You are on page 1of 35

CHIẾN THUẬT CỨU NẠN, CỨU HỘ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

(XE Ô TÔ KHÁCH, LOẠI TỪ 15- 45 CHỖ NGỒI )

MỤC LỤC

I. Đặc điểm liên quan đến chiến, kỹ thuật cứu nạn, cứu hộ ôtô khách……..2
1.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác cứu nạn, cứu hộ sự cố tai nạn ôtô
khách ………………………………………………..……………………….….2
1.2. Đặc điểm các dạng sự cố, tai nạn thường xảy ra với ôtô khách………..…..7
II. Tổ chức các hoạt động cứu nạn, cứu hộ…………………………………10
2.1 Tổ chức hoạt động cứu nạn, cứu hộ khi sự cố tai nạn ô tô khách……….10
2.1.1. Nhận tin cứu nạn cứu hộ………………………………………………..10
2.1.2 Trên đường đến hiện trường…………………………………………….11
2.1.3 Trinh sát hiện trường……………………………………………………17
2.1.4. An toàn chung cho hiện trường cứu nạn cứu hộ………………………27
2.2. Ổn định hạn chế nguy hiểm trong thực hiện cứu nạn , cứu hộ…………..19
III. Triển khai các chiến thuật cứu nạn, cứu hộ ô tô khách……………...21
3.1. Tình huống 1- Trường hợp xử lý đơn giản………………………………...21
3.2. Tình huống 2- Trường hợp xe khách bị mắc kẹt cửa trước..……………....23
3.3. Tình huống 3 – Chiến thuật tạo lối thoát bên sườn xe ………………………...24
3.4.Tình huống 4 - Tình huống có người bị mắc kẹt dưới gầm xe khách……...25
IV. Đảm bảo an toàn trong cứu nạn, cứu hộ ô tô khách………….……….28
4.1. An toàn cho chiến sĩ cứu hộ cứu nạn………………………………………28
4.2. An toàn cho nạn nhân……………………………………………………...31

1
I. Đặc điểm liên quan đến chiến, kỹ thuật cứu nạn, cứu hộ sự cố tai nạn
ô tô khách
1.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác cứu nạn, cứu hộ sự cố tai
nạn ôtô khách

Hình 1.1. Xe ôtô khách - những nối thoát nạn (màu đỏ)
Ôtô khách là loại phương tiện liên quan đến nhóm các phương tiện vận tải
có tải trọng lớn, nhưng chúng lại có kết cấu khác với các loại xe còn lại. Khung
của xe ôtô khách chủ yếu là loại xát xi, một số ít có thân xe là loại body (là một
số loại xe đến 16 chỗ).
Ôtô khách loại nhỏ (dưới 16 chỗ ngồi): Thân xe được chế tạo kiểu body,
do xe có kích thước lớn nên thân xe vẫn được đặt trên một xát xi (dầm dọc), khi
đó cả khung xe và thân xe cùng tham gia vào chịu tải trọng cho xe.
Ôtô khách loại lớn (loại > 16 chỗ): Thân xe (salon hành khách) có chiều
cao lớn nhưng không được chắc chắn (so với kích thước và tải trọng của xe), dễ
bị biến dạng trong trường hợp bị tai nạn giao thông.

Hình 1.2. Xe ôtô khách - kết cấu khung của vỏ xe


Vỏ xe là loại thép tấm có độ dày không lớn (khoảng 0,3 - 0,7 mm) được
tạo dáng theo hình dạng của xe và hàn với nhau. Trên vỏ xe phần lớn là các tấm
kính bao quanh phần trên của thân xe. Phần kính được thiết kế là cửa sổ cho xe
ở dạng cửa lùa hoặc được gắn cố định vào khung thân xe.

2
Hình 1.3. Kết cấu thân xe khách 1 và 2 tầng
Các xe ôtô khách hiện nay đa phần có động cơ nằm ở phía sau và ở giữa
xe (ngang với lái xe xuống dưới). Tuy nhiên, có một số loại xe ôtô khách được
thiết kế có đặt động cơ ở phía trước của xe, gọi là xe khách trường học (chuyên
sử dụng chở học sinh).
Xe khách còn có các khoang để hàng hoá (cốp xe) ở phía dưới sàn xe, đây
là khoảng không gian rỗng với kết cấu theo dạng khung chịu lực chắc chắn,
phần sàn của cốp là thép tấm không chắc chắn (so với khối lượng của xe). Gầm
xe loại này thường có độ cao không lớn, hạn chế khả năng hoạt động của người
khi ở dưới gầm.
Nóc của xe có thể được thiết kế có một đến hai cửa lấy gió trời, có cấu tạo
kiểu một bản lề hay kiểu cơ cấu giữ. Nóc xe có dạng thép tấm được gắn trên
thanh chịu lực, khoảng cách các thanh này tương đối lớn, thuận lợi cho trường
hợp cắt trên nóc xe. Có trường hợp các tấm thép của nóc xe được tán đinh (tán ri
vê) trực tiếp vào thanh chịu lực của nóc xe thay cho hàn.
Cửa trên xe ôtô khách đa dạng, có thể là dạng cửa gấp (cửa xếp) có hai
cánh có gắn với pít tông đẩy thủy (khí) lực để điều khiển đóng mở, hay cửa mở
có dạng mở dọc theo xe theo kiểu ray trượt dọc, theo kiểu bản lề (loại lớn) - kiểu
cánh cung với thanh trụ dọc theo cửa, được kết nối với pít tông thủy (khí) lực.

3
Hình 1.4. Cửa trên xe ôtô khách
- Hệ thống treo xe: được lắp đặt giữa khung xe và các cầu xe. Hệ thống
treo xe của các loại ôtô khách sử dụng bốn loại lò xo cơ bản: lò xo xoắn, nhíp lá,
thanh xoắn, túi khí nén hoặc khí nén thuỷ lực. Hệ thống treo xe luôn có tải trọng
tác động, nên luôn ở trạng thái bị nén, do vậy khi phải chèn bánh xe, hay nâng
xe,… cần phải chú ý đến chuyển động của các bánh xe và trục bánh xe (hệ thống
treo xe chuyển về trạng thái nghỉ rồi đến trạng thái kéo).
Đối với một số loại ôtô khách 45 chỗ hiện nay, khi thực hiện công tác CNCH
cần chú ý đến:
+ Hệ thống treo bằng khí nén: Có dạng ống, giảm xóc bằng khí nén,
lượng khí cần thiết sẽ được nhanh chóng nạp hoặc xả vào ống thông qua các van
điện từ dẫn vào một kết cấu giảm xóc đặc biệt;
+ Hệ thống treo bằng bóng hơi (đệm khí - ballon khí): Tác dụng như bộ
nhíp lá đàn hồi, được cấu trúc từ các túi khí đặc biệt bằng cao su chứa khí nén
bên trong với áp suất từ 2 đến 7 bar (có thể thay đổi áp suất khí nạp vào). Có hai
dạng bóng hơi cơ bản: loại buồng xếp và loại buồng gấp. Ngày nay, thường
dùng loại buồng gấp;

Hình 1.5Bóng hơi loại buồngxếp Hình 1.6. Bóng hơi loại buồng gấp

4
Hình 1.7. Sơ đồ hệ thống bóng hơi lắp trên ôtô khách
1 – Đòn giằng dưới; 2 – Đòn giằng trên; 3 – Giảm chấn;
4 – Thanh đỡ; 5 – Thanh ổn định; 6 – Ballon khí nén
- Cầu xe: Tuỳ theo loại xe khách mà các cầu có cấu tạo khác nhau, do có
vai trò quan trọng, nên có kết cấu kiên cố, vững chắc với vật liệu tốt. Đây là nơi
gá đỡ, lắp đặt bộ vi sai, các bán trục và bánh xe chủ động, gắn các giá đỡ, các
vấu để bắt chặt hệ thống treo xe, hệ thống phanh - thắng các bánh xe. Đối với
những xe có tải trọng lớn có thể đặt thiết bị nâng đỡ xe lên tại các trục, các cầu
của xe.

Hình 1.7. Một số dạng cầu của xe


- Kính chắn gió: Là bộ phận an toàn quan trọng trên xe ôtô khách, bên cạnh
việc chắn gió và bụi, kính chắn gió còn bảo vệ tính mạng của lái xe và hành
khách trên xe trong các vụ va chạm. Trong trường hợp kính chắn gió bị vỡ các
mảnh vỡ vẫn phải bám lại đủ thời gian cho người lái xe quan sát đường rõ ràng
để phanh và dừng xe lại. Hiện nay, trên ôtô khách thường sử dụng hai loại kính
an toàn: kính ghép nhiều lớp (nhiều phiến) - Laminated và kính gia nhiệt hay
còn gọi là kính cường lực - Tempered.
Kính ghép nhiều lớp: Được sản xuất bằng cách xen giữa các lớp kính
mỏng là những lớp chất dẻo trong suốt Poly vinyl butyral (PVB). Lớp chất dẻo
PVB có khả năng giữ kính lại khi tấm kính bị vỡ, nhờ vậy làm giảm các chấn
thương do các mảnh kính vỡ văng ra. Đây là loại kính có khả năng khó bị đâm

5
xuyên hơn. Trên xe ôtô khách thường dùng loại kính có ba lớp, được sử dụng
chủ yếu ở vị trí kính chắn gió phía trước của xe, có những loại xe cũng được sử
dụng loại kính này ở tất các các vị trí của xe. Với loại kính này khi muốn đập vỡ
nó đạt được hiệu quả cao, đặc biệt là khi muốn đâm xuyên kính thì cần phải sử
dụng thiết bị phá có đầu nhọn. Do đặc thù của kính là khi vỡ vẫn còn kết dính
với nhau nên khi muốn loại bỏ kính, có thể loại bỏ các gioăng cao su giữ kính
vào khung thành xe nếu được, hay sử dụng cưa chuyên dụng để cưa - cắt kính
sau khi đã tạo lỗ thủng trên kính (khi kính được gắn với khung xe bằng keo
mềm).

Hình 1.8. Kính chắn gió trước - kính nhiều lớp


Kính gia nhiệt: Được chế tạo bằng cách nung nóng chảy rồi làm lạnh thật
nhanh, làm cho kính rắn chắc hơn. Quá trình này tạo ra loại kính có độ chịu lực
lơn hơn gấp 10 lần so với kính thông thường. Nó thường được dùng để chế tạo
kính bên và kính sau của xe ôtô khách. Kính gia nhiệt có đặc thù là khi sử dụng
những vật có tiết diện lớn để đập vỡ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, để dễ dàng hơn
thì có thể sử dụng vật có mũi (đầu nhọn - tiết diện nhỏ). Dễ dàng hơn trong việc
đập vỡ kính là khi đập nên đập vào phần góc, rìa cạnh của kính.

Hình 1.9. Kính chắn gió bên – kính gia nhiệt


- Ghế của xe ôtô khách : có cơ cấu điều chỉnh ghế ngả về phía trước - phía
sau, cơ cấu này thường nằm ở vị trí bản lề giữa hai tấm của ghế; điều chỉnh dịch
chuyển ghế tiến - lùi và cao - thấp của ghế, vị trí điều chỉnh này thông thường
nằm ở dưới và bên cạnh của ghế, ở dạng cần cầm hay núm vặn, công tác điều

6
chỉnh.
Ghế được gắn vào xe qua các thanh thép của chân ghế bằng bu lông, bên
cạnh ngoài của chân ghế được ốp các tấm chắn bằng nhựa để tăng tính mỹ quan
cho xe. Hai tấm của ghế được kết lối bằng hệ thống bản lề, theo chiều dài của
ghế mà có thể có từ hai bản lề của ghế trở lên.
Khi cứu nạn, cứu hộ sự cố tai nạn xe ôtô khách có thể cố định nạn nhân
vào ghế điều chỉnh ghế hoặc cắt ghế để tạo không gian đưa nạn nhân ra ngoài an
toàn.

Hình 1.10. Bản lề của ghế


Ghế trên xe ôtô khách có khả năng chịu lực kém, chân ghế dạng thanh và
cao được bắt chặt vào sàn xe bằng ốc, thường dễ bị hư hỏng bởi tải trọng của xe
khi tai nạn, khi cần loại bỏ ghế cũng dễ dàng nhưng phần chân ghế - sát sàn xe
là khó xử lý nhanh, công tác cứu nạn, cứu hộ cần chú ý an toàn. Hiện nay có rất
nhiều xe ôtô khách có kiểu giường hai tầng để phục vụ cho hành khách đi lại
được thoải mái hơn. Kết cấu của giường chỉ là các thanh thép hàn lại đơn giản.

Hình 1.11. Ghế xe ô tô khách


- Dây đai an toàn: Là một trong những phương tiện cơ bản bảo vệ người
lái xe và hành khách trên xe. Đeo dây đai an toàn sẽ giúp cho người lái và hành
khách không bị văng ra khỏi xe khi tai nạn, đồng thời cũng giảm thiểu sự xuất

7
hiện va đập thứ cấp trong cabin.
Dây đai an toàn có một bộ dây đai, một khoá an toàn, bộ phận điều chỉnh
và các đồ gá bắt chặt vào bên trong xe. Dây đai mềm được thiết kế để giữ cơ thể
người và truyền lực kéo đến các giá lắp đai. Khoá có cơ cấu tháo nhanh, điều
chỉnh đai giúp dây đai có thể được điều chỉnh độ giãn tuỳ theo ý muốn của
người sử dụng. Hiện nay, còn có dây đai an toàn tự thổi phồng, dây đai phình to,
diện tích tiếp xúc tăng làm giảm lực tác động tới cơ thể.

Hình 1.12. Dây đai an toàn tự thổi phồng


1.2. Đặc điểm các dạng sự cố, tai nạn thường xảy ra với ôtô khách
Thông thường khi tham gia giao thông, xe ôtô khách hay gặp một số trường
hợp tai nạn sau: Xe ôtô khách va chạm với chướng ngại vật; xe ôtô khách va
chạm với xe khác; xe ôtô khách bị lật, xe ôtô khách bị rơi (từ độ cao xuống); xe
ôtô khách xảy ra cháy (các bộ phận trên xe, chi tiết của xe và của hàng hóa có
trên xe).
Trong các va chạm, với đặc điểm cấu tạo của xe, khi xảy ra một va chạm
bất ngờ, các xe đều có sự biến dạng nhất định, đặc biệt là bị biến dạng từ phía
cửa của xe, trong một số trường hợp có thể còn xảy ra trường hợp bị cháy xe.
Khi xe bị tai nạn, do có sự tác động đột ngột từ một lực từ bên ngoài nên dễ dẫn
đến chấn thương và nguy cơ tử vong cho người ngồi trong xe: gãy xương, chấn
thương nội tạng, chấn thương đầu và cột sống, chảy máu, vết bầm tím, bỏng,…
- Khi xe bị va chạm từ phía trước: Xảy ra khi xe đang chuyển động với
một vật cố định (cột điện, cây, bức tường, một xe khác chạy ngược chiều hoặc
đang đỗ,…) hay có phương tiện khác đang chuyển động ngược với hướng xe

8
gây ra. Khi đó mặt phía trước của xe (phần đầu xe) sẽ bị biến dạng, khi lực tác
động lớn và có tính đột ngột làm xe bị ép lại, cửa xe bị kẹt, người ngồi trong
cabin của xe bị lực tác động đột ngột nên tạo ra sốc giật mạnh (đầu bị giật ra
phía sau, rồi nhanh chóng giật về phía trước và ngược lại tạo ra một tổn thương
do sốc giật mạnh làm các cơ dây chằng bị căng ra ở cổ), hoặc bị các chi tiết
trong cabin kẹp chặt, gây chấn thương. Mức độ biến dạng của xe theo phương
dọc và của người ngồi trong cabin này phụ thuộc vào tốc độ và khối lượng của
xe khi va chạm.

Hình 1.13. Xe ôtô khách đâm từ phía trước


- Xe bị đâm ngang (va chạm ngang): Là xe bị tác động lực từ sườn bên
này hướng sang bên sườn còn lại của xe. Xảy ra khi xe ôtô khách bị xe ôtô khác
(hay vật chuyển động khác) đâm ngang vào xe - hay gặp tại các vị trí có điểm
giao cắt trên đường, hay khi xe đánh lái bị kẹp sườn vào vật cố định (cây, cột
điện,…). Sau khi xảy ra va chạm, cửa bên va chạm bị biến dạng lớn, nạn nhân
ngồi trong cabin xe, nhất là bên va chạm bị lực tác động đột ngột nên tạo ra sốc
giật mạnh hoặc bị các chi tiết trong cabin kẹp chặt, gây chấn thương.

9
Hình 1.14. Xe ôtô khách bị đâm ngang
- Xe bị va chạm từ phía sau (bị đâm từ phía sau): Xe ít bị biến dạng hơn
nếu như đang cùng chuyển động, lực đột ngột do va chạm được giảm đáng kể,
người bị nạn ngồi trong xe được hạn chế nhiều chấn thương. Đặc biệt nguy hiểm
trong trường hợp xe ôtô khách đang đứng tại chỗ hoặc đang chuyển động nhưng
phía trước có xe hay trướng ngại phía trước (hay các phương tiên có tải trọng
lớn: tàu hỏa, xe buýt điện,…), khi đó mức độ biến dạng của xe theo phương dọc
sẽ rất lớn, do phần sau xe thường thì khả năng hấp thu lực khi va chạm là không
cao, làm biến dạng các kết cấu trong xe bị ép lại, cửa xe bị kẹt, người ngồi trong
cabin của xe bị lực tác động đột ngột nên tạo ra sốc giật mạnh, hoặc bị các chi
tiết trong cabin kẹp chặt, gây chấn thương nặng.

Hình 1.15. Ôtô khách va chạm từ phía sau


- Xe bị lật: Do xe vào cua hay do chất lượng mặt đường, đường dốc dẫn
đến xe bị lật. Khi đó dẫn đến biến dạng đáng kể sườn xe, đặc biệt là ở nóc xe,
người bị nạn dễ bị va đập đầu với các chi tiết của xe, nguy cơ cháy nổ cao do
nhiên liệu dễ bị rò rỉ, đổ tràn ra ngoài. Đặc biệt nguy hiểm đối với trường hợp xe

10
bị lật nhiều vòng.

Hình 1.16. Xe ôtô khách bị lật


II. Tổ chức các hoạt động cứu nạn cứu hộ
2.1 Tổ chức hoạt động cứu nạn, cứu hộ khi sự cố tai nạn ô tô khách
2.1.1. Nhận tin cứu nạn cứu hộ
Khi nhận tin báo có vụ tại nạn, những nội dụng cần nắm được:
- Về nhân thân và số điện thoại của người báo tin;
- Thời gian xảy ra vụ tai nạn;
- Địa điểm xảy ra vụ tai nạn: trên đường nào, thuộc địa phận, địa chỉ nào
hay km số bao nhiêu và loại đường (một chiều, hai chiều, cỡ, khổ đường, đường
cao tốc hay không, …), lượng xe đang lưu thông trên đường;
- Mô tả sơ qua về nơi xảy ra tai nạn:
+ Loại xe bị tai nạn, tình trạng của xe bị tai nạn: xe đứng trên bánh xe, lật
nghiêng, lật ngửa, có vật nặng đè lên không, xe có mắc kẹt với xe không, xe bị
biến dạng phần nào, mức độ biến dạng;
+ Có tình trạng cháy xe không, có thấy nhiên liệu rò rỉ ra ngoài không
(qua quan sát nhìn thấy vệt nhiên liệu không, thấy mùi nhiên liệu không);
+ Vị trí của các xe bị tai nạn đang nằm trên đường: sườn dốc của đường,
vệ đường, giữa đường, sông, ruộng …
- Tình trạng của người bị nạn mắc kẹt trong xe:
+ Vị trí của người bị nạn trong xe: ở ghế lái, ghế phụ, ghế sau;
+ Còn tỉnh hay bất tỉnh;
+ Có khả năng tự thoát ra ngoài không;
+ Tâm lý của người bị nạn.

11
- Xác nhận xem có người bị thương vướng vào tai nạn không: bị mắc vào
gầm xe, đang nằm ở vị trí nào trên đường, …
Sau khi nhận tin báo về tai nạn, phải nhanh chóng kiểm tra, xác minh lại
một cách kỹ lưỡng (bằng cách thông tin qua tổng đài bưu điện, sơ vấn người báo
tin để xác nhận xem có đúng địa chỉ, thời gian không). Khi đã có kết quả kiểm
tra xác minh là tin báo chính xác, báo ngay tin cho lãnh đạo phòng trực chỉ huy
đồng thời báo động cho xuất xe đi cứu nạn cứu hộ.
Chỉ huy của lực lượng cứu hộ sẽ căn cứ vào thông tin nhận được từ việc
tiếp nhận tin báo sự cố để quyết định số lượng xe đến hiện trường nơi tai nạn, từ
nội dung nhận được sẽ tiến hành lệnh xuất xe cứu hộ, xe chữa cháy, xe cứu
thương hay thêm các xe chuyên dụng khác tăng cường.
Trực ban ghi lại những thông tin đã tiếp nhận từ người báo tin và bàn giao
cho chỉ huy cứu nạn cứu hộ.
2.1.2. Trên đường đến hiện trường
Chỉ huy phải quyết định chọn tuyến đường từ đơn vị đến hiện trường phải
là tuyến ngắn nhất và thuận tiện nhất. Hay tuyến đường được chọn là tuyến đường
mà đội cứu nạn cứu hộ đến hiện trường vụ tai nạn với thời gian ngắn nhất.
Chỉ huy nhận các tài liệu có liên quan đến sự cố tai nạn mà trực điện thoại
đã thu thập được để đến hiện trường.
Các xe đi thực hiện công tác cứu nạn cứu hộ sự cố tai nạn giao thông của
một đội phải đi theo một tuyến đến hiện trường. Trừ trường hợp đặc biệt khi có
lệnh của chỉ huy đã xác định từ trước đường đi và nơi đến của các xe.
Trên đường đến hiện trường, chỉ huy và các chiến sĩ cũng cần phải nghiên
cứu tài liệu có liên quan, phương án, cách thức xử lý sự cố, như: nghiên cứu về
cấu tạo của loại xe bị tai nạn, cách cố định an toàn xe, … Thường xuyên giữ
vững và duy trì thông tin liên lạc với đơn vị, để nắm thêm diễn biến của sự cố,
cũng như những chỉ đạo của cấp trên.
Nếu trên đường đến nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông đã nhận mà phát hiện
thấy một vụ tai nạn giao thông khác cũng quan trọng hoặc quan trọng hơn thì
người chỉ huy cần phải căn cứ tình hình thực tế để phân chia lực lượng ở lại để

12
xử lý vụ tai nạn giao thông mới xảy ra và lực lượng đến nơi có sự cố đã được
nhận tin báo, đồng thời phải nhanh chóng thông báo về cho lãnh đạo cấp phòng
trực biết tình hình và xin chi viện.
Trong trường hợp khi đi thực hiện công tác cứu nạn cứu hộ sự cố tai nạn
giao thông, nếu vì lý nào đó mà một xe của đội cứu nạn cứu hộ bị hỏng không
thể tiếp tục đi cứu nạn cứu hộ. Chỉ huy nhanh chóng lệnh cho các chiến sĩ đưa
các trang thiết bị cần thiết sang các xe còn lại và phải bố trí chỗ ngồi cho các
chiến sĩ ở các xe khác để tiếp tục lên đường đến hiện trường vụ tai nạn. Đồng
thời liên lạc ngay về với đơn vị để xin chi viện và cử người ở lại để giải quyết sự
cố.
Mọi vấn đề gặp phải trên đường đến hiện trường vụ tai nạn, người chỉ huy
cần phải chủ động giải quyết linh hoạt để đưa xe tới hiện trường một cách an
toàn và nhanh chóng, đồng thời phải báo cáo về lãnh đạo cấp phòng trực để
thông báo và xin chỉ thị.
2.1.3. Trinh sát hiện trường
*Khi đến hiện trường, người chỉ huy cần nhanh chóng nắm thông tin cũng
như nắm được các nhiệm vụ cần phải triển khai cho lực lượng cứu nạn, cứu hộ.
Cần cố gắng nắm được thông tin cơ bản về người bị nạn và vụ tai nạn: địa điểm
xảy ra tai nạn; nguyên nhân xảy ra tai nạn; số lượng người bị nạn có trong vụ tai
nạn, số lượng xe bị tai nạn và còn có người bị nạn trong xe; các mối nguy hiểm
từ xe ô tô
Các nhiệm vụ cần thực hiện khi cứu nạn, cứu hộ :
Người chỉ huy : chỉ huy kiểm tra, trinh sát và lấy thông tin vụ tai nạn, hiện
trường vụ tai nạn, phân nhiệm vụ cho các chiến sĩ của lực lượng thực hiện công
tác cứu nạn, cứu hộ trực tiếp, nhiệm vụ cho các lực lượng khác có tham gia .
Báo cáo với cấp trên cũng như liên hệ với các lực lượng có liên quan yêu cầu hỗ
trợ (thông báo nhiệm vụ cụ thể). Khi đến :
- Có tầm nhìn bao quát tại hiện trường tai nạn và có khả năng đánh giá
được hiện trường, xác định được vị trí đỗ các xe cứu nạn, cứu hộ, xe cứu thương
cho hợp lý thuận lợi cho làm việc, cần phải đảm bảo phù hợp về vị trí với vùng

13
làm việc 1 & 2; xác định được các vị trí của nơi đặt thiết bị cứu nạn, cứu hộ,
thiết bị y t, vị trí đặt các chi tiết loại bỏ từ xe bị nạn . Nhanh chóng kiểm tra, lấy
thông tin tại hiện trường cứu nạn, cứu hộ. Phân nhiệm vụ cho các đội theo
nhiệm vụ thực hiện và theo từng khu vực, theo vùng hoạt động .
- Cần kiểm tra xác nhận các yếu tố tác động đến công tác cứu nạn, cứu
hộ, lập các khoảng không gian làm việc(cảnh báo) :
+ Xem xét tổng quan ban đầu hiện trường ;
+ Số lượng xe bị tai nạn, tình trạng các xe ;
+ Mức độ nghiêm trọng
+ Các yếu tố nguy hiểm khác từ các hóa chất có trong xe : nhiên liệu, hóa
chất cháy nổ và độc trên xe bị rò rỉ ra ngoài ;
+ Số nạn nhân còn đang bị mắc kẹt trong các xe bị nạn ;
+ Số nạn nhân bị kéo theo vụ
+ Các vật liệu có trên hiện trường ( do xe chở hay do tai nạn tạo nên) ;
+ Các yếu tố nguy hiểm cho chiến sĩ: túi khí an toàn trên xe; hệ thống an
toàn khác (chống lật ngược, ...); khi cắt, phá các phần kim loại của xe, khi phá
kính xe ; yếu tố gây cháy nguồn gây cháy); yếu tố môi trường : mưa, gió, ... ;
một số yếu tố khác như xe lưu thông, (băng, đất đá) ...
+ Các yếu tố nguy hiểm cho nạn nhân ;
+ Các hiểm cho người xung quanh hiện trường tại nạn ; nguy
+ Lập các vùng làm việc an toàn ( 03 vùng làm việc) ;
+ Lập các vị trí ( khu vực) để thiết bị cứu nạn, cứu hộ, thiết bị y tế ;
+ Xác định vị trí để các bộ phận bị loại bỏ từ xe khi thực hiện cứu nạn, tai
nạn ; cứu hộ. Chỉ huy lực lượng làm công tác điều tiết giao thông : gồm nhiều
lực lượng tham gia điều tiết giao thông : Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao
thông, Cảnh sát trật tự, Công an phường, xã, .. Phân nhiệm vụ cho các lực lượng
khác tham gia hỗ trợ công tác cứu nạn, cứu hộ ; đảm bảo an toàn, trật tự trong
hiện trường cứu nạn, cứu hộ, thận trọng trong triển khai bảo vệ hiện trường, ưu
tiên đảm bảo cho đường được lưu thông, Song không ảnh hưởng tới hiện trường
cứu nạn, cứu hộ.

14
- Chỉ huy phân công nhiệm vụ, vị trí thường trực cho lực lượng làm công
tác an toàn khác : chữa cháy, xử lý hóa chất, ..
Phân công người thực hiện công tác đảm bảo và giám sát an toàn hiện
trường tai nạn thực hiện theo yêu cầu từng khu vực, nhiệm vụ được chỉ huy giao
- Thông qua bác sĩ : Bác sĩ có đánh giá, kiểm tra, đưa ra các chỉ định điều
trị ngay tại thời điểm thực hiện cứu nạn, cứu hộ, phân loại nạn nhân, tính nguy
cấp của nạn nhân. Có yêu cầu và hướng dẫn lực lượng y tế trong việc chăm sóc
sức khỏe và hỗ trợ y tế cho nhân .
* Đánh giá trường hợp nạn nhân có tình trạng khẩn cấp Chỉ huy căn
cứ tình hình của nạn nhân, kết hợp ý kiến của chuyên môn y tế để có đánh giá
chính xác tình trạng khẩn cấp của nạn nhân. Tuy nhiên, cơ bản theo nội dung
sau :
- Có nguy cơ trực tiếp tác động đến tính mạng, sức khỏe của người bị nạn
và của chiến sĩ khi thực hiện cứu nạn, cứu hộ: cháy, lũ lụt, có chất nguy hiểm
nổ, độc trong khu vực hiện trường. Cần đưa ra ngoài vị trí an toàn nhanh nhất có
thể, tuy nhiên vẫn cố gắng đảm bảo tốt về tư thế cho nạn nhân ;
- Tình trạng của nạn nhân đang bị xấu đi( nạn nhân có nguy cơ ngừng tim,
tư thế hiện tại không thuận lợi cho kích hoạt tim như : ép tim, sốc điện, ... không
thuận lợi) và tính mạng đang bị đe dọa bởi các yếu tố khác ( trạng thái của
xe, ...), cần ưu tiên thời gian đưa ra ngoài ( tư thế và hướng đưa ra ưu tiên ít hơn
lúc này);
- Nếu tình trạng nạn nhân đang có chuyển biến xấu ( có tiên lượng xấu
đi), thời gian không có nhiều cho hoạt động cứu ra ngoài, có thể mở không gian
để tiếp cận nạn nhân vừa đủ, để cho lực lượng chuyên môn y tế tiếp cận và cấp
cứu trước khi tổ chức đưa ra ngoài. Cần có xem xét, cân nhắc, đánh giá cẩn thận
trước khi đưa ra quyết định trên cơ sở ý kiến của bác sĩ chuyên môn :
+ Luôn ưu tiên bác sĩ chuyên môn: phẫu thuật chấn thương, ... và đội ngũ
y tế đến hiện trường để xử lý, chữa trị ban đầu cho người bị nạn ;
+ Khi di chuyển nạn nhân ra khỏi vị trí bị nạn, cần phải tính toán đến các
khó khăn trong di chuyển, đánh giá khả năng của lực lượng tham gia cứu người

15
để xem lựa chọn: tiểu đội cứu nạn, cứu hộ hay đội ngũ y tế (có thể thuộc lực
lượng cứu nạn, cứu hộ) di chuyển nạn nhân ra ngoài .
* Chỉ huy các xe tham gia cứu nạn, cứu hộ khi tiếp cận hiện trường
- Quy định đối với lái xe cứu nạn, cứu hộ
+ Chấp hành đúng theo các quy định trong điều khiển xe
+ Đỗ xe để đảm bảo an toàn cho hiện trường ( có tính dẫn hướng dòng xe
chạy trên được) để dẫn hướng (chỉ dẫn) được giao thông (nắn dòng xe lưu
thông), đỗ tại nơi an toàn không làm cản trở giao thông, thuận cho việc triển
khai các hoạt động cứu nạn, cứu hộ, khi cần thiết có thể đỗ ở vị trí dừng chặn để
che chắn cho hiện trường .
+ Khi cho xe tiếp cận gần hiện trường, cần phải thận trọng điều khiển xe
và đỗ ở vị trí phù hợp, nhìn tổng quan chung của hiện trường : bảo vệ được hiện
trường, triển khai phương tiện thuận lợi . Chú ý tránh các dấu vết có liên quan
đến tai nạn, xác định nguyên nhân tai nạn nếu được ( vệt bánh xe khi phanh, ..).
+ Đánh giá sơ bộ phương tiện cứu nạn, cứu hộ có thể sử dụng, để giúp
cho chỉ huy ra các yêu cầu có liên quan phương tiện. Giúp xác định được vị trí
đặt phương tiện phục vụ công tác cứu nạn, cứu hộ ( thường nằm trong vùng 2,
sát với vùng 1), chuẩn bị các phương tiện cơ bản cho công tác cứu nạn, cứu hộ,
bố trí - triển khai đèn chiếu sáng khi trong điều kiện không đủ ánh sáng) và các
phương tiện khác theo yêu cầu
+ Mang đầy đủ phương tiện cá nhân cần thiết: quần áo, mũ, giầy - ủng,
găng tay, kính mắt, khẩu trang, chụp bảo vệ tại .
- Quy định chung khi đỗ xe có liên quan tại hiện trường cứu nạn, cứu hộ .
+ Các loại xe được sử dụng chính, sử dụng nhiều nhất nên được ưu tiên
đỗ ở gần với hiện trường tai nạn .
+ Không được đỗ xe trong vùng làm việc 1 & 2, không được đỗ xe, làm
ảnh hưởng đến các hoạt động của các chiến sĩ khi thực hiện cứu nạn, cứu hộ (có
thể tính từ vị trí xe tai nạn ra tới xe cứu nạn, cứu hộ và cứu thương có khoảng
cách lớn hơn một chiều dài của xe) .

16
+ Các phương tiện đỗ ở hiện trường không làm cản trở việc hoạt động của
các xe khác khi cần di chuyển . Nhưng nếu có yếu tố nguy hiểm cho hiện
trường, cho chiến sĩ cần phải đỗ để chặn các hướng đường xe đến.
+ Các xe đỗ nên tạo thành hàng rào chắn ( dừng chặn), ưu tiên - tập trung
các xe có tải trọng
+ Xe đỗ nên tính từ sát mép đường ( sát lề) . Phân đều xe cho các hướng
xe lớn . đang lưu thông tới hiện trường tai nạn .
* Chỉ huy chiến sỹ khi thâm nhập vào bên trong xe bị tai nạn
Chiến sỹ được cử vào bên trong xe bị tai nạn là người có kinh nghiệm để
có thể tiếp cận xử lý ban đầu cho nạn nhân ( có kiến thức về y tế), tự bảo đảm an
toàn cho chính bản thân và quan sát để thông báo các thông tin cần thiết ra bên
ngoài cho chỉ huy.
- Đảm bảo an toàn cho bản thân và quan sát thông báo ra ngoài, chiến sỹ
cần đặc biệt chú ý đến túi khí, mảnh thủy tinh vỡ và bụi thủy tinh.
Khi tiếp cận với nạn nhân, chiến sỹ cần phải kiểm tra các chức năng quan
trọng ( chức năng sống) :
+ Nhận thức, phản xạ của nạn nhân ;
+ Hô hấp của nạn nhân ;
+ Kiểm tra mạch của nạn nhân .
- Ngắt hệ thống điện với ắc quy của xe, ngắt khóa điện của xe xong ( đã
sử dụng hết các bộ phận dùng điện của xe, điều khiển ghế điện, vô lăng, ...),
thực hiện tiếp :
+ Bật đèn báo: đèn cảnh báo nguy hiểm, xi nhan, ... ( để kiểm tra xác nhận
điện được ngắt hay chưa).
+ Tìm vị trí ắc quy (cần nắm và định hình được là ắc quy có nhiều vị trí
khác nhau, cần nắm loại xe để xác định cho dễ dàng hơn) .
+ Ngắt kết nối với ắc quy xe
- Quan sát và cung cấp thông tin tổng quan trong xe ra ngoài cho chỉ huy :
kiểm tra ( khám phá), quan sát nội thất trong xe và thông báo các lưu ý về cấu
tạo của xe có thể gây nguy hiểm và khó khăn cho công tác cứu nạn, cứu hộ .

17
+ Kiểm tra hoạt động của xe, cửa của xe ;
+ Điều chỉnh ghế, vô lăng, ... lưu ý trong một số trường hợp cần có thêm ý
kiến của bác sỹ ;
+ Kéo phanh tay và tắt chìa khóa. Trước khi tắt khóa điện, cần kiểm tra
sao cho tất cả các chi tiết có sử dụng điện đã được loại bỏ cơ bản ( kính của cửa
xe, ghế, vô lăng, ...) .
- Thông báo rõ các thông tin cần thiết có liên quan đến công tác cứu nạn,
cứu hộ cho chỉ huy về người bị nạn, xe ôtô khách bị tai nạn. Tiếp tục kiểm tra,
chăm Sóc y tế cho nạn nhân .
- Kiểm tra, nếu cần thiết phải giữ ấm cơ thể cho nạn nhân ( như sử dụng
chăn, tấm che phủ để bảo vệ nạn nhân), bảo vệ đầu cho nạn nhân ( đội mũ cho
nạn nhân), bảo vệ nhân phẩm cho nạn nhân ( quay phim, chụp hình nạn nhân) .
Cần để nạn nhân quan sát, cảm nhận được điều kiện ánh sáng từ bên ngoài
( không che kín mắt nạn nhân), nói qua trình tự, các bước cần phải làm để cứu
nạn nhân ra ngoài để tăng sự tự tin, đỡ làm tâm lý có diễn biến xấu. Chú ý đến
tham vấn ý kiến của bác sỹ.
- Cố định cổ và cột sống cho nạn nhân bằng nẹp, trước đó chiến sỹ cần
giữ ổn định đầu của nạn nhân để kiểm tra và đánh giá, khi giữ đầu cho nạn nhân
cần giữ nhẹ, để hở tại của nạn nhân .
- Sử dụng thiết bị y tế để hỗ trợ cho nạn nhân bên trong xe : bình Oxi
cùng thiết bị thở, điện tim, giám sát, đo huyết áp, ...
- Chăm sóc cho nạn nhân và thường xuyên nắm khả năng sống của nạn
nhân để kịp thời báo cáo .
- Các biện pháp cơ bản đảm bảo ( bảo vệ) cho nạn nhân bên trong xe khi
thực hiện cứu nạn, cứu hộ ( nhất là kính của xe) .
+ Bảo vệ đầu nhân ;
+Bảo vệ miệng cho nhân ;
+ Bảo vệ thính giác ( tai) ;
+ Nạn nhân quan sát được công việc đang thực hiện ;
2.1.4. An toàn chung cho hiện trường cứu nạn cứu hộ

18
- Ôn định - xác định các vùng làm việc (khoanh vùng : 03 vùng làm việc)
theo đặc điểm hiện trường và của các lực lượng tham gia cứu nạn, cứu hộ . Để
đạt được hiệu quả cao thì cần phải có sự đánh giá tổng thể, trao đổi nhanh với
chỉ huy các lực lượng tham gia - đặc biệt là trao đổi với bác sỹ để có đánh giá
chính xác về tình hình nạn nhân, cách bố trí lực lượng cần thiết .

Hình 2.1: Phân vùng hoạt động trong CNCH tai nạn sự cố giao thông đường bộ

+ Vùng bên trong vùng 1) : Là nơi lực lượng cứu nạn, cứu hộ trực tiếp
thực hiện cứu nạn, cứu hộ, lực lượng chuyên môn y tế ( bác sĩ nếu có và nhân
viên y tế) .

19
+ Vùng giữa ( vòng 2) : Là nơi lực lượng cứu nạn, cứu hộ không trực tiếp
thực hiện, lực lượng y tế hỗ trợ, đây là lực lượng có thể được huy động vào thực
hiện trong vòng 1 cùng với lực lượng trực tiếp trong thời điểm nhất định . Ngoài
ra, chỉ huy của các lực lượng khác có liên quan) và người quản lý an toàn cũng
hoạt động ở vùng này .
Nơi chuẩn bị các phương tiện thực hiện cứu nạn, cứu hộ, thiết bị y tế đặt ở
khu vực thuận lợi cho chiến sĩ sử dụng ( thường tiếp giáp với vùng 1) .
+ Vùng bên ngoài ( vùng 3) : Là nơi tập trung của các lực lượng khác đảm
bảo an toàn, trật tự cho hiện trường, lực lượng chữa cháy có thể ở vị trí tiếp giáp
giữa vùng 2 & 3, lực lượng Cảnh sát khác, báo chí, ... làm việc vùng này .

Hình 2.2: Tổ chức các hoạt động cứu nạn cứu hộ tại hiện trường
2.2. Ổn định hạn chế nguy hiểm trong thực hiện cứu nạn, cứu hộ
Ổn định phương tiện gặp tai nạn để đảm bảo cho việc tiếp cận, và thực
hiện các hoạt động cứu nạn, cứu hộ của chiến sĩ được an toàn, loại trừ các yếu tố
phát sinh từ phương tiện và tại hiện trường vụ tai nạn tác động đến chiến sĩ mà
do chưa có sự chuẩn bị, loại trừ . Đồng thời, ổn định xe bị tai nạn nhằm hạn chế
các yếu tố nguy hiểm cho nạn nhân còn đang trong xe hay đang có liên quan
( liên của nạn nạn kết, kết nối) với xe ( dưới gầm xe, ...). Ổn định xe nhằm :

20
+ Tăng cường sự ổn định của xe trong giai đoạn ban đầu ( mới tiếp cận)
để giữ nguyên trạng thái, vị trí của xe;
+ Giúp cho nạn nhân còn đang mắc kẹt trong xe, không bị đau đớn hơn,
không bị nguy hiểm hơn bởi những chuyển động ( rung, lắc, ...) của xe khi chiến
Sĩ tác động vào xe ( sử dụng thiết bị với xe, vào trong xe, ...);
+ Ổn định xe để kiểm soát tốt sự chuyển dịch của xe rất có thể tạo ra các
hiểm : bị trượt, bị lật, ...
* Lưu ý khi cố định, ổn định cho xe bị tai nạn
Chú ý:
1. Khi tiến hành cố định, ổn định cho xe, người chỉ huy cần phải nhanh
chóng xác định trước được các phương án để thực hiện các hoạt động cứu người
bị nạn ra ngoài, đảm bảo nhanh và an toàn . Do vậy, khi thiết lập các khối chèn,
các phương thức cố định, ổn định cho xe bị nạn cần phải tránh các vị trí thực
hiện thao tác cứu nạn, cứu hộ tác động vào xe, không cản trở và gây khó khăn
cho việc tiếp cận nạn nhân và di chuyển nạn nhân ra ngoài .
2. Khi tiến hành cố định cho xe còn ở trạng thái đứng ( các bánh xe chạm
đất), sau khi đặt các khối chèn vào xe và bánh xe, trong trường hợp không cần
khoảng không gian ở dưới gầm xe ( VD : có nạn nhân, ...) thì có thể hạ độ cao
của lốp xe ( xả hơi bên trong lốp xe) để tăng tính ổn định của xe, đặc biệt là các
xe có tải trọng lớn và có chiều cao . Tuy nhiên, cần phải xem xét và trao đổi với
lực lượng Cảnh sát trong việc điều tra nguyên nhân gây tai nạn ( vệt bánh xe khi
phanh, ...) .
3. Trong khi cố định cho xe, để tăng tính ổn định và thống nhất cho xe bị
nạn ( nhất là khi xe bị lật, xe ở trạng thái dễ bị trượt - ở dốc, hay khi xe nằm trên
vật - xe khác), chỉ huy cần phải ưu tiên cho kết nối các trụ chống, thiết bị đang
cố định xe với chính các chi tiết của xe khi sử dụng dây .
4. Khi thực hiện nâng xe, cần phải xác định phương tiện thiết bị hỗ trợ
việc nâng xe : khối chèn phải đủ để đỡ xe khi được nâng, có đủ khối chèn ở các
vị trí, ... không nên nâng xe khi chỉ dùng có một thiết bị nâng chính để kiểm soát
được toàn bộ quá trình nâng hạ của xe .

21
5. Túi khí an toàn trên xe, là mối nguy hiểm lớn nhưng không thể hiện rõ
cho chiến sĩ khi thực hiện cứu nạn, cứu hộ trong phạm vi làm việc ( tác động)
của nó . Cho nên chỉ huy cần cho loại bỏ mối nguy hiểm này bằng các thiết bị
khống chế, loại trừ túi khí nổ. Cần phải xác định cho chiến sĩ tránh tác động
vùng nguy hiểm của túi khí khi làm việc, để túi khí kích hoạt : vị trí cảm biến
kích hoạt, ngắt kết nối ắc quy của cảm biến túi khí ( một số có thể có thiết bị lưu
điện đến 30 phút, nên ngắt cũng có thể không hiệu quả), không sử dụng thiết bị
thủy lực, thiết bị có trọng lượng lớn ở vùng làm việc của túi khí, vô hiệu hóa túi
khí vô lăng bằng đại chuyên dụng, hạn chế túi khí bên ghế phụ bằng tấm chắn .
6. Dây đai an toàn : là thiết bị cần phải tiến hành cắt sớm khi tiếp cận được
nạn nhân, để giúp giải phóng cho nạn nhân, chăm sóc cho nạn nhân . Tuy nhiên,
chỉ huy cần phải xác định được một số trường hợp cần lưu ý khi cắt dây đai, như
: dây đai còn đang giữ người bị nạn khỏi bị rơi, cắt dây đai phải sử dụng thiết bị
cắt chuyên dụng, chú ý đến chai chứa khí nén của đại tự thổi phồng, vị trí kết
nối của đai an toàn vào xe tại các trụ của xe, ghế xe .
III. Triển khai các chiến thuật cứu nạn, cứu hộ ô tô khách
Mỗi vụ tai nạn phương tiện giao thông có tính chất đặc thù riêng, chiến sĩ
cứu nạn cứu hộ phải xem xét đánh giá kỹ tình hình thực tế tại hiện trường để
đưa ra các phương án xử lý cho phù hợp, với thời gian ngắn nhất có thể giải
thoát được người bị nạn thoát khỏi sự khống chế của các chi tiết của phương
tiện.
Khi đến hiện trường vụ tai nạn giao thông, lực lượng cứu nạn cứu hộ nhanh
chóng nắm bắt tình trạng bị mắc kẹt và vị trí các bộ phận của cơ thể bị vướng
chính để quyết định việc sử dụng các thao tác kỹ thuật, chi tiết các chiến thuật
cứu nạn.
3.1. Tình huống 1- Trường hợp xử lý đơn giản
Nhiều trường hợp cứu nạn cứu hộ tai nạn ôtô khách chỉ cần kiểm tra mở
được cửa xe là cũng có thể cứu được nên trước khi sử dụng dụng cụ thiết bị cần
xác nhận một số điểm dưới đây.
- Xác nhận xem các cửa xe có mở được không;

22
- Gọi hỏi nạn nhân khi gặp nạn nhân đang bị bất tỉnh, bởi vì nhiều trường
hợp khi nạn nhân tỉnh lại là họ có thể tự ra ngoài được;
- Kiểm tra, xác nhận tình trạng của nạn nhân đang mắc kẹt, có khi chỉ cần
tiến hành kéo dịch ghế ngồi (về phía trước – sau), điều chỉnh ghế tựa, dựng đứng
trục cần lái lên có thể giải thoát được cho người bị nạn không?
- Nếu nạn nhân đang bị thương vùng bàn chân, có thể giải cứu cho nạn
nhân bằng cách cởi giày không?
* Phá kính chắn gió phía trước
Đây là loại kính an toàn được cấu tạo từ nhiều lớp.
Dùng rìu đa năng để đục một lỗ ở góc phía trên của kính, sau đó sử dụng
cưa để cắt kính. (khi tạo lỗ ở kính chắn gió phía trước, có thể sử dụng dụng cụ
có mũi nhỏ để đập vào kính)
Khi đưa cưa vào để cắt kính, cần phải cắt gần các mép ngoài của kính chắn
gió, cắt kính chắn gió theo hai đường, và các đường cắt gặp nhau tại góc kính
đối diện phía bên.
Để tránh cho việc kính chắn gió rơi, đổ ập vào bên trong thì nên cắt đường
phía trên cùng sau.
Tuy nhiên, đối với một số loại xe thì sau khi cắt trụ trước kính chắn gió,
chiến sĩ có thể lột gioăng gắn kính chắn gió với khung xe để loại bỏ kính này.
* Phá kính hai bên
Thông thường ở các vị trí này được lắp đặt các loại kính cường lực. Tuy
nhiên khi được làm bằng loại kính nhiều lớp thì cách phá kính giống với kính
chắn gió phía trước.
Trước khi phá kính thì phải tiến hành xử lý chống kính vụn bay, bằng cách
dán tấm băng keo lớn (băng dính), nếu không có thì sử dụng loại băng nhỏ để dán,
khi dán phải đảm bảo lớp sau phải dán đè lên lớp trước, dán kín toàn bộ tấm kính.
Sử dụng mũi nhọn trên rìu đa năng để đập mạnh vào một góc của tấm kính.
Khi tấm kính đã bị vỡ vụn ra, đỡ tấm kính vỡ ra nơi an toàn. Những mảnh nhọn
ở thành cửa xe phải dùng rìu đa năng, … để loại bỏ hết những mảnh vụn còn
bán lại này.

23
* Phương pháp mở khoá cửa xe bằng cách phá kính bên hông
Xác nhận tình trạng của xe cũng như các đặc điểm của xe bị nạn. Sau đó
tiến hành xử lý chống kính vụn, bằng cách dán băng keo cho tấm kính bên hông.
Ta tiến hành thao tác phá kính bên hông, xử lý các mảnh vụn bắn lại. Sau đó
chiến sĩ cứu nạn cứu hộ chui bên trong xe, xác định vị trí mở khóa và dùng tay
mở khóa cửa khẩn cấp để tiến hành mở cửa xe.
3.2. Tình huống 2 – Trường hợp xe khách bị mắc kẹt cửa trước
Loại bỏ cửa xe ôtô khách dạng đóng từ hai phía bởi hai tấm đơn
Trên ôtô khách có nhiều loại cửa khác nhau, về cơ bản các cửa của xe ôtô
khách có kết cấu và cách loại bỏ tương đồng giống xe ôtô con và xe ôtô tải. Tuy
nhiên, loại cửa có tính đặc thù riêng trên của xe ôtô khách là cửa có dạng đóng
từ hai phía bởi hai tấm cửa.
Khi cửa bị kẹt, không thể mở bằng nút điều khiển hay bằng tay, chiến sỹ
CNCH cần phải sử dụng thiết bị để loại bỏ cửa để có đường vào di chuyển nạn
nhân ra ngoài an toàn.
Sử dụng các thiết bị cắt để loại bỏ cửa: có thể sử dụng kìm cắt; sử dụng
cưa điện cầm tay. Tuy nhiên chỉ khác nhau về cách sử dụng thiết bị, còn các vị
trí cắt thì tương đối giống nhau trong kỹ thuật này.
Loại bỏ kính trên từng cánh cửa.
Cắt phần thấp nhất của hai cánh.

Hình 2.73. Loại bỏ kính Hình 2.74 Cắt phía dưới cửa
Cắt vị trí khung ngang của cửa, nơi có gắn pít thông thủy lực đóng mở
cửa. Cắt phía sát vào phần khung bản lề của cửa.
Cắt khung cửa ở phần góc trên phía hai bên của cửa.

24
Hình 2.76. Cắt khung ngang giữa cửa Hình 2.77. Cắt phần góc phía trên cao

Cắt thanh pít tông thủy lực đóng mở cửa. Đỡ đưa từng phần khung phía giữa
cửa ra ngoài.

Hình 2.78. Loại bỏ khung cửa


Sử dụng các tấm vải hoặc chăn kín cạnh sắc nhọn để không gây nguy
hiểm cho các chiến sỹ khi vào cứu người bị nạn.
3.3. Tình huống 3 – Chiến thuật tạo lối thoát bên sườn xe
Có thể sử dụng các thiết bị cắt để thực hiện như: kìm cắt, cưa điện cầm
tay, đục phá bằng khí nén. Tuy nhiên nếu sử dụng cưa điện cầm tay sẽ mang lại
hiệu quả tốt hơn.
Sau khi loại bỏ kính xe vị trí định tạo cửa.
+ Sử dụng kìm cắt để tạo điểm ban đầu, sau đó có thể sử dụng cưa điện cầm
tay để cắt.

+ Trường hợp sử dụng đục phá bằng khí nén cần chú ý loại bỏ từng lớp vỏ
xe một (vỏ xe có hai lớp).

25
Hình 2.79. Cửa được tạo từ sườn xe khách

Xử lý khi nạn nhân mắc kẹt tại bàn đạp phanh, ga và vô lăng
Để cắt các chi tiết này thì tốt nhất nên sử dụng kìm cắt chuyên dụng – có
dạng đột, với kích thước ngắn, nhỏ sẽ đỡ ảnh hưởng nhiều đến người bị nạn hơn.

Khi tháo bàn đạp (chân phanh, chân ga, chân côn): đưa kìm cắt vào vị trí dễ
cắt nhất trên thân bàn đạp, phải tính toán đến khả năng gây tác động tới người bị
nạn khi thao tác. Có thể sử dụng thêm các loại chèn để giữ sự ổn định của bàn
đạp này với chân người bị nạn. Tiến hành tháo bàn đạp của xe.
Khi cắt vô lăng của xe: Việc cắt trục dẫn chuyển động của vô lăng rất khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi sự tính toán rất kỹ lưỡng về các tác động của nó sẽ tạo ra
với người bị nạn khi chiến sĩ thao tác cắt. Do vậy, tính đến vị trí của vô lăng
đang tác động và khống chế nạn nhân để tiến hành loại bỏ một bộ phận trên vô
lăng của xe. Trước khi cắt phải tính ngay đến những tác động sẽ gây cho nạn
nhân để có biện pháp giảm bớt những tác động xấu đến người bị nạn. Trong
những trường hợp cần có thể sử dụng thêm các cột trống, tấm chèn để cố định
các bộ phận của vô lăng. Sau khi xác định được các vị trí cắt trên vô thì tiến
hành cắt ngay các bộ phận này. Thông thường thì cắt vô lăng ở ba điểm, vị trí
hay khống chế người bị nạn thường là vị trí cân bằng của vô lăng.
Khi cắt vô lăng của xe phải lưu ý tới túi khí an toàn có gắn ở vô lăng xe,
tránh trường hợp làm cho nổ túi khí khi thao tác banh, cắt.
3.4.Tình huống 4 - Tình huống có người bị mắc kẹt dưới gầm xe khách

26
Tình huống nạn nhân bị mắc kẹt trong trường hợp tai nạn giao thông
thường phổ biến khi xe ôtô khách va chạm với xe máy, xe đạp, người đi bộ…
nguyên nhân do lái xe không làm được tốc độ, do tránh xe đi ngược chiều, do sử
dụng rượu bia, chất kích thích…
Đặc điểm của các vụ tai nạn này là nạn nhân bị mắc kẹt tại gầm xe, không
thể đưa ra được bằng cách kéo nạn nhân ra theo cách thông thường. Các bộ phận
cơ thể của nạn nhân có bị kẹt dưới gầm xe do đó CBCS khi đến vụ tai nạn sử
dụng các biện pháp nâng xe như : sử dụng túi nâng, sử dụng cẩu để nâng xe đưa
nạn nhân ra ngoài. Hoặc nâng xe để cân bằng cho xe khi xe đang nằm ở vị trí
không bằng phẳng để thực hiện công tác cứu nạn cứu hộ, và nâng xe để thuận tiện
cho việc di chuyển, kéo xe khác đang bị xe nằm đè lên.
Bước 1: Cố định an toàn cho xe ô tô là giữ ổn định cho xe ô tô là các thao
tác giảm thiểu sự chuyển động, rung động của xe với mục đích là loại bỏ những tác
động xấu, những chấn động không mong muốn đến sức khỏe nạn nhân hay tai nạn
cho chiến sỹ cứu nạn, cứu hộ khi thực hiện công việc. Để xe có tính ổn định cao
việc đầu tiên là ta cần cố định việc di chuyển tiến- lùi của xe, sử dụng chèn để
chèn bánh xe. Sử dụng các tấm chèn để chèn 2 bên của xe, khi chèn cũng nên tính
toán đến bên được chèn, với mục đích làm sao có thể hạn chế được sự chuyển động
của xe ( xe đang bị nạn ở nơi có sườn dốc thì chèn chặt bên sườn dốc của xe, xe có
bánh bị hết hơi thì chèn ở bánh đối diện).

Hình 3.6 Cố định thân xe bằng các tấm chèn

27
Sử dụng một chèn bánh xe lớn, hay hai chèn bánh xe nhỏ để chèn vào bánh
xe, khi chèn một bên xe thì có thể chèn ở một bánh xe và phải chèn hai bên của
bánh xe ( chiều tiến, lùi của xe). Nếu chèn ở hai bánh cùng một bên xe thì mỗi bánh
xe sẽ chặn một chiều dịch chuyển của xe, tốt nhất là nên theo hướng từ ngoài vào
trong.
*Chú ý: khi chèn các tấm chèn xong thì CBCS phải dùng búa để đóng các
khối chèn một cách chắc chắn, tránh bị bật ra khi nâng xe.
Tiến hành cố định thân xe, cố định thân xe bắt buộc phải cố định từ ba điểm
trở nên, thông thường thì tiến hành cố định xe bằng ba hay bốn điểm. Khi chèn thì
sử dụng các khối chèn hình vuông để chèn vào các vị trí có khả năng chịu lực cao
của xe. Nếu có thì sử dụng tấm chèn dạng bậc thang, loại khối chèn có thể xoay lật,
nên làm việc rất tốt, có hiệu quả cao trong cố định xe.
Bước 2: Sau khi cố định xe xong tiến hành nâng xe, nâng xe nhằm mục đích
cứu người bị nạn đang nằm dưới gầm xe, có thể bị xe đổ nằm đè lên người. Hoặc
nâng xe để cân bằng cho xe khi xe đang nằm ở vị trí không bằng phẳng để thực
hiện công tác cứu nạn, cứu hộ và để thuận tiện cho việc di chuyển, kéo xe khác
đang bị xe nằm đè lên.
Khi sử dụng gối hơi để nâng xe thì tính ổn định của xe được đảm bảo hơn,
đặc biệt là khi khoảng cách của các vị trí điểm tì lớn thì sử dụng các gối hơi đặt
trồng lên nhau đưa lại hiệu quả tốt hơn.
Xác định vị trí nạn nhân đang nằm so với xe, để nhanh chóng xác định
điểm nâng xe, chú ý khi xác định vị trí của điểm nâng xe phải đảm bảo chắc
chắn, khi thực hiện thao tác nâng xe không bị biến dạng làm mất tính ổn định
của xe, nên tránh vị trí có nhiệt độ cao trên xe (ống xả, dưới động cơ).
Khi sử dụng gối hơi, phải có các tấm lót ở dưới nền đặt gối và với xe. Khi
không cần nâng xe lên quá cao thì có thể sử dụng một gối hơi và sử dụng thêm
các tấm lót để đảm bảo về khoảng cách tiếp xúc, khi cần phải nâng xe lên cao
hoặc do khoảng cách giữa hai điểm đặt lớn thì cần sử dụng nhiều gối hơi đặt
chồng lên nhau. Các tấm lót này phải có kích thước tương đương với kích thước

28
của gối hơi để đạt được hiêu quả khi làm việc và đảm bảo an toàn cho gối hơi
khỏi các rìa, cạnh sắc nhọn.

Hình 3.8 Sử dụng túi nâng để tiến hành nâng xe


Trong trường hợp sử dụng nhiều gối hơi phải chú ý đến việc đánh dấu
đường ống dẫn khí của các gối hơi để tranh bị nhầm lẫn, khi nâng thì phải sử
dụng gối hơi theo thứ tự từ dưới lên trên.
Khi tiến hành thao tác nâng xe phải làm từ từ, khí nạp vào gối hơi phải
chậm và có quan sát. Khi gối hơi hay tấm lót bắt đầu tiếp xúc với ôtô khách phải
dừng lại để kiểm tra lại vị trí điểm tiếp xúc đã đảm bảo chưa rồi mới tiếp tục
nâng tiếp theo.
Ngoài gối hơi ra cần phải có đặt thêm các khối chèn ở gần vị trí của gối
hơi, tại điểm chắc chắn của xe. Tốt nhất nên dùng khối chèn có dạng các tấm
trượt. Khi gối hơi nâng xe lên được tới đâu thì phải chèn tiếp vào tới đó cho đảm
bảo an toàn. Khi thu hồi thì làm ngược lại, rút tấm chèn ra tới đâu thì mới hạ xe
xuống tới đó.
Trong quá trình xe được nâng lên tới đâu thì phải liên tục kiểm tra các tấm
chèn ở các vị trí chèn bánh xe liên tục tới đó, phải luôn đảm bảo chèn ở bánh xe
phải chặt. Khi hạ xe xuống phải nới lỏng chèn ở bánh xe ra rồi mới hạ xe xuống.
Cần phải kiểm tra liên tục sự ổn định của xe khi thực hiện thao tác nâng xe (tạo
ra khi xe bị nghiêng).
Nâng xe lên chỉ cần vừa đủ để cứu người bị nạn ra ngoài.
IV. Đảm bảo an toàn trong cứu nạn, cứu hộ ô tô khách

29
4.1. An toàn cho chiến sĩ cứu hộ cứu nạn.
Công việc cứu hộ cứu nạn luôn phức tạp và có tính nguy hiểm cao do
nhiều yếu tố tác động đối với người lính cứu hộ cứu nạn. Để đảm bảo an toàn
cho chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn cần phải có sự phối hợp ăn

ý, hiểu nhau giữa Hình 4.1: Trang thiết bị bảo vệ cho chiến sỹ các chiến sĩ và
người chỉ huy, nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh chỉ huy của các chiến sĩ, sự chỉ
huy sáng suốt, phù hợp, đúng đắn của người chỉ huy, các công cụ, thiết bị bảo vệ
an toàn cho nạn nhân khi làm nhiệm vụ. Để đảm bảo cho chính mình khi thực
hiện công tác cứu hộ cứu nạn thì mỗi chiến sĩ
đều cần được trang bị đủ phương tiện bảo hộ cá nhân. Những thiết bị
được trang bị không phải được sử dụng vào tất cả các vụ tai nạn, mà sẽ gặp ở
các vụ tai nạn giao thông đặc thù. Những thiết bị bảo hộ tối thiểu cho cá nhân:
- Mũ: là dụng cụ bảo hộ cá nhân bắt buộc, mũ phải được đội trong suốt
quá trình làm việc.
- Quần áo: đảm bảo che kín toàn bộ cơ thể và bảo vệ được khỏi những vật
có cạnh sắc nhọn.
- Ủng hoặc giầy cứu hộ: phải đảm bảo việc dễ hoạt động, không bị trơn
trượt, bảo vệ để không bị vật nhọn đâm xuyên, đặc biệt là theo hướng từ dưới
lên, cũng như có khả năng chịu lực cho phần mũi chân nhất định.
- Kính bảo vệ mắt: cần phải đeo trong suốt quá trình tiến hành các hoạt
động cứu hộ cứu nạn. Kính giúp bảo vệ mắt tránh khỏi các loại hạt, bụi tạo ra
trong khi thực hiện công việc.
- Găng tay bảo hộ: cần phải đeo trong suốt quá trình làm việc, găng tay
phải đảm bảo cho chiến sĩ dễ điều khiển, sử dụng các thiết bị cứu hộ cứu nạn

30
cũng như các hoạt động chăm sóc nạn nhân, xử lý thiết bị đang bị sự cố, …
Găng tay phải giúp giảm được tác động hay bảo vệ chiến sĩ cứu hộ cứu nạn khỏi
những tác động của mảnh, phần có cạnh sắc.
Những thiết bị bảo hộ khác:
- Dây đai an toàn: dùng trong khi thực hiện nhiệm vụ ở những vụ tai nạn
xe tải, xe khách do kích thước của xe, những vụ tai nạn mà xe bị mắc, nằm ở vị
trí chênh lệch về độ cao: bên vực, bờ sông, hồ, trên nhà, bên đường đê, …
- Miếng lót đầu gối, khuỷu tay: khi chiến sĩ phải thực hiện động tác chui,
bò, quì vào trong phương tiện để chăm sóc, cứu người bị nạn.
- Đối với chiến sĩ cứu hộ cứu nạn khi tiếp xúc trực tiếp với người bị
thương, phải tuyệt đối cẩn thận tránh lây bệnh truyền nhiễm, nên cần sử dụng:
găng tay chống lây truyền, khẩu trang, bọc cổ tay, …
- Một số trường hợp cần thiết thì chiến sĩ cũng cần phải sử dụng thiết bị
phòng chống khói khí độc (mặt nạn) để bảo vệ khỏi tác động các hạt nhỏ tạo ra
khi cắt phá kính, kim loại, vật liệu cấu tạo xe, hay các chất có chứa trên xe.
- Khi tai nạn có sự rò rỉ các hoá chất độc hại, phóng xạ thì chiến sĩ cứu hộ
cứu nạn khi tiếp cận vào khu vực bị các chất trên tác động phải có các trang bị
phòng, chống độc để đảm bảo an toàn.
Khi thực hiện công việc cứu hộ cứu nạn, chiến sĩ sẽ có thể bị truyền
nhiễm, lây truyền bệnh từ người bị nạn, do tâm lí của người bị nạn hoảng loạn
sau khi bị nạn, do hồi tỉnh khi chiến sĩ đang thực hiện công việc cứu hộ cứu nạn
dẫn đến hành động là bị thương các chiến sĩ, như: kéo, bám, cào, … hay khi gặp
nạn nhân bị chảy máu chiến sĩ thực hiện các biện pháp sơ cứu, cầm máu cho nạn
nhân nhưng chỉ do thao tác không chuẩn (do va chạm với các vật xung quanh)
để chính mình bị thương, dẫn đến bị lây truyền bệnh. Trong những tình huống
cấp thiết, người bị nạn ngừng hô hấp, tuần hoàn thì người chiến sĩ cần phải tiến
hành các biện pháp hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực để hỗ trợ nạn nhân
ngay khi chưa có phương tiện, hay trong điều kiện không gian bên trong phương
tiện bị nhỏ, hẹp không thể đưa thiết bị y tế vào, hay đưa nạn nhân ra nhanh bên
ngoài được, dẫn đến chiến sĩ bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường hô hấp. Trong

31
các tình huống, người chỉ huy và chiến sĩ phải đánh giá được tình huống để có
các dụng cụ, cách bảo hộ cho bản thân.
Trong khi thực hiện các kỹ thuật để giải cứu người bị nạn khỏi sự mắc kẹt
trong xe ôtô khách, các chiến sĩ cần sử dụng các phương tiện cứu hộ cứu nạn để
cắt, phá xe, để nâng xe lên hay sử dụng các cột chống, dây, tời để giữ ổn định
cho xe ôtô khách sau khi đã nâng, kích, thay đổi trạng thái nằm ban đầu của xe
sau tai nạn. Do vậy, nếu như chỉ với thao tác chống, đỡ hay giữ ổn định cho xe
không đảm bảo an toàn thì khi chiến sĩ đang thực hiện thao tác cứu hộ cứu nạn,
phương tiện bị thay đổi trạng thái của mình gây ra các sự cố nguy hiểm cho
chính chiến sĩ, nặng hơn có thể ảnh hưởng trực tiếp tính mạng của chiến sĩ, như
xe bị trượt trụ chống dẫn đến đổ sập xuống khi mà chiến sĩ đang chui vào bên
trong tiếp xúc và cứu nạn nhân.
Ngoài ra, hiện trường các vụ tai nạn giao thông là nằm trên các đường
quốc lộ, chính vì vậy luôn có các phương tiện giao thông khác đang lưu thông
trên đường, nếu như công tác khoanh vùng giới hạn không kịp thời và đảm bảo
an toàn thì các phương tiện đang lưu thông này có thể sẽ gây tai nạn trực tiếp với
chiến sĩ đang làm công tác cứu hộ cứu nạn. Hay va chạm với phương tiện đang
bị tai nạn mà có chiến sĩ cứu hộ cứu nạn đang trực tiếp làm việc bên trong
phương tiện hay làm việc ở gần đó.
4.2. An toàn cho nạn nhân.
Trong các vụ tai nạn giao thông, vị trí nạn nhân bị vướng, mắc kẹt trong
xe luôn có sự khác nhau ở các vụ tai nạn, tình trạng sức khoẻ của nạn nhân cũng
có sự phức tạp riêng. Một trong những việc đầu tiên khi đến hiện trường vụ tai
nạn ôtô khách là lực lượng cứu hộ cứu nạn phải nhanh chóng xác định được số
lượng nạn nhân có trong vụ tai nạn, vị trí các nạn nhân, tình trạng sức khoẻ, vị
trí nạn nhân đang bị thương để có thể đưa ra được phương pháp giải cứu nạn
nhân cho phù hợp.

32
Khi đã xác định được vị trí và tình trạng sức khoẻ, loại chấn thương của
nạn nhân. Chiến sĩ cứu hộ cứu nạn sẽ nhanh chóng căn cứ vào tình hình thực tế
trên hiện trường để triển khai các công việc sơ cấp cứu cần thiết cho nạn nhân.

Đối với Hình 4.2: Trang thiết bị bảo vệ nạn nhân những nạn nhân
mà chiến sĩ có thể tiếp cận ngay được để kiểm tra và chăm sóc sức khoẻ cho nạn
nhân thì tiến hành tiếp xúc trước. Nếu như nạn nhân không bị khống chế bởi
thiết bị phương tiện nào, có thể đưa ra ngoài dễ dàng mà không làm ảnh hưởng
đến nạn nhân khác, chiến sĩ cần tiếp cận để kiểm tra loại chấn thương của nạn
nhân, nếu nạn nhân bị thương không nguy hiểm, việc di chuyển không để lại hậu
quả gì thì nhanh chóng đưa nạn nhân ra ngoài và đưa tới vị trí an toàn để tiến
hành sơ cấp cứu cho nạn nhân. Trong khi di chuyển nạn nhân hay khi nạn nhân
vẫn còn kẹt trong phương tiện thì phải đội mũ bảo hộ cho nạn nhân và trùm
chăn, túi bóng, bạt để bảo vệ cho nạn nhân khi cần.
Khi nạn nhân bị các chi tiết trong xe khống chế, không thể đưa nạn nhân
ra ngoài mà chưa có tác động vào phương tiện trên xe, hay là khi đưa nạn nhân
dời khỏi chỗ đang ở thì có thể là ảnh hưởng tới phương tiện đang gặp sự cố dẫn
đến tình trạng xấu đi hơn của nạn nhận khác thì chúng ta để nạn nhân tại chỗ và
tiến hành các thao tác sơ cấp cứu ban đầu cho nạn nhân, giúp cho nạn nhân có
thể kéo dài thời gian sống, ngăn không để tình trạng xấu đi của nạn nhân, giúp
nạn nhân nhanh chóng hồi phục: tiến hành cầm máu ở các vết thương, cố định
các vị trí xương bị gẫy, đối với tất cả các trường hợp nạn nhân bị chấn thương
cột sống, đốt sống cổ thì phải làm thế nào cố định được cho nạn nhân, thường là
dùng cáng cứng để cố định cho nạn nhân trong các trường hợp này trước khi ta
di chuyển nạn nhân. Khi nạn nhân đang ở trong môi trường không đảm bảo

33
dưỡng khí hay khi nạn nhân khó thở thì có thể cho nạn nhân sử dụng bình khí
thở để hỗ trợ cho nạn nhân. Trong những trường hợp cần thiết, nếu chuyên môn
về y tế của chiến sĩ cứu hộ cứu nạn cho phép thì cần phải truyền dịch, cũng như
tiêm các loại thuốc hỗ trợ cho nạn nhân đủ sức khoẻ trong thời gian chờ giải
cứu.
Trong số các nạn nhân đang bị khống chế bởi các chi tiết của xe, các
chiến sĩ cứu hộ cứu nạn phải có phương án để cứu các nạn nhân. Khi cứu nạn
nhân trong tai nạn giao thông cần phải tuân theo các nguyên tắc sau: cần ưu tiên
người bị thương nặng mà tính mạng đang bị nguy hiểm nhất, sau mới đến những
nạn nhân có mức độ nguy hiểm thấp hơn, người được cứu trước phải ở vị trí mà
khi tiến hành các thao tác kỹ thuật để cắt, phá xe để giải cứu không bị gây các
tác động mà tác động đến các nạn nhân khác còn đang bị chi tiết của xe khống
chế. Trong giải cứu cho các nạn nhân trong vụ tai nạn cần phải tính toán rất kỹ
lưỡng các phương án, cũng như phải có biện pháp đảm bảo an toàn cho những
người được cứu sau.
Một yếu tố nguy hiểm tác động đến công tác cứu hộ cứu nạn phải đến nữa
là hiện tượng hoảng loạn của nạn nhân. Trong tiềm thức của con người luôn có
nhận thức đến mối nguy hiểm lớn đe doạ tới sự sống của bản thân, chính vì vậy
sau khi tai nạn, đặc biệt là nạn nhân sau khi bất tỉnh thì dễ bị hoảng loạn, mất
khả năng định hướng và nhận định tình hình nếu chiến sĩ cứu hộ cứu nạn không
xử lý kịp thời thì sẽ làm cho tình trạng của nạn nhân thêm nguy kịch, gây khó
khăn cho công tác cứu hộ. Do vậy, chiến sĩ cứu hộ cứu nạn phải biết động viên
an ủi, khích lệ người bị nạn, để họ tin tưởng vào sự giúp đỡ của lực lượng cứu
hộ cứu nạn và nhất định là họ sẽ được cứu thoát an toàn. Nếu nạn nhân đang
trong trạng thái hoảng loạn thì chỉ huy và các chiến sĩ phải nhanh chóng nắm
quyền chủ động trấn an tinh thần họ bằng các hành vi và cử chỉ bình tĩnh, tự tin
và giọng nói dứt khoát rõ ràng để động viên nạn nhân yên tâm, đồng thời hướng
dẫn họ thực hiện theo sự chỉ dẫn của lực lượng cứu hộ cứu nạn.
Một số vụ tai nạn giao thông xảy ra trong điều kiện trời mưa, để đảm bảo
cho công tác triển khai cứu hộ cứu nạn được nhanh chóng, chính xác cũng như

34
để đảm bảo cho sức khoẻ của nạn nhân thì cần phải tiến hành căng bạt trên hiện
trường tại vị trí xe bị nạn.
Công việc cứu nạn, cứu hộ luôn phức tạp và có tính nguy hiểm cao do
nhiều yếu tố tác động đối với người lính cứu nạn cứu hộ. Để đảm bảo an toàn
cho chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ cần phải có sự phối hợp ăn
ý, hiểu nhau giữa các chiến sĩ và người chỉ huy, nghiêm túc chấp hành mệnh
lệnh chỉ huy của các chiến sĩ, sự chỉ huy sáng suốt, phù hợp, đúng đắn của người
chỉ huy, các công cụ, thiết bị bảo vệ an toàn cho nạn nhân khi làm nhiệm vụ.

35

You might also like