You are on page 1of 12

Ngày soạn ............................... Ngày dạy..............................

Tiết 21-22-23-24
VIỆT BẮC- Tố Hữu

A. Yêu cầu
 Nắm được đôi nét tác giả, tác phẩm.
 Phân tích nội dung và nghệ thuật qua từng đoạn thơ.
 Rèn kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý và diễn đạt
B. Khiến thức cơ bản
GV tái hiện kiến thức cơ bản bằng cách đặt câu hỏi gọi kiểm tra bài cũ – Nhận xét
I. Khái quát chung
1. Tác giả
- Lá cờ đầu trong phong trào thơ ca cách mạng.
- Thơ đậm đà tính dân tộc và màu sắc trữ tình chính trị
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Tháng 10/1954 các cơ quan Trung ương cùa Đảng và Chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng
Việt Bẳc trở về Hà Nội.
- Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
b. Đại ý:
Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc
của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về
cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
II. Nội dung kiến thức
1. 8 câu thơ đầu: Khung cảnh chia tay và tâm trạng con người.
“Mình về mình có nhớ ta
……………………
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
a/ Bốn câu thơ đầu : Tâm trạng của người ở lại
- Là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại.
- Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: Mình về mình có nhớ ta?
- Cụm từ chỉ thời gian: Mười lăm năm ấy...(1940-1954).
- Cụm từ “Thiết tha mặn nồng”: tình cảm keo sơn gắn bó....
- Các hình ảnh cây-núi-sông-nguồn: đều gợi nhớ về không gian VB.
- Nghĩa tình của kẻ ở người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ “mình”, “ta” thân thiết.
b/ Bốn câu thơ sau : Tâm trạng của người ra đi
- Là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi “ bâng khuâng”, “ bồn chồn” cùng cử chỉ
“cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh vật và
con người Việt Bắc .
- Đại từ “ai” phiếm chỉ nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi, thân thương .
- Hình ảnh “áo chàm” – nghệ thuật hoán dụ có giá trị khắc hoạ bản sắc trang phục của đồng bào
Việt Bắc, nhưng cũng chính là để nói rằng ngày tiễn đưa cán bộ kháng chiến về xuôi cả nhân dân
Việt Bắc đưa tiễn.
- Hình ảnh “ cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thật cảm động.
2. 12 câu thơ tiếp: Gợi lên những kỉ niệm ở Việt Bắc
“Mình đi, có nhớ những ngày
...............................................
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
a/ Bốn câu đầu : Gợi những kỉ niệm kháng chiến gian khổ
- 2 câu đầu : Hình ảnh tả thực Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù gợicảnh núi rừng đầy
hoang sơ khắc nghiệt, đồng thời ẩn dụ cuộc sống cực khổ.

1
- 2 câu tiếp: Hình ảnh cơm chấm muối mối thù nặng ẩn dụ cuộc sống thiếu thốn nhưng nhiệm vụ
nặng nề.
b/ Bốn câu tiếp : Gợi những kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên và con người nặng nghĩa tình:
- 2 câu đầu : Hình ảnh rừng núi hoán dụ chỉ người Việt Bắc, ai chỉ người cán bộ.
- 2 câu tiếp: Hình ảnh Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son vừa ẩn dụ, vừa tương phản thể hiện dù
cuộc sống nghèo nhưng tấm lòng vẫn thuỷ chung với cách mạng
c/ Bốn câu cuối : Gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh có ý nghĩa lịch
sử:
- 2 câu đầu : hỏi để gợi nhớ tháng ngày kháng Nhật, lúc Việt Minh còn hoạt động ở Việt Bắc.
- 2 câu tiếp: hỏi người cán bộ có nhớ mình?, gợi nhớ các địa danh đi vào lịch sử. Việt Bắc là cội
nguồn của cách mạng.
3. 10 câu thơ tiếp: Tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc
“Ta với mình, mình với ta
......................................................
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
a/ Bốn câu thơ đầu, người cán bộ bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với Việt Bắc
- Sử dụng hai từ ”ta”, ”mình”, đảo vị trí tạo ấn tượng về sự quấn quýt giữa cán bộ và nhân dân
- Từ ”lòng ta”kết hợp với từ trái nghĩa ”sau-trước” để chỉ thời gian và từ láy ”mặn mà”, ”đinh
ninh” diễn tả tỉnh cảm sâu nặng thủy chung.
- Câu thơ thứ ba là lời đáp hô ứng với câu thơ ”mình đi mình có nhớ mình”
- Câu thơ thứ tư dùng so sánh theo cách nói ca dao diễn tả tình cảm trong sáng, không thể kể hết.
b/ Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở
về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.
+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với
không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm.
- Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ
tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những
buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương.
- Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông
và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận.
 Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng
biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt
với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến
như thế
(Liên hệ: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”_Chế Lan Viên)
4. 12 câu thơ tiếp:Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt
hiện hình nổi sắc chân thực
“Ta đi ta nhớ những ngày
......................................................
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
a/ 2 câu đầu: Sự gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa người CM và người VB
- Từ “đây - đó” chỉ vị trí liền kề
- Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ những gian khổ và niềm vui
 Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người Cách Mạng, cùng chịu
gian khổ, chia sẻ niềm vui.
b/ 2 câu tiếp làhình ảnh chân thực về đời sống kháng chiến gian nan, cực khổ:
- Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách
dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân
dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.

2
- Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách
mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
 Đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia. Tất cả những khoảnh khắc ấy cứ sáng mãi trong
lòng người ra đi, sống trong tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn một thời không thể xoá nhoà.
c/2 câu tiếp theo là hình ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống kháng
chiến:
- Hình ảnh chọn lọc: “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt
chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang cán bộ
cách mạng.
- Đó còn là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai
nhòa trong kí ức của người về xuôi.
( Liên hệ: Hình ảnh mẹ Việt Bắc rất giống như hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru
những em bé lớn trên lưng mẹ”:“Mẹ thương Akay, mẹ thương bộ đội” Nguyễn Khoa Điềm
d/ 6 câu cuối:nhớ về cuộc sống, sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên
- Nhớ “lớp học i tờ” xóa mù chữ: Cách mạng đem đến cho nhân dân không chỉ tự do mà còn đem
đến ánh sáng của tri thức;
- Nhớ nhịp sống những “ngày tháng cơ quan”, ”gian nan vẫn ca vang núi đèo” gợi tinh thần lạc
quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ bất chấp khó khăn;
- Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nên cối,
tiếng suối xa,….Đó là những hồi ức về cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt
Bắc.
- Điệp cấu trúc “Nhớ sao” 3 lần cùng phép đối lập và cảm hứng lãng mạn
- Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người
kháng chiến.
5/ 10 câu thơ tiếp: Bức tranh tứ bình nơi Việt Bắc
” Ta về mình có nhớ ta
.......................................
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
a/ 2 câu đầu: Cảm xúc bao trùm:
- Ta là người ra đi và mình là người ở lại.
- Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” là cái cớ để bày tỏ tấm lòng của người ra về.
- Người ra về lòng vẫn nhớ, nhớ “hoa và người”.
- Điệp từ “Ta về” và “nhớ”tăng thêm nhạc điệu êm ái, hợp vời nỗi nhớ thương và nhấn mạnh
tình cảm tha thiết giữa người đi- kẻ ở. “Hoa ” là thiên nhiên đẹp tươi sáng và “người” là con
người Việt Bắc.
Thiên nhiên hòa điệu với con người, trở thành hai bộ phận không thể tách rời nhau. Hoa
và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt
Bắc trùng điệp.
b/ 2 câu tiếp: Khởi đầu bức tranh tứ bình là bức tranh mùa đông :
- Tại sao lại là mùa đông khởi đầu bộ bức tranh tứ bình? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ
phút chia tay (Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân
kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân cầu
sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc cũng vào mùa đông)
- Bức tranh mùa đông Việt Bắc được miêu tả bằng màu xanh bạt ngàn của núi rừng.
- Giữa màu xanh biếc đó là màu đỏ rực của hoa chuối như những bó đuốc thắp lên sáng rực và cả
màu vàng của nắng.
 Chính vì thế, mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo mà có phần ấm áp, tuôn trào sức sống.
- Điều này còn được biểu hiện qua hình ảnh con người lên núi lao động Đèo cao nắng ánh dao
gài thắt lưng. Đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng, làm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên
tầm cao của núi đèo, ánh nắng mặt trời chiếu vào những con dao ấy tạo nên sự phản quang rực
rỡ, lấp lánh.

3
 Chỉ một câu thơ thôi nhưng ta có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ hào hùng của con
người lao động làm chủ thiên nhiên.
c/ 2 câu tiếp: Bức tranh mùa xuân
- Mới vừa rồi là màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, giờ nở bung ra những rừng mơ trắng
muốt thoảng hương thơm.
-Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng người đọc một cảm
giác thơ mộng, bâng khuâng.
 Liên hệ: (" Ôi sáng xuân nay, xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
-Theo chân Bác_ Tố Hữu)
- Và gắn với khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh người lao động rất đẹp :
+ Chữ “chuốt” là trau chuốt, làm bóng lên, đẹp lên.
+ Chữ “từng” đã gợi tả được đức tính cần mẫn, tỉ mĩ và chịu khó.
 Con người cần cù, tài hoa ấy thật đáng yêu, đáng nhớ.
d/ Bức tranh mùa hè:
- Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc cả thị giác lẫn thính giác.
+ Mùa hè được cảm nhận bằng âm thanh quen thuộc “ve kêu” và bằng hình ảnh rất riêng của núi
rừng Việt Bắc "rừng phách đổ vàng".
+Phách là một loại cây thân gỗ, nở hoa vàng vào đầu mùa hè.
+ Chữ “đổ” trong câu thơ là một “nhãn tự”, diễn tả sự rộng khắp, dàn đều của màu sắc.
 Thật tráng lệ, hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh rừng phách đang ngả sang màu vàng
rực rỡ, lung linh trong nắng hè, cùng với âm thanh rộn rã của tiếng “ve ngân”suốt đêm ngày.
- Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì có thêm bóng dáng của một cô gái
“hái măng một mình”.
+ Từ “hái” phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái Việt Bắc.
+ Cách hiệp vần lưng “gái- hái” và lặp phụ âm “m” liên tiếp của các từ “măng-một-mình” tạo
cho câu thơ mang tính nhạc hấp dẫn.
+ Người Việt Bắc là cô gái trẻ trung xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu, rừng
tre nứa trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có “một mình”nhưng chẳng hề cô đơn. Cảnh thiên nhiên
tuyệt mỹ giờ lại khắc thêm vào hình ảnh người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi lạc quan làm việc lại
càng có hồn, có sức sống. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho
nhau. Con người đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
e/ Bức tranh mùa thu:
- Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến
khu.
- Chỉ một chữ “rọi”, câu thơ đã gợi ra được hình ảnh rừng cây, núi đá, khe suối, bản làng...Việt
Bắc như đang phơi trải, tắm mình dưới vầng trăng trong ngần trên bầu trời xanh ngát.
- Trong khu rừng thấm đẫm ánh trăng, bỗng ngân nga lên tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng
người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ chung, tình nghĩa của con người Việt
Bắc.
 Thế nên ánh trăng dường như cũng ngời sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa hơn.
6/ 10 câu thơ tiếp: Nỗi nhớ về một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
.........................................
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà...
a/ Bốn câu thơ đầu, người cán bộ nhớ về thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc :
- Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có
tình người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của
toàn quân.
- Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần như tạo thành thế
hiểm của lũy thép vây bọc quân thù.
- Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây, bằng phép nhân hóa, rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá
để rồi trên dưới một lòng cùng con người đánh đuổi quân xâm lược.
4
-Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm nhận hai công việc. Như một người mẹ che chở cho con
mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước.
- Rừng trở nên kiên quyết đến dữ dằn cùng với việc vây quân thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp
điệp của rừng, cái khí thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ thù
khiếp sợ và bất lực.
Quả thật Việt Bắc đã trở thành “Địa linh nhân kiệt” kể từ đó. Qua đó càng làm sáng tỏ thêm
nhận định: Việt Bắc là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
b/ 2 câu tiếp: Việt Bắc trong giai đoạn kháng chiến.
- Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng khắp nơi, khiến cho khung cảnh chiến đấu trở
nên uy linh và không kém phần lãng mạn.
- Những dù giữa một biển sương mù khó khăn, con người vẫn không mất đi vẻ đẹp lãng mạn của
lòng mình.
- Với hình ảnh chọn lọc “mênh mông bốn mặt sương mù”, chiến khu mang nét đặc trưng rộng
lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.
- Cùng với cụm từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng, và sự tương phản
“Mênh mông bốn mặt” và “chiến khu một lòng”: Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang
cùng nhìn về một hướng, đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương
đất nước yêu dấu của mình.
 Thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
c/ 4 câu cuối: Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang
dội:
7/ 12 câu tiếp: Hồi ức về bức tranh Việt Bắc ra trận
” Những đường Việt Bắc của ta
.......................................
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
a/ 2 câu đầu: những đường Việt Bắc ra trận
- Những nhịp điệu “đêm đêm”,những điệp thanh“rầm rập” cùng với biện pháp so sánh “như là
đất rung” đã cho ta thấy mặt đất như đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến sĩ
trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
- Đây là hình ảnh hào hùng, là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa
bốn nghìn năm của dân tộc mà không thế lực nào có thể ngăn cản được.
b/ 2 câu tiếp: hình ảnh bộ đội ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng mạn:
- Hiện thực ở chi tiết những đoàn quân nối tiếp nhau, ở những chiếc mũ nan giản dị.
- Sự trùng điệp được nhân lên “điệp điệp trùng trùng”thật đông đảo, người người lớp lớp như
sóng cuộn và lãng mạn ở hình ảnh “ánh sao đầu súng”, ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng
thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao của lý tưởng chiến đấu.
Đây là tứ thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ.
c/ 2 câu tiếp: Sức mạnh chiến đấu mạnh mẽ
- "Dân công đỏ đuốc từng đoàn":Trong chiến tranh, nhân dân ta lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm
ngày. Bởi thế nên giữa đêm Việt Bắc ra quân, cạnh những đoàn quân đi, ta còn thấy hình ảnh Họ
cũng như những người lính, hăng hái ra trận, hăng hái lên đường.
- Giữa cái cảnh hào hùng ấy, hình ảnh "muôn tàn lửa bay "gợi cho ta một vẻ đẹp rất lãng
mạn. Những tàn lửa bay ra từ những bó đuốc rơi xuống mặt đất thực sự đã làm cho con đường ra
trận thêm lung linh, huyền ảo. Ta có cảm giác con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực
rỡ.
- Không chỉ sử dụng các hình ảnh, các từ láy, cách nói cường điệu trong câu thơ "bước chân nát
đá” đã diễn tả sức mạnh của lòng quyết tâm từ hàng vạn con người. Họ sẵn sàng đạp bằng mọi
chông gai để đi đến chiến thắng. (Liên hệ:Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông đã lấy ý
tưởng từ câu ca dao: “Trông cho chân cứng đá mềm/Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng ")
Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm ca ngợi sức mạnh của con
người Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. Ý thơ mang tầm vóc sử thi.
d/ 2 câu tiếp: niềm tin tưởng lạc quan.
5
- Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn.
- Bỏ đằng sau cái nghĩa thực của cuộc hành quân xuyên rừng vượt núi, xuyên qua đêm tối sương
dày thăm thẳm thì nghĩa bóng về hình ảnh ngày mai lại thật lạc quan phơi phới "đèn pha bật
sáng như ngày mai lên".
Nghệ thuật so sánh lại được nhà thơ sử dụng thật thành công.
- Hình ảnh đèn pha bật sáng được ví như mặt trời mọc "như ngày mai lên ". Như vậy, ngày mai
đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ có đèn pha bật sáng, nhờ có sức mạnh của con người cộng với
lý tưởng cao đẹp : chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước.
Câu thơ vừa thể hiện được cái dư vị của cảnh hành quân hoành tráng, đầy hào khí chiến đấu,
chiến thắng, vừa thể hiện một niềm tin, lạc quan phơi phới: tin vào tương lai tươi sáng của dân
tộc.
e/ 4 câu cuối: Niềm vui chiến thắng.
- Hàng loạt các địa danh được liệt kê: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê,...
trước đó là: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,… mỗi địa danh ghi dấu một chiến công
của dân tộc.
- Cách gọi tên các địa danh đã diễn tả được tình yêu núi sông và niềm tự hào trào dâng trong lòng
tác giả khi nghĩ về những chiến công oanh liệt trên khắp mọi miền đất nước.
- Cùng với những địa danh ấy là điệp từ “vui” được lặp nhiều lần kèm với các giới từ “tin vui
chiến thắng…vui về…vui từ…vui lên…” gợi tả chiến thắng giòn giã, dồn dập, như tiếng reo
mừng cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam.
C. Luyện đề
1. Đề 1.
1. Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến ấy qua đoạn thơ sau:
– “Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
– Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
ĐỊNH HƯỚNG
a/ Giải thích ý kiến, nhận định
– Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự kiện chính trị nhằm
mục đích tuyên tuyền, cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị thường có nguy cơ rơi vào khô khan,
áp đặt.
– Ý kiến của Xuân Diệu: Tố Hữu đã “trữ tình hóa” thơ chính trị, để thơ chính trị thực sự là thơ,
có sức rung cảm sâu xa. Đây là ý kiến đánh giá rất cao về thơ Tố Hữu.
b/Phân tích đoạn thơ để chứng minh nhận định
Trước khi phân tích đoạn thơ, học sinh cần nêu khái quát về tác phẩm : Hoàn cảnh sáng tác, nội
dung, bố cục, thể thơ, nguồn cảm hứng,…(nếu những thông tin này đã viết ở phần mở bài rồi thì
không nhắc lại trong phần thân bài nữa)
– Đoạn thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầy xúc động của những người đã từng gắn bó suốt
mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình. Bao trùm trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi nhớ
da diết mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau. Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt Bắc:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn ?
+ Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Hai đại từ “mình” – “ta” được lặp lại nhiều lần. Đó
là cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, nghe
6
thiết tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt. “Mình” là người cán bộ về xuôi, “ta” là
người Việt Bắc.
+ Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du:
Mười lăm ấy biết bao nhiêu tình.
+ Đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu. Câu hỏi tu từ “có nhớ ta”, “có
nhớ không” nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình.
– Ở bốn câu đầu này, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc không. Nghĩa là có nhớ
quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng không? Hỏi mà là nhắc nhở, nhắn gửi người về
đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính mình. Lời hỏi cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về
đừng quên Việt Bắc.
– Bốn câu thơ tiếp là lời người cán bộ về xuôi. Đáp lại lời của người Việt Bắc,người cán bộ cất
tiếng thiết tha:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
+ “Ai” là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc.
+ Các từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu
luyến, bịn rịn.
+ “Áo chàm”: Nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việ Bắc thường mặc áo
chàm. Màu chàm là màu đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt mà giản dị, chân thành, chung thủy.
Câu thơ “Áo chàm…phân li” ngắt nhịp 3/3 tạo khoảng lặng lắng đọng cảm xúc. Đó có thể là
khoảnh khắc người dân Việt Bắc không thốt nên lời hay đang buông tiếng nấc nghẹn ngào tha
thiết.
+ Câu hỏi tu từ và dấu “chấm lửng” ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thể hiện
tình cảm tha thiết. Ngôn ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động. Biết nói gì, không
phải là không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương.
c/ Bình luận
– “Việt Bắc” chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng
chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn
ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ
tình chính trị của thơ Tố Hữu.
– Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành
tựu lớn lao của đời thơ Tố Hữu.
– Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn
thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng,
dân tộc, cách mạng.
– Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao.
Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa
thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một
giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến.
2/ Nhận định về bài thơ “Việt Bắc”, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Sức hấp dẫn mạnh
nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm
đà và nhuần nhuyễn”. Anh/Chị hãy làm rõ nhận định đó qua đoạn thơ sau:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
7
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
ĐỊNH HƯỚNG
– “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê
hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.
– Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân
tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc
đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý
và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu
sắc dân tộc.
+ Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc
dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính
dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời.
+ Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền
thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc
riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
– Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
+ Tác giả sử dụng điệp ngữ hai lần “ta về”. Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi
người, ở dưới là giãi bày lòng mình. Cặp từ “ta”, “mình” được xưng hô như cách đối đáp giao
duyên của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc
thành cuộc “giã bạn” của lứa đôi. “Ta” là người cán bộ kháng chiến, “mình” là nhân dân Việt Bắc
đang lưu luyến chia tay. Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” thể hiện sự lưu luyến của người đi, kẻ ở.
+ “Nhớ hoa” là nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người. “Nhớ người” là nhớ
người dân Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng.
Bức tranh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
– Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự “tương phản” của hai màu
xanh, đỏ làm cho núi rừng bớt hoang vu, lạnh lẽo mà trở nên ấm áp hơn.
– Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật đảo ngữ “nắng ánh”
(động từ) là các luồng sáng của nắng chói lên bởi sự phản quang của lưỡi dao rừng thắt trên lưng
người dân khi họ đi khai thác lâm, thổ sản. Đó là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị của người lao
động.
Bức tranh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
– Hoa mơ tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh
thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của hai chữ trắng rừng bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của
con người. Một bài thơ khác, Tố Hữu cũng viết rất hay về mùa xuân của núi rừng Việt Bắc:
“Ôi sáng xuân nay xuân, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
Bác về nín lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ” (Xuân 41)
– Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan thai. Động từ “chuốt” là
làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón. Hai từ “chuốt” và “từng” gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ,
chịu thương chịu khó của người đan nón. Họ làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động và còn để
tặng cán bộ kháng chiến.
Bức tranh mùa hạ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
8
– Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả một rừng phách
như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt “đổ vàng”. Hai động từ “kêu” và “đổ” thể
hiện không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ. Đổ vàng là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây trút
lá vàng. Hai câu thơ gợi nhắc ý thơ của Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.” (Trích Thơ duyên)
– Hình ảnh người lao động: Cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào,
sâu lắng. Đọc câu thơ, ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần lưng (gái, hái)
và điệp phụ âm đầu “m”(măng, một, mình). Cô gái say sưa lao động trong một không gian vui
tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng, trẻ trung cho bức tranh
mùa hạ.
Bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
– Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả. Từ “hòa bình”
vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trăng thu
huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kính về cuộc sống thanh bình êm ả.
– Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng “tiếng hát ân tình thủy chung” của ai đó nghe thật bâng
khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng suốt
đời thủy chung với cách mạng.
– Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa
kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc… Tiếng ve của mùa hè,
tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ,
vàng ửng của hoa phách… Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị,
thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
– Nhận xét của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh hoàn toàn xác đáng. Trước hết qua đoạn thơ, trên
phương diện nội dung ta thấy, phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam.
+ Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn
liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui
buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” được xem là một trong
những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc.
– Trên phương diện hình thức nghệ thuật, tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu được thể
hiện ở những nét chính sau đây: ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc.Lối
cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo.
+ Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một cách
đặc sắc trong đoạn thơ bức tranh tứ bình. Nhà thơ đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng
tạo cặp đại từ nhân xưng “mình”, “ta” của ca dao xưa. Ở đầu đoạn thơ, cặp đại từ “mình”, “ta”
được sử dụng một cách sinh động, linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Cách xưng hô
“mình”, “ta” trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những đôi bạn tình trong ca dao tình yêu.
+ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một đôi trai gái lúc
xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang cốt cách thuần túy Việt
Nam. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ lục bát, mang âm điệu dịu dàng duyên
dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát, tiếng ngâm, lời ru đã chắp cánh cho thơ Tố Hữu bay đến mọi
miền của đất nước. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả chuyển tải được
những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt.
+ Tính dân tộc trong đoạn thơ còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Âm điệu thơ của Tố Hữu
có đặc trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru
của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Tố Hữu rất tài tình trong việc phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết
tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, chứa đựng
cảm xúc dân tộc.

9
+ Cũng trong đoạn thơ, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống lao động và
chiến đấu của nhân dân. Đó là hình ảnh “hoa mơ”, “hoa chuối”, “rừng xanh”, “đèo”, “trăng rọi
hòa bình”,…hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của người Việt.
3/ Làm rõ tính dân tộc của thơ Tố Hữu qua đoạn thơ sau:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
(Việt Bắc – Tố Hữu)
ĐỊNH HƯỚNG:
Ý1. Sơ lược về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu:
– Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những
nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc.
- Tính dân tộc trong văn học được thể hiện ở phương diện nội dung và nghệ thuật
+ Ở phương diện nội dung: phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống cách mạng, những tình
cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc.
+ Ở phương diện nghệ thuật: sử dụng các thể thơ dân tộc, lối nói truyền thống của dân tộc (cách
so sánh, ẩn dụ, hiện tựợng chuyển nghĩa, cách diễn đạt gần với ca dao dân ca).
Ý2. Tính dân tộc của thơ Tố Hữu qua đọan thơ:
– Ở phương diện nội dung:
 Đoạn thơ tái hiện cuộc chia tay lưu luyến giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ cách
mạng.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại,khơi gợi kỉ niệm về một
giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ thương, tình
cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về
xuôi.
 Bốn câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâmtrạng bâng khuâng,
bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
 Nghĩa tình sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu ViệtBắc, của quần chúng
đối với cách mạng trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người
Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.
– Ở phương diện nghệ thuật:
 Thể thơ lục bát: Tố Hữu đã vận dụng và phát huy được ưu thế củathể thơ lục bát, một thể
thơ dân tộc có nhạc điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển rất phù hợp để bộc lộ tình cảm, cảm xúc
của kẻ ở, người về.
 Kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao.
 Sử dụng tài tình đại từmình – ta.
Lối nói truyền thống được thể hiện qua biện pháp hoán dụ. Câu thơgiàu nhạc điệu với hệ thống
từ láy, cách ngắt nhịp…
Tất cả đã làm nên giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Đoạnthơ là khúc hát ru kỉ niệm, khúc
hát ân nghĩa, ân tình.
Ý 3: Bình luận
– Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố
Hữu trong việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng và Dân tộc trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca.
– Tính dân tộc là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố
Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại Cách mạng.
10
III. TRÍCH DẪN Ý KIẾN VÀ LIÊN HỆ:
1.Trích dẫn:
1.1. Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ
tình”

11
1.2. .Về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: Bài thơ vừa đậm đà tính dân tộc, vừa
thể hiện cảm quan của thời đại cách mạng
1.3. .Có ý kiến cho rằng:“ Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc
hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”.
1.4. Có ý kiến cho rằng:“Việt Bắc cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết
của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của thơ ông”
1.5. Một số đánh giá khác về tác giả, tác phẩm này:
-“Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh
chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên)
-“…Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình thơ rất đỗi trữ tình… (Xuân Diệu).
-“ Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chin rộ, …, không phải là một cây bút trong
tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người.
Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…”.
( Xuân Diệu).
- Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình-chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy chung
réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vamg sâu thẳm, lâu bền của bài
thơ…” (Trần Đình Sử).
-“… Bài thơ Việt Bắc là kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca
kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát, …, lối hát
đối đáp, …, nhiều biện pháp tu từ,…, được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng,
thuần nhị và có nhiều nét cách tân, nhất là hai đại từ Mình- Ta. Và cả tiếng nói yêu thương- nét
nổi bật trong phong cách Tố Hữu. Tư tưởng thì mới mẻ với những dự báo sáng suốt được thể
hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên bằng âm nhạc làm say mê lòng người…” (Nguyễn Đức
Quyền, in trong Phân tích thơ văn 12).
2. Liên hệ
2.1. Liên hệ với Từ ấy- Tố Hữu:
– Trong Việt Bắc:
+ Tình cảm cách mạng là tình cảm từ hai phía trong kháng chiến gian khổ nhưng thật hào hùng.
Tình cảm ấy đã được thể hiện thật xúc động trong cảnh chia tay với tâm trạng lưu luyến bịn dịn
và nỗi nhớ tha thiết của người đi – kẻ ở.
+ Tình cảm được gợi tả bằng thể thơ lục bát truyền thống và kết cấu theo lối đáp giao duyên
trong ca dao dân ca.
– Trong đoạn thơ Từ ấy:
+ Tình cảm cách mạng là tình cảm lớn của người thanh niên yêu nước trong buổi đầu giác ngộ lí
tưởng cách mạng.
+ Tình cảm ấy được gợi tả bằng thể thơ thất ngôn với âm điệu tha thiết, sâu lắng. Giọng thơ tự sự
– người thanh niên yêu nước kể lại một kỉ niệm vui sướng trong cuộc đời cách mạng của mình:
ngày chính thức đến với lí tượng cách mạng, từ đó có sự chuyển biến lớn trong nhận thức và tình
cảm.
2.2. Khi miêu tả thiên nhiên trong Việt Băc, ta liên hệ đến Tràng Giàng-Huy Cận:
* Nhận xét vể sự khác biệt trong cảm nhận thiên nhiên của 2 tác giả:
– Việt Bắc: Thiên nhiên ấm áp, tràn đầy sức sống, hòa hợp với con người.
– Tràng giang: Thiên nhiên mênh mông, hoang vắng, chia lìa nhau và xa cách với con người.
Lý giải sự khác biệt: do hoàn cảnh sáng tác, thế giới quan và phong cách nghệ thuật của 2 nhà
thơ khác nhau. (Sau này khi tìm được sự hòa hợp, tìm được lối thoát khỏi cái tôi cô đơn, Huy Cận
cũng cảm nhận được thiên nhiên trong sự hồi sinh, gắn bó với con người: Đất nở hoa, Trời mỗi
ngày lại sáng).

12

You might also like