước thủ tướng chính
phủ, chính phủ và quốc hội

– Chức năng cơ bản:

+  Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ,
môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng
khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản
của Nhân dân

+ . Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước;
lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp

+ Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân;
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội

*Bộ và các cơ quan ngang bộ:

– Vị trí, tính chất pháp lý: bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của chính phủ chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi
việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

– Tổ chức – cơ cấu:

1. Các tổ chức giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước:

a) Vụ;

b) Văn phòng Bộ;

c) Thanh tra Bộ;

d) Cục;

đ) Tổng cục và tổ chức tương đương (sau đây gọi chung là tổng cục).
2. Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ:

a) Các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực;

b) Báo; Tạp chí; Trung tâm Thông tin hoặc Tin học;

c) Trường hoặc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Học viện
thuộc Bộ.

3. Bộ trưởng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công
lập khác thuộc Bộ đã được cấp có thẩm quyền thành lập.

4. Số lượng cấp phó của người đứng đầu các tổ chức thuộc Bộ quy định

– Chức năng:  thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm
vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực.

Câu 39: Vị trí, tính chất pháp lý (vai trò) Tổ chức – cơ cấu; Hình thức hoạt động;
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Trả lời

– Vị trí, tính chất pháp lý: Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên.

– Hình thức hoạt động: (1) hoạt động của tập thể uỷ ban; (2) hoạt động của chủ tịch và
của các thành viên khác của uỷ ban và (3) hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND.

– Nhiệm vụ: Là cơ quan hành chính thẩm quyền chung, đứng đầu bộ máy hành chính
thuộc đơn vị hành chính – lãnh thổ của mình, UBND thực hiện các nhiệm vụ, chức năng
quản lý tổng thể theo lãnh thổ đối với mọi ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước trực thuộc
địa phương mình.

– Quyền: quyền ra quyết định, chỉ thị

Câu 40: Các hình thức làm việc của Chính phủ theo quy định của Pháp luật hiện
hành? Phương hướng đổi mới hoạt động của Chính phủ.
Trả lời

– Các hình thức làm việc của chính phủ

a) Phiên họp Chính phủ thường kỳ và phiên họp Chính phủ bất thường.

b) Các hội nghị (bao gồm hội nghị triển khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân
sách nhà nước và các hội nghị chuyên đề).

c) Các cuộc họp định kỳ với các Bộ, cơ quan, địa phương.

d) Các cuộc họp để xử lý việc thường xuyên và họp giao ban Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng.

đ) Cuộc họp do thành viên Chính phủ chủ trì xử lý công việc của Chính phủ.

e) Các cuộc họp khác.

Ngoài hình thức họp trực tiếp, các cuộc họp, hội nghị của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ có thể tổ chức qua cầu truyền hình hoặc qua mạng máy tính.

 Phương hướng đổi mới hoạt động của Chính Phủ: 

Ở Việt Nam, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã được đặt ra qua các thời kỳ.
Từ quan niệm: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Hiến pháp 1992, đến
quan niệm: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội
trong Hiến pháp 2013 là một bước thay đổi lớn trong nhận thức về vai trò của Chính phủ.
Điều này đặt ra những yêu cầu mới trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cơ
hội và thách thức đến với mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam đan xen nhau. Để phát
triển, để bứt phá thì mỗi quốc gia cần có Nhà nước mạnh mà theo đó Chính phủ cần có sự
năng động, nhanh nhạy, chủ động nắm bắt thời cơ, chủ động xây dựng những kịch bản để
ứng phó với những thay đổi, những thách thức.

Chính phủ mạnh có ý nghĩa quan trọng để có một Nhà nước mạnh trong giai đoạn hiện
nay. Vì vậy, việc xây dựng Chính phủ có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
là ưu tiên trọng tâm trong các nỗ lực cải cách khu vực nhà nước. Đồng thời, đổi mới tổ
chức và hoạt động của Chính phủ tác động trực tiếp đến việc xây dựng nền hành chính
chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ; bảo đảm tính
pháp quyền và dân chủ trong điều hành; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết
kịp thời những yêu cầu thực tiễn phát triển. Chính phủ tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả sẽ
là hình mẫu để chính quyền địa phương tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Câu 41: Hiến pháp 2013 quy định : Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là
cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tương ứng với từng vị trí, vai trò đó là những
nhiệm vụ, quyền hạn gì?

Trả lời

Điều 96 Luật hiến pháp 2013 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ như sau:

 Là cơ quan hành chính cao nhất:


 Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy
hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra
Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo
điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật
định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước.
 Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển
văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và
bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ
quốc gia
 Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo
điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình; bảo vệ
tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường
 Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh
tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân
 Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ
tịch nước ký với người đứng đầu Nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia
nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam
ở nước ngoài
 Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; thống
nhất quản lý công tác thi đua khen thưởng
 Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương
 Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện quyền hành pháp:
 Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến
pháp và pháp luật trong nhân dân
 Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban
thường vụ Quốc hội
 Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm
an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang
nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện
pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước
 Phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Ban chấp hành trung ương của đoàn thể
nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để
các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.

Câu 42: Phân biệt bộ và cơ quan ngang bộ:

Trả lời
Bộ Cơ quan ngang bộ

Người đứng đầu Bộ trưởng Thủ trưởng

Cơ cấu tổ chức lớn, thực hiện


Cơ cấu tổ chức nhỏ hơn, thực hiện
chức năng trong một số ngành
Quy mô tổ chức các chức năng riêng biệt, chuyên
nhất định, chính chuyên hóa k
biệt, đan xen vào nhiều ngành
cao.

Số lượng 18 bộ 4 cơ quan ngang bộ

Câu 43: Bộ trưởng : Vị trí, tính chất pháp lý (vai trò) của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ.
Trả lời

Bộ trưởng làm việc theo chế độ thủ trưởng và Quy chế làm việc của Chính phủ; bảo đảm
nguyên tắc tập trung, dân chủ; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của Bộ và các đơn vị
trực thuộc theo quy định; ban hành Quy chế làm việc của Bộ và chỉ đạo, kiểm tra việc
thực hiện Quy chế đó. Nhiệm vụ quyền hạn của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
được quy định cụ thể tại điểu 34-38 Luật tổ chức chính phủ 2015:

– Bộ trưởng đối với Bộ:

1. Bộ trưởng chịu trách nhiệm chuẩn bị trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
quyết định giải quyết các vấn đề liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo Quy
chế làm việc của Chính phủ.
2. Bộ trưởng chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản quy phạm
pháp luật do Bộ chuẩn bị; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển, chương trình, công tác sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt; chịu trách nhiệm về hiệu quả các dự án, các chương trình, đề án của Bộ
và việc sử dụng các nguồn lực của Bộ.
3. Bộ trưởng quyết định các công việc thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách
nhiệm về các quyết định đó.
4. Bộ trưởng chịu trách nhiệm về những công việc do Bộ trực tiếp quản lý;
chịu trách nhiệm liên đới về những công việc đã phân cấp cho chính quyền địa
phương, khi Bộ không thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong hướng dẫn, kiểm tra,
thanh tra để xảy ra sự cố, thảm họa nguy hiểm, thất thoát, thiệt hại lớn đến tài
sản của Nhà nước và nhân dân.
5. Bộ trưởng chịu trách nhiệm thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn của
nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
6. Bộ trưởng phân công cho Thứ trưởng giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Bộ trưởng hoặc ủy nhiệm cho Thứ trưởng làm việc và giải quyết các đề
nghị của các bộ, địa phương, thì Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về những
quyết định của Thứ trưởng được phân công hoặc ủy nhiệm giải quyết.

– Bộ trưởng đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

1. Thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước của Bộ về các ngành, lĩnh vực.
2. Không chuyển các vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ lên Chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ; không ban hành những văn bản trái với quy định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; những vấn đề vượt quá thẩm quyền được
giao phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm của thành viên Chính phủ theo Quy chế làm việc
của Chính phủ.

– Bộ trưởng đối với Bộ trưởng khác:

1. Thực hiện các quy định quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của các Bộ khác;
không ban hành văn bản trái với quy định của các Bộ trưởng khác.
2. Chủ trì, phối hợp với các Bộ để giải quyết những vấn đề quản lý nhà nước do
Bộ phụ trách có liên quan đến chức năng của Bộ khác; trường hợp có ý kiến
khác nhau thì Bộ trưởng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
3. Các vấn đề trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến Bộ khác, thì phải có ý kiến
của Bộ trưởng đó bằng văn bản. Các Bộ trưởng được hỏi ý kiến có trách nhiệm
nghiên cứu, trả lời bằng văn bản trong thời gian quy định.

– Bộ trưởng đối với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

1. Chỉ đạo Ủy ban nhân dân thực hiện mục tiêu, chương trình, quy hoạch phát
triển, kế hoạch, dự án về ngành, lĩnh vực đã được phê duyệt; giải quyết các đề
xuất, kiến nghị của Ủy ban nhân dân phù hợp với quy định quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực của Bộ.
2. Hướng dẫn và chỉ đạo Ủy ban nhân dân về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý.
3. Kiểm tra Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong việc thực hiện tiêu chuẩn chuyên
môn, nghiệp vụ đối với người đứng đầu cơ quan chuyên môn về ngành, lĩnh
vực thuộc Ủy ban nhân dân; yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân có ý kiến bằng
văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với người
đứng đầu các tổ chức của Bộ đặt tại địa phương.

– Bộ trưởng đối với các cơ quan của Quốc hội, với đại biểu Quốc hội và với cử tri

1. Khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội yêu cầu, thì Bộ trưởng có trách nhiệm trình bày hoặc cung cấp các tài liệu
cần thiết; Bộ trưởng gửi các văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành đến
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo lĩnh vực mà Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban phụ trách.
2. Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời các kiến nghị của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội trong thời hạn chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được
kiến nghị.
3. Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội và kiến nghị
của cử tri về những vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

– Bộ trưởng đối với các tổ chức chính trị – xã hội

Bộ trưởng có trách nhiệm phối hợp với người đứng đầu tổ chức Mặt trận Tổ quốc, Công
đoàn và các tổ chức Đoàn thể khác trong khi thực hiện nhiệm vụ của Bộ; tạo điều kiện để
các tổ chức nêu trên hoạt động, tham gia xây dựng chế độ, chính sách có liên quan.

Câu 44: Cơ cấu tổ chức của bộ, ngang bộ.

Trả lời

Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ được quy định chi tiết tại Chương 3 Nghị
định 123/2016/NĐ-CP NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ

Điều 17. Cơ cấu tổ chức của Bộ

1. Cơ cấu tổ chức của Bộ gồm:

a) Vụ;

b) Văn phòng;

c) Thanh tra;

d) Cục (nếu có);

đ) Tổng cục (nếu có);

e) Đơn vị sự nghiệp công lập.

2. Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ, gồm:

a) Các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực;

b) Báo, tạp chí; Trung tâm Thông tin;

c) Trường hoặc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Học viện
thuộc Bộ.
3. Số lượng cấp phó của người đứng đầu văn phòng, thanh tra, vụ, cục, tổng cục, đơn vị
sự nghiệp công lập thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ.

Điều 18. Vụ thuộc Bộ

1. Vụ là tổ chức thuộc Bộ, thực hiện chức năng tham mưu tổng hợp hoặc chuyên
sâu về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực hoặc tham mưu về công tác
quản trị nội bộ của Bộ.
2. Vụ không có tư cách pháp nhân, không có con dấu, không có tài khoản. Vụ
trưởng được ký thừa lệnh Bộ trưởng các văn bản hướng dẫn, giải quyết, thông
báo các vấn đề liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ thuộc chức năng, nhiệm
vụ của vụ.
3. Không tổ chức phòng trong vụ. Riêng trường hợp vụ có nhiều mảng công tác
hoặc khối lượng công việc lớn, Bộ trình Chính phủ quyết định số lượng phòng
trong vụ tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ.
4. Vụ hoạt động theo chế độ Thủ trưởng kết hợp với chế độ chuyên viên.
5. Việc thành lập vụ phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau (trừ các vụ tham mưu về
công tác quản trị nội bộ của Bộ):

a) Có chức năng, nhiệm vụ tham mưu về quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc
chức năng, nhiệm vụ của Bộ;

b) Có phạm vi, đối tượng quản lý theo ngành, lĩnh vực.

Điều 19. Văn phòng thuộc Bộ

1. Văn phòng là tổ chức thuộc Bộ, thực hiện chức năng tham mưu tổng hợp về
chương trình, kế hoạch công tác và phục vụ các hoạt động của Bộ; giúp Bộ
trưởng tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ thực hiện
chương trình, kế hoạch công tác của Bộ.
2. Văn phòng thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến công tác hành chính, văn thư,
lưu trữ; quản lý cơ sở vật chất – kỹ thuật, tài sản, kinh phí hoạt động, bảo đảm
phương tiện, điều kiện làm việc; phục vụ chung cho hoạt động của Bộ và công
tác quản trị nội bộ; thực hiện các nhiệm vụ khác do pháp luật quy định hoặc do
Bộ trưởng giao.

3. Văn phòng được thành lập phòng phù hợp với nhiệm vụ công tác được giao. Số
lượng phòng được quy định trong Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ.
4. Văn phòng có con dấu riêng; Chánh văn phòng được ký thừa lệnh Bộ trưởng
các văn bản hành chính khi được Bộ trưởng giao; Chánh văn phòng ký các văn
bản và đóng dấu Văn phòng đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Văn
phòng Bộ.

Điều 20. Thanh tra thuộc Bộ

1. Thanh tra là tổ chức thuộc Bộ, thực hiện chức năng giúp Bộ trưởng quản lý nhà
nước về công tác thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng thuộc ngành, lĩnh vực Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra thực hiện theo quy định của pháp luật về
thanh tra.
3. Thanh tra có con dấu và tài khoản riêng; được thành lập các phòng nghiệp vụ
theo quy định của pháp luật. Số lượng phòng được quy định trong Nghị định
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ.
4. Chánh Thanh tra được ký thừa lệnh Bộ trưởng các văn bản hành chính khi được
Bộ trưởng giao và được xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính; Chánh Thanh tra Bộ ký các văn bản và đóng
dấu Thanh tra đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Thanh tra Bộ theo quy
định của pháp luật thanh tra.

Điều 21. Cục thuộc Bộ

1. Cục là tổ chức thuộc Bộ, thực hiện chức năng tham mưu tổng hợp và giải quyết
các vấn đề cụ thể trong một hoặc một số lĩnh vực, giúp Bộ trưởng thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với chuyên ngành,
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo phân cấp, ủy quyền của
Bộ trưởng.

Trường hợp Bộ quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa
phương thì được thành lập cục thuộc Bộ để thực hiện chức năng quản trị nội bộ.

2. Cục có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng; Cục trưởng được ban
hành văn bản cá biệt, văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về chuyên
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cục.
3. Việc thành lập cục phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau:

a) Có đối tượng quản lý về chuyên ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Bộ theo quy định của pháp luật chuyên ngành;
b) Được phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng để quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quản
lý nhà nước về chuyên ngành, lĩnh vực.

Cơ cấu tổ chức của cục, gồm:

a) Phòng;

b) Văn phòng;

c) Chi cục (nếu có);

d) Đơn vị sự nghiệp công lập (nếu có).

Số lượng các tổ chức quy định tại điểm a, b, c Khoản này được quy định trong Nghị định
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ.

Điều 22. Tổng cục thuộc Bộ

1. Tổng cục là tổ chức thuộc Bộ, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý
nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật đối với chuyên ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp trên
phạm vi cả nước theo phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng.

2. Tổng cục có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Tổng cục trưởng được
ban hành văn bản cá biệt, văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về chuyên ngành,
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của tổng cục.

3. Việc thành lập tổng cục phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau:

a) Có đối tượng quản lý nhà nước về chuyên ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp, quan trọng
đối với phát triển kinh tế – xã hội;

b) Chuyên ngành, lĩnh vực cần quản lý tập trung, thống nhất ở Trung ương;

c) Được phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng để quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quản
lý nhà nước về chuyên ngành, lĩnh vực.

4. Cơ cấu tổ chức của tổng cục, gồm:

a) Vụ;

b) Văn phòng;
c) Cục (nếu có);

d) Đơn vị sự nghiệp công lập (nếu có).

5. Việc thành lập các vụ, cục thuộc tổng cục áp dụng các tiêu chí như đối với thành lập
vụ, cục thuộc Bộ. Không thành lập phòng trong vụ thuộc tổng cục.

6. Đối với tổng cục được tổ chức theo hệ thống ngành dọc, việc thành lập cục trực thuộc
tổng cục, chi cục thuộc cục trực thuộc tổng cục (nếu có) đặt ở địa phương được quy định
tại quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổng cục.

Điều 23. Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ

1. Việc thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo
quy định của Chính phủ và các quy định của pháp luật chuyên ngành.
2. Đơn vị sự nghiệp công lập không có chức năng quản lý nhà nước.
3. Đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ về nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, nhân sự và tài chính theo quy định của pháp luật.
4. Đơn vị sự nghiệp công lập có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng.

Câu 45: Uỷ ban nhân dân: Vị trí, tính chất pháp lý (vai trò); Tổ chức – cơ cấu; Hình
thức hoạt động; Nhiệm vụ, quyền hạn.

Trả lời:

Theo luật tổ chức chính quyền địa phương 2015

Cơ cấu tổ chức:

 Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
 Uỷ ban ND tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
 Uỷ ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính sau đây:

A) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);

B) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);

C) Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).


 Nhiệm kỳ của Uỷ ban nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng
cấp.
 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ đó quá
hai nhiệm kỳ liên tục.
 Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ.
 Hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt
động của tập thể Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên
khác của Uỷ ban nhân dân và của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân.

Nhiệm vụ, quyền hạn:

 Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp
nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế – xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
 Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp
phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương tới cơ sở.
 Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật
và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu
hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và
các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền
địa phương.

Câu 46: Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân.

Trả lời

Theo luật tổ chức chính quyền địa phương 2014

Nguyên tắc tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

1. Bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ủy ban
nhân dân và bảo đảm tính thống nhất, thông suốt về quản lý ngành, lĩnh vực
công tác từ Trung ương đến cơ sở.
2. Tổ chức phòng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; bảo đảm tinh gọn, hợp lý, hiệu
quả; không nhất thiết ở cấp tỉnh có sở nào thì cấp huyện có tổ chức tương ứng.
3. Phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính và điều kiện tự nhiên, dân số, tình
hình phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương và yêu cầu cải cách hành
chính nhà nước.
4. Không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với các tổ chức của các
Bộ, sở.

Vị trí và chức năng của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

1. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp Ủy
ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện
một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân  và theo
quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành
hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương.
2. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân , đồng thời chịu sự chỉ đạo,
kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

1. Trình Ủy ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài
hạn, 05 năm và hàng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.
2. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê
duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý được giao.
3. Giúp Ủy ban nhân dân thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định, đăng
ký, cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của cơ
quan chuyên môn theo quy định của pháp luật và theo phân công của Ủy ban
nhân dân .
4. Giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân, các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn thuộc các lĩnh
vực quản lý của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật.
5. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý của cơ quan chuyên
môn cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
6. Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin,
lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ của cơ
quan chuyên môn .
7. Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực
hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của Ủy ban nhân dân và sở quản lý
ngành, lĩnh vực.
8. Kiểm tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá
nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố
cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật và phân
công của Ủy ban nhân dân .
9. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của cơ
quan chuyên môn theo quy định của pháp luật, theo phân công của Ủy ban
nhân dân .
10. Quản lý tài chính, tài sản của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật
và phân công của Ủy ban nhân dân .
11. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân giao hoặc theo quy định
của pháp luật.

Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

1. Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (sau đây gọi
chung là Trưởng phòng) chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và trước pháp luật về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan chuyên môn do mình phụ trách.
2. Cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (sau
đây gọi chung là Phó Trưởng phòng) là người giúp Trưởng phòng chỉ đạo một
số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng về nhiệm vụ được
phân công. Khi Trưởng phòng vắng mặt một Phó Trưởng phòng được Trưởng
phòng ủy nhiệm điều hành các hoạt động của cơ quan chuyên môn .
3. Số lượng Phó Trưởng phòng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
không quá 03 người.
4. Việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cho
từ chức, thực hiện chế độ, chính sách đối với Trưởng phòng, Phó Trưởng
phòng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định theo quy định của pháp luật.

Chế độ làm việc của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân  và trách nhiệm
của Trưởng phòng

1. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân làm việc theo chế độ thủ trưởng.
2. Trưởng phòng căn cứ các quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban
nhân dân xây dựng quy chế làm việc, chế độ thông tin báo cáo của cơ quan và
chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy chế đó.
3. Trưởng phòng chịu trách nhiệm về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan mình và các công việc được Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân phân công hoặc uỷ quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và
chịu trách nhiệm khi để xẩy ra tình trạng tham nhũng, gây thiệt hại trong tổ
chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của mình.
4. Trưởng phòng có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân và sở quản lý ngành, lĩnh vực về tổ chức, hoạt động của cơ quan
mình; báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp
khi được yêu cầu; phối hợp với người đứng đầu cơ quan chuyên môn, các tổ
chức chính trị – xã hội cùng cấp giải quyết những vấn đề liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

* Một số cơ quan chuyên môn:

1. Phòng Nội vụ: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước các lĩnh vực: tổ chức; biên chế các cơ quan hành chính,
sự nghiệp nhà nước; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới
hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn
giáo; thi đua – khen thưởng.
2. Phòng Tư pháp: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật;
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi
hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hoà giải ở cơ sở và các
công tác tư pháp khác.
3. Phòng Tài chính – Kế hoạch: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: tài chính, tài sản; kế hoạch và
đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp, thống nhất quản lý về kinh tế hợp tác xã,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân.
4. Phòng Tài nguyên và Môi trường: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài nguyên đất; tài nguyên nước; tài
nguyên khoáng sản; môi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ và biển
(đối với những địa phương có biển).
5. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: lao động;
việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ
em; phòng, chống tệ nạn xã hội; bình đẳng giới.
6. Phòng Văn hoá và Thông tin: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về: văn hoá; gia đình; thể dục, thể thao; du
lịch; bưu chính, viễn thông và Internet; công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin;
phát thanh; báo chí; xuất bản.
7. Phòng Giáo dục và Đào tạo: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm:
mục tiêu, chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và
tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường
học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất
lượng giáo dục và đào tạo.
8. Phòng Y tế: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế cơ sở; y
tế dự phòng; khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc
phòng bệnh, chữa bệnh cho người; mỹ phẩm; vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo
hiểm y tế; trang thiết bị y tế; dân số.
9. Thanh tra huyện: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
theo quy định của pháp luật.
10. Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: tham mưu tổng hợp cho
Ủy ban nhân dân về hoạt động của Ủy ban nhân dân; tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp huyện về công tác dân tộc; tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân
dân về chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân; cung cấp thông tin
phục vụ quản lý và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các
cơ quan nhà nước ở địa phương; đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Câu 47: Tại sao nói cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản của Luật hành
chính

Trả lời

Để chứng minh cơ quan hành chính là chủ thể cơ bản của luật hành chính ta có thể căn cứ
vào chính khái niệm và đặc điểm của nó:

Thứ nhất là vì cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước,
trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương diện
hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành- điều hành, có cơ cấu tổchức và phạm vi thẩm
quyền do pháp luật quy định.

Cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích hướng tới lợi
ích công. Cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước tức là được sử
dụng quyền lực nhà nước, các biện pháp cưỡng chế nhà nước và được ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể để thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước với mục đích vì lợi ích tập thể, lợi ích công cộng.
Ví dụ: chủ tịch ủy ban nhân dân huyện A kí hợp đồng xây mới trụ sở ủy ban nhân dân với
công ty xây dựng Y thì chủ tịch ủy ban nhân dân là người kí kết hợp đồng không phục vụ
lợi ích cá nhân mà vì lợi ích tập thể, công cộng.

-> Do đó cơ quan hành chính nhà nước chính là chủ thể cơ bản của Luật Hành chính.

Câu 48: Khái niệm và những nguyên tắc hoạt động công vụ nhà nước.

Trả lời

Khái niệm: về cơ bản thì công vụ có nhiều cách hiểu, tùy theo từng kiểu nhà nước. Nên ở
Vn mình có thể hiểu là:  Công vụ là một hoạt động do công chức nhân danh nhà
nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi
ích của nhân dân và xã hội.

Nguyên tắc: Hoạt động công vụ nhà nước ở nước ta được thực hiện trên cơ sở bản chất
của Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2 Hiến pháp
1992). Với bản chất nhà nước như vậy, thì các nguyên tắc chung, cơ bản của hoạt động
công vụ Nhà nước ở Nhà nước ta bao gồm:

*Thứ nhất, nguyên tắc hoạt động công vụ nhà nước phải thể hiện được ý chí nhân dân,
đáp ứng và phục vụ được các lợi ích của nhân dân, của xã hội, Nhà nước.

*Thứ hai, nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động công vụ nhà nước. Nguyên tắc
này một mặt nó vừa đảm bảo tính thống nhất, thông suốt của toàn bộ quá trình thực hiện
hoạt động công vụ nhà nước thông qua yếu tố “tập trung”. Mặt khác, nó lại phát huy
được tính chủ động, sáng tạo, năng động của các chủ thể thực hiện công vụ nhà nước
thông qua yếu ốt “dân chủ”, từ đó làm cho hoạt động công vụ nhà nước không bị máy
móc, xơ cứng, mà có sự thay đổi linh hoạt phù hợp với thực tiễn.
*Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo tính khách quan của hoạt động công vụ nhà nước. Đây là
nguyên tắc đòi hỏi tất cả các quá trình thực hiện hoạt động công vụ nhà nước phải tôn
trọng tuân thủ các quy luật khách quan (tự nhiên, xã hội).

*Thứ tư, nguyên tắc pháp chế của hoạt động công vụ nhà nước . Nếu như chúng ta thừa
nhận là nhà nước phục vụ xã hội, hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm vào việc
thỏa mãn những nhu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của con người, thì rõ ràng tất cả mọi
điều trong hoạt động công vụ nhà nước đều phải được pháp luật điều chỉnh và phải được
tuân theo một cách vô điều kiện, trong đó Hiến pháp là tối thượng. Do vậy, logic của vấn
đề là nếu các hoạt động công vụ nhà nước tuân thủ theo đúng Hiến pháp và pháp luật thì
cũng có nghĩa là hoạt động công vụ nhà nước đó đã được thực hiện theo đúng ý chí của
nhân dân.

*Cuối cùng là nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ Nhà nước.

Ngoài nguyên tắc ngầm như trên, về phương diện pháp lý, các nguyên tắc trong thi hành
công vụ được quy định trong điều 3, Luật Cán bộ, công chức

1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật


2. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
3. Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra giám sát
4. Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả
5. Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ.

Câu 49. Hệ thống các văn bản pháp luật về công chức.

Trả lời

Hệ thống văn bản pháp luật về  công chức ở Việt Nam:

– Luật cán bộ công chức.

– Nghị định của Chính phủ về việc tuyển dụng,sử dụng và quản lý cán bộ,công chức
trong các cơ quan nhà nước.

– Nghị quyết số 1130/2016/UBTVQH13 ngày 14/01/2016 về tiêu chuẩn, điều kiện thành


lập Ban Dân tộc của Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

-Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25 /01/2010 quy định những người là công chức
-Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3 /2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công
chức Đã được thay thế bằng Nghị định số 101/2017/NĐ-CP

-Nghị định 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 quy định về quản lý biên chế công chức

-Nghị định 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức

– Nghị định 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 quy định về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu
đối với công chức

-Nghị định 67/2010/NĐ-CP ngày 15/6/2010 quy định về chế độ, chính sách đối với cán
bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội Đã được thay
thế bằng Nghị định 26/2015/NĐ-CP

–  Nghị định 93/2010/NĐ-CP ngày 31/8/2010 của Chính phủ sửa đổi một số điều của
Nghị định số 24/2010/NĐ-CP-

– Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức

– Nghị định 66/2011/NĐ-CP ngày 01/8/2011 quy định việc áp dụng Luật cán bộ, công
chức đối với chức danh lãnh đạo, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu và người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà
nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước

– Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 về công chức xã, phường, thị trấn

– Nghị định 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành
Nội vụ

– Thông tư 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018 hướng dẫn một số điều của Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức

– Thông tư 04/2018/TT-BNV ngày 27/3/2018 hướng dẫn về thẩm quyền, thủ tục bổ


nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, thay thế và phụ cấp trách nhiệm công việc của kế toán
trưởng, phụ trách kế toán của các đơn vị kế toán trong lĩnh vực kế toán nhà nước

Câu 50. Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức.(cho ví dụ để minh họa).

Trả lời
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Thủ tướngChánh án TAND tối cao

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Chủ tịch Hội đồng nhân dân…

(Luật cán bộ, công chức năm 2008, điều 4, khoản 1)

2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

Một số ví dụ về đối tượng là công chức đó là:

+ Chủ tịch UBND cấp huyện

Phó Chủ tịch UBND cấp huyện

+ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh

Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh

+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh

Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh

+ Thẩm phán, Thư ký Tòa tại Tòa án nhân các cấp

+ Kiểm sát viên tại các Viện kiểm sát các cấp.

(Luật cán bộ, công chức năm 2008, điều 4, khoản 1)


3. Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

Ví dụ: Giáo viên tại những trường học công lập được coi là viên chức

Ví dụ: Bác sỹ tại các bệnh viện công cũng chính là viên chức. Ngoài ra, kế toán tại các
Tòa án, trường học công lập, một số đơn vị sự nghiệp công lập khác cũng là viên chức.

(Luật viên chức năm 2010, điều 2)

You might also like