You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING


----------

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TIN HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG Ở


VIỆT NAM

Sinh Viên Thực Hiện : Nguyễn Hoàng Vũ


MSSV : 2121006667
Lớp Học Phần : 2121101063832
GVHD : Đinh Nguyễn Thúy Nguyệt

TP Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 4 năm 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING
----------

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TIN HỌC ĐẠI CƯƠNG

Nhận xét của giảng viên:..........................................................

Sinh Viên Thực Hiện : Nguyễn Hoàng Vũ


MSSV : 2121006667
Lớp Học Phần : 2121101063832
GVHD : Đinh Nguyễn Thúy Nguyệt

TP Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 4 năm 2022


Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu khóa học em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ tận tình từ phía Cô Đinh Nguyễn Thúy Nguyệt. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Cô Đinh Nguyễn Thúy Nguyệt - Giảng viên trực tiếp giảng dạy học phần môn Tin học
đại cương và hướng dẫn đề tài này, cảm ơn cô đã trang bị cho chúng em những kiến thức
quý báu tạo tiền đề cho các bài tiểu luận sau này.

Bài tiểu luận được thực hiện trong khoảng 10 ngày với tất cả sự cố gắng tuy nhiên do
kiến thức còn hạn chế và chưa thật sự có nhiều kinh nghiệm trong các bài tiểu luận nên
không tránh khỏi các thiếu sót, em rất mong nhận được những lời nhận xét đóng góp của
cô giúp em hoàn thiện đề tài hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

TP.HCM, ngày 30 tháng 4 năm 2022

Người thực hiện

Nguyễn Hoàng Vũ

i
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. So sánh giá trị và xếp hạng theo HDI và GDI một số nước chọn lọc năm 1999 .... 2
Bảng 2. Bảng số liệu: SRB ở Việt Nam 2005 – 2009. ......................................................... 4
Bảng 3. Tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp.................................................. 5
Bảng 4. Tỷ lệ nữ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp (%) ............................. 6
Bảng 5. Tỷ lệ nữ cán bộ trong UBND các cấp chia theo giới tính (%) ................................ 6
Bảng 6. Tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ trong các trường cao đẳng, đại học (%) .................... 8
Bảng 7. Tỷ lệ nam, nữ giữ các chức danh, học vị khoa học................................................. 9
Bảng 8. Tỷ lệ lao động nữ từ 15 tuổi trở lên có việc làm (%) ............................................ 11

ii
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1. Tỷ lệ SRB năm 2005-2009 ...................................................................................... 4
Hình 2. Nữ Đại biểu Quốc hội trẻ nhất là Quảng Thị Nguyệt ............................................. 6
Hình 3. Trẻ em gái vùng cao được đến trường nâng cao trình độ văn hóa và học vấn ........ 7
Hình 4. Đảm bảo bình đẳng giới trong lao động ................................................................ 12
Hình 5. Ba mẹ thương yêu con trai, không quan tâm con gái ............................................ 13
Hình 6. Thiên chức của phụ nữ là trở thành mẹ ................................................................. 14
Hình 7. Cân bằng giới tính nam-nữ .................................................................................... 15
Hình 8. Phụ nữ vùng nuối phải làm việc cực khổ .............................................................. 17

iii
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ i
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................ii
DANH MỤC HÌNH ẢNH .................................................................................................. iii
MỤC LỤC ........................................................................................................................... iv
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG
GIỚI ...................................................................................................................................... 1
I. Một số khái niệm ........................................................................................................ 1
II. Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới ..................................................... 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010 .............................................................................. 3
I. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) ................................................................................... 3
II. Bất bình đẳng giới trong chính trị .............................................................................. 5
III. Bình đẳng giới trong giáo dục................................................................................. 7
IV. Bất bình đẳng giới trong kinh tế, lao động – việc làm. ......................................... 10
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
............................................................................................................................................ 13
I. Nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng giới ở Việt Nam. ............................................. 13
1. Trọng nam khinh nữ .............................................................................................. 13
2. Thiên chức của phụ nữ .......................................................................................... 14
3. Nhận thức xã hội ................................................................................................... 15
II. Giải pháp khắc phục hạn chế bất bình đẳng giới. .................................................... 16
III. Giải pháp hạn chế bất bình đẳng giới trong vùng dân tộc thiểu số, miền núi ...... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... v

iv
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ


BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
I. Một số khái niệm
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên
quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định đến cơ hội cuộc
sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác
biệt về xã hội và quan hệ về quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam
giới được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và
thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ rang trong vui chơi,
trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới thì: Bình đẳng
giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và hưởng thụ như nhau về
thành quả của sự phát triển của cộng đồng về thành quả của phát triển đó. Bình đẳng giới
đề cập tới sự bình đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của nam giới và nữ giới, trẻ em gái
và trẻ em trai. Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người, dù là nam giới hay phụ nữ, với tư
cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng
sắn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung
như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội...)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử dụng nguồn lực.
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội
bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và hướng thụ từ sự phát
triển của gia đình của đất nước.
II. Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo bằng các
chi tiêu khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên
hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 2 chỉ số:

1
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các khía
cạnh tương tự như HDI (tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu nhập) nhưng lại điều chỉnh các
kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong mỗi nước, nếu giá trị của GDI càng gần với HDI
thì sự khác biệt theo giới tính càng ít (trường hợp của Na Uy và Singapore-Bảng 4.9). Nếu
thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng HDI cho thấy sự phân phối không bình đẳng và phát triển
con người giữa nam và nữ (Lucxămbua và Ai Cập Xê út). Ngược lại, nếu thứ hạng GDI là
cao hơn, cho thấy một sự phân phối bình đẳng hơn về phát triển con người giữa nam và nữ.
Sau đây là bảng so sánh giá trị và xếp hạng một số nước theo HDI và GDI năm 1999.
Bảng 1. So sánh giá trị và xếp hạng theo HDI và GDI một số nước chọn lọc năm 1999

HDI GDI

Tên nước Giá trị Xếp hạng Giá trị Xếp hạng

Na Uy 0.939 1 0.937 1

Xingapo 0.876 26 0.871 26

Lucxămbua 0.924 12 0.907 19

Ai Cập Xê Út 0.74 68 0.719 75

Thái Lan 0.757 66 0.757 58

Xrilanka 0.735 81 0.732 70

Việt Nam 0.682 101 0.680 89

- Thước đo vị thế giới (GEM). Thước đo này tập trung xem xét cơ hội của phụ nữ chứ
không phải là khả năng (năng lực) của họ. Nó chỉ ra sự bất bình đẳng giới trên 3 khía cạnh.

• Tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định – được đo bằng tỷ lệ có
ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.

• Tham gia hoạt động kinh tế và có quyền quyết định – được đo bằng tỷ lệ các
vị trí lãnh đạo, quản lý do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm và tỷ lệ các vị trị trong nghành
kỹ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.

• Quyền đối với các nguồn kinh tế - đo bằng thu nhập ước tính của phụ nữ và
nam giới (PPP-USD).
Các nghiên cứu của UNDP về GDI và GEM của các nước đã chỉ ra rằng:

2
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
- Sự bình đẳng về giới cao hơn trong phát triển con người không phụ thuộc vào mức
thu nhập hoặc giai đoạn phát triển.
- Thu nhập cao không phải là điều kiện tiên quyết để tạo ra các cơ hội cho phụ nữ.
- Trong những thập niên qua, tuy đã có những tiến bộ vượt bặc về sự bất bình đẳng
giới nhưng sự phân biệt giới vẫn phổ biến trong mọi mặt của cuộc sống và ở các nước trên
thế giới.
Vì vậy bình đẳng giới được coi là vấn đề trung tâm của phát triển, là mục tiêu của
phát triển, đồng thời là một yếu tố để năng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia và xóa
đói giảm nghèo.
Bằng chứng thực tế cho thấy, phát triển kinh tế thế giới và phát triển của các nước
đang phát triển đang mở ra nhiều hướng đi để nâng cao sự bình đẳng giới trong dài hạn.
Tuy nhiên, nếu chỉ có sự tăng trưởng thì sẽ không tạo ra được kết quả mong muốn mà còn
cần có một môi trường thể chế để mang lại quyền hạn và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và
nam giới, cần có những giải pháp chính sách cho phụ nữ và nam giới, cần có những giải
pháp chính sách liên quan đến bất bình đẳng giới.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT


NAM TRONG THỜI GIAN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do
vậy là bất bình đẳng giới cũng tồn tại ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực. Để tìm hiểu hết thực
trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn nhưng nhìn sâu trong một số lĩnh
vực thì chúng ta cũng có thể hiểu thực trạng của bất bình đẳng giới đang tồn tại trong xã
hội của Việt Nam như thế nào. Sau đây là tìm hiểu về thực trạng bất bình đẳng giới một số
ngành:
I. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ lệ giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ sinh gái
được sinh ra. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 105 đến 108 bé trai được sinh ra
so với 100 bé gái, bởi vì tỷ lệ chết ở trẻ trai thường cao hơn trẻ gái một chút do vậy khi đến
tuổi trưởng thành số nam và nữ sẽ cân bằng nhau. Tỷ số sinh khi sinh có thể coi là một
trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này càng cao
rõ rang nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá thai có sự
lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chênh lệch khỏi mức
sinh học bình thường điều này phản ánh những can thiệp có chủ định ở các mức độ khác
3
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
nhau đến sự mất cân bằng tư nhiên. Ở Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng rất nhanh trong
những năm gần đây được thể hiện như sau:
Bảng 2. Bảng số liệu: SRB ở Việt Nam 2005 – 2009.

Năm điều tra Nguồn Thời gian điều tra SRB

2005 Điều tra dân số hàng năm 1/4/2005 106.0

2006 Điều tra dân số hàng năm 1/4/2006 110.0

2007 Điều tra dân số hàng năm 1/4/2007 111.6

2008 Điều tra dân số hàng năm 1/4/2008 112.1

2009 Điều tra dân số hàng năm 1/4/2009 110.5

Hình 1. Tỷ lệ SRB năm 2005-2009

SRB nếu không có sự can thiệp lựa chọn giới tính thường từ 105 đến 108 trẻ trai trên
trẻ gái. Trong ba năm từ 2005 đến 2009 tỷ suất giới tính của Việt Nam gia tăng từ 106 theo
điều tra biến động dân số 2005 đến 110.5 vào năm 2009. Kết quả nghiên cứu mới đây của
Viện Nghiên cứu phát triển xã hội tại một số địa phương ở khu vực phía Bắc và Duyên hải
cho thấy, có tới 16 tỉnh, thành phố có tỷ lệ giới tính khi sinh từ 115 đến 128 nam/100 nữ và
20 tỉnh có tỉ lệ 111 nam/100 nữ. Nhưng ngay từ kết quả Tổng điều tra Dân số năm 1999 ở
nước ta cũng đã có dấu hiệu mất cân đối giới tính, đặc biệt ở một số tỉnh, thành phố có tỷ
suất vượt quá ngưỡng tự nhiên. Điển hình là Thái Bình: tỷ số 120 nam/100 nữ; Kiên Giang:
125 nam/100 nữ, An Giang: 128 nam/100 nữ. Năm 2010 SRB ở nước ta đang ở vào mức
cao, tăng nhanh, liên tục trong 5 năm qua và có thể vượt ngưỡng 115 trẻ trai/100 trẻ gái
trong vòng ba năm tới. Đặc biệt ở nhóm các địa phương vùng đồng bằng Bắc bộ, nơi người
dân khao khát sinh con trai và có phương tiện kỹ thuật hỗ trợ, tỉ số giới tính khi sinh đã lên
đến 130 trẻ trai/100 trẻ gái ở Hưng Yên, 122 trẻ trai/100 trẻ gái ở Bắc Ninh, 120 trẻ trai/100
4
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
trẻ gái ở Hải Dương. trai dẫn đến kinh tế gia đình khó khăn, nghèo nàn, con cái không được
học SRB ra tăng rất nhanh ở Việt Nam là sự chỉ báo về sự mất cân bằng giới tính, kéo theo
nhiều hậu quả tiêu cực, tác động xấu đến chất lượng sống của người dân: làm mất cân bằng
nghiêm trọng cơ cấu dân số; các cơ sở y tế, bói toán hành nghề ăn theo phục vụ nhu cầu
sinh con theo ý muốn; tình trạng nạo phá thai nhi khi kết quả siêu âm, chuẩn đoán cho biết
là gái gia tăng; xu hướng người chồng có quan hệ với những người phụ nữ khác để tìm con
trai, gây tan vỡ hạnh phúc gia đình ngày càng nhiều; mâu thuẫn, bất hòa, cuộc sống nặng
nề ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của nhiều gia đình, con cái không được dạy dỗ chu
đáo, có suy nghĩ lệch lạc, phát triển không đồng đều, dễ xa vào tệ nạn xã hội; vì cố sinh con
hành cũng như hưởng các điều kiện sống cần thiết…Vị trí, vai trò của người phụ nữ trong
xã hội chưa thực sự được đề cao, bất bình đẳng giới gia tăng.
II. Bất bình đẳng giới trong chính trị
Ngày nay người phụ nữ không chỉ lo việc bếp núc mà phải đi ra ngoài làm việc, cuộc
sống nâng cao thì cả chồng cả vợ mới có thể đủ khả năng chăm sóc gia đình và nuôi nấng
con cái. Tại công sở, người phụ nữ nếu mà được những chức vụ cao, những chức vụ khá
quan trọng, thì vấn đề bình đẳng giới tự nhiên bị đặt ra như một rào chắn, hay một vấn đề
mà người phụ nữ đó phải phấn đấu để vượt qua. Để khẳng định được mình trong vị trí lãnh
đạo và quản lý thì thứ nhất bản thân những phụ nữ đó phải có năng lực, phải có trình độ,
được đồng nghiệp tín nhiệm. Thực tế hiện nay nhiều phụ nữ có năng lực và có trình độ.
Nam giới họ cũng khẳng định về năng lực và trình độ đó. Tuy nhiên do quan niệm cho rằng
phụ nữ lãnh đạo thì hiệu quả sẽ không cao bằng nam giới, nên tỷ lệ phụ nữ có chức vụ cao
vẫn còn hạn chế được thể hiện dưới bảng các bảng số liệu sau đây:
Bảng 3. Tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp

Khoá 1999-2004 Khoá 2004-2011


Các cấp
Nữ Nam Nữ Nam

Tỉnh/thành phố 22,33 76,67 23,8 76,2

Quận/huyện 20,12 79,88 23,2 76,8

Xã/phường 16,56 83,44 20,1 79,9

5
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
Bảng 4. Tỷ lệ nữ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp (%)

Nhiệm kỳ 1999-2004 Nhiệm kỳ 2004-2011


Cấp Cấp Cấp Cấp Cấp Cấp
Chức danh
tỉnh huyện xã tỉnh huyện xã

Chủ tịch 1,64 5,46 3,46 1,56 3,92 4,09


Phó chủ tịch 8,19 11,42 5,57 26,56 19,64 10,61

Bảng 5. Tỷ lệ nữ cán bộ trong UBND các cấp chia theo giới tính (%)

Nhiệm kỳ 1999-2004 Nhiệm kỳ 2004-2011


Các cấp
Nữ Nam Nữ Nam
Tỉnh/thành phố 6,4 93,6 8,61 91,39

Quận/huyện 4,9 95,1 6,40 93,60


Xã/phường 4,54 95,46 3,99 96,01

Tỷ lệ cán bộ, công chức của nước ta còn rất thấp so với nam giới, hiện tỷ lệ nữ giới
trong Quốc Hội Việt Nam nhiệm kỳ 12 này chiếm 25,8% với 127 đại biểu. Điều này phản
ánh cơ hội phấn đấu trong công việc của phụ nữ thấp hơn rất nhiều so với nam giới, từ tình
hình thực tế đã cho thấy sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại trong hoạt động chính trị. Nhưng
so với các nước khác ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Việt Nam có tỷ lệ đại biểu
nữ trong Quốc hội cao nhất.

Hình 2. Nữ Đại biểu Quốc hội trẻ nhất là Quảng Thị Nguyệt

6
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
III. Bình đẳng giới trong giáo dục
Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã
hội. Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và
những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ
em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại được học hành
nhiều hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể
đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh
hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực của tương lai. Khi mức độ bất bình đẳng
giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi
trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu
tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người
mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn
cho giáo dục đối với con cái. Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết
định trong việc chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ
làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của
toàn xã hội sẽ được nâng lên. Chứng tỏ trình độ của phụ nữ và trẻ em gái cũng rất cao và
tốt nên cần được học tập sâu rộng và được phát huy tại mọi nơi, mọi lúc mà không bị ràng
buộc bởi một rào cảng nào khác về giới tính. Đồng thời cần để cho trẻ em gái được học tập
cùng trẻ em trai để cả hai cùng nhau phát triển toàn diện. Vì với khả năng tuy duy của trẻ
em gái sẽ giúp đỡ, hỗ trợ cho trẻ em nam biết thêm và cả hơi cùng nhau phát huy và phát
tiển một cách hiệu quả nhất.

Hình 3. Trẻ em gái vùng cao được đến trường nâng cao trình độ văn hóa và học vấn

7
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
Tại Việt Nam Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong
nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục qua
các năm không ngừng tăng lên: năm 2002 chiếm 16,7%; năm 2005 chiếm 18%; năm 2008
chiếm 20% so với tổng ngân sách. Mức chi cho giáo dục của Việt Nam cao ngang bằng với
một số nước phát triển. Kết quả của những ưu tiên này đã thu hẹp khoảng cách giới và việc
đầu tư vào con người đã góp phần làm cho Việt Nam đạt được chỉ số phát triển con người
(HDI) và chỉ số phát triển giới (GDI) khá cao. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người
biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc
học được thu hẹp. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở
các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho
người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với
phụ nữ hơn rất nhiều so với trước. Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người
phụ nữ, đặc biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực
hiện tương đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh
Mai đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới nữ
đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước nhà”. Một
số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học Bách khoa Hà Nội
nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà
giáo nhân dân, được công nhận chức danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh
viên nữ tự khẳng định vai trò của giới mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết
quả xuất sắc. Trong các kỳ tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ.
Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất
sắc: thủ khoa. Ở bậc đại học và cao đẳng, tỷ lệ sinh viên, học sinh là nữ đang có xu hướng
tăng dần đều qua các năm 2004-2007 (47,79%, 48,49%, 53,32%), trong đó năm học 2006-
2007 tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ còn cao hơn tỷ lệ nam học sinh, sinh viên (nữ 53,32%,
nam 46,68) (Bảng 6).
Bảng 6. Tỷ lệ học sinh, sinh viên nữ trong các trường cao đẳng, đại học (%)

Bậc học 2004-2005 2005-2006 2006-2007

Các trường đại học 46,95 47,23 54,99


Các trường cao đẳng 50,98 53,09 53,88
Chung đại học và cao đẳng 47,79 48,49 53,32
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục – đào tạo cũng có những hạn chế như: việc tiếp cận với giáo dục của trẻ em gái và phụ

8
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
nữ dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn và trở ngại hơn so với các
em trai và nam giới, vì phụ nữ ở những gia đình nghèo và ở những dân tộc thiểu số ít được
đi học, thường phải bắt đầu làm việc từ khi còn ít tuổi, trong khi trẻ em trai có nhiều cơ hội
được đến trường hơn. So với trẻ em trai, trẻ em gái không được đến trường hoặc phải chịu
gánh nặng gấp ba: vừa làm việc nhà, vừa lo học tập ở trường, vừa phụ giúp gia đình làm
kinh tế mà không được trả công. Gánh nặng kinh tế đặt lên vai phụ nữ ngay từ nhỏ vì thời
gian lớn dành cho công việc phụ giúp gia đình nên thời gian dành cho việc học phải giảm
xuống.
Trên bình diện cả nước, khoảng cách bất bình đẳng giới giữa nam và nữ đang dãn
rộng hơn ở các bậc học sau đại học. Mặc dù tỷ lệ nữ có trình độ sau đại học của Việt Nam
đã cao hơn 30%, nhưng vẫn chỉ bằng 1/2 so với nam giới. Đặc biệt, càng ở trình độ học vấn
cao thì mức độ bất bình đẳng giới lại càng lớn. Tỷ lệ phụ nữ đạt học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa
học, giáo sư thấp hơn khoảng từ 5 – 18 lần so với nam giới. Năm 2007, tỷ lệ phụ nữ được
phong học hàm phó giáo sư chỉ chiếm 11,67%, trong khi tỷ lệ này của nam giới là 88,33%.
Đối với học hàm giáo sư, phụ nữ chỉ chiếm 5,1%, nam giới chiếm 94,9%. Học vị tiến sĩ
khoa học, nam giới chiếm 90,22%, phụ nữ chiếm 9,78%; học vị tiến sĩ, nam giới chiếm
82,98% và phụ nữ chỉ chiếm 17,5% (xem bảng 7). Qua đó thấy được rằng tỷ lệ trình độ học
vấn của nam giới tương đối khá cao hơn so với nữ giới. Tuy nhiên nữ giới cũng đã có phần
phát triển khi cũng có những người đạt học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, giáo sư.
Bảng 7. Tỷ lệ nam, nữ giữ các chức danh, học vị khoa học

1999 2004 2006


Chức danh
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Thạc sĩ 29,11 70,89 39,1 60,9 30,53 69,47

Tiến sĩ khoa học 13,04 86,96 17,50 82,50 9,76 90,2

Tiến sĩ 15,44 84,58 17,02 82,98

Giáo sư 4,3 95,70 3,10 96,90 5,10 94.90

Có thể nói rằng bình đẳng giới trong giáo dục có tầm quan trọng to lớn đối với sự phát
triển của đất nước. Vì vậy, có một nhà giáo dục đã viết: Giáo dục một người đàn ông, ta
được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta được cả một thế hệ. Lợi ích trăm năm
trồng người chính là xuất phát từ việc bình đẳng giới trong giáo dục.
9
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
IV. Bất bình đẳng giới trong kinh tế, lao động – việc làm.
Khi nói đến bình đẳng giới ở nơi làm việc, có nhiều người cho rằng đó là một phong
trào nữ quyền nhằm nâng cao phụ nữ và hạ thấp đàn ông, hoặc là phong trào đưa phụ nữ
vào thay thế đàn ông ở các vị trí kinh tế và xã hội quan trọng. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của xã hội và sự biến đổi trong mối quan hệ giữa nam và nữ, phong trào bình đẳng
giới là một hiện tượng lịch sử mang tính trí tuệ, chính trị, xã hội, nhân văn và kinh tế tất
yếu phải xảy ra.
Bình đẳng giới ở nơi làm việc không có nghĩa là tỉ lệ nam nữ trong công ty phải cân
bằng, mà có nghĩa là mọi người đều được tiếp cận các cơ hội và nguồn lực giống nhau,
cũng như được nhận thù lao như nhau cho những công việc tương đương, không phân biệt
giới tính. Bình đẳng giới là bãi bỏ những rào cản để phụ nữ được tham gia đầy đủ và bình
đẳng trong lực lượng lao động; là không phân biệt giới tính trong bất cứ ngành nghề nào,
bao gồm các vị trí lãnh đạo; là loại bỏ phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, nhất là trong
các vấn đề liên quan đến gia đình và trách nhiệm chăm sóc gia đình.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở mức cao
(83% so với nam giới 85%). Phụ nữ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân; tham gia ngày càng nhiều hơn trong khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là
các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao. Theo Điều tra lao động
– việc làm ngày 18/2007 của Tổng cục thống kê, tỷ lệ lao động nữ đã chiếm 46% trong số
người làm công ăn lương từ các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh; số chủ cơ sở sản xuất –
kinh doanh là nữ chiếm 41,12%; tỷ lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình chiếm 49,42%.
Mặc dù các số liệu thống kê cũng chỉ ra có một tỷ lệ lớn lao động nữ còn làm các công việc
giản đơn (53,64%), nhưng tỷ lệ phụ nữ đang tham gia vào các lĩnh vực vốn được coi là
“truyền thống” (công việc kỹ thuật, quản lý) của nam giới cũng đang dần tăng lên (xem
bảng 6 của Phụ lục). Tỷ lệ lao động nữ từ 15 tuổi trở lên làm công việc khai khoáng chỉ
chiếm 31,1%, trong khi đó nam giới chiếm 68,9%; tham gia hoạt động khoa học và công
nghệ thì nữ chiếm 34% và nam chiếm 66%; quản lý nhà nước về an ninh, quốc phòng, bảo
đảm xã hội thì nữ chiếm 24,7% và nam chiếm 75%. Tuy vậy, có một số công việc vốn được
coi là “truyền thống” của phụ nữ thì tỷ lệ nữ tham gia vẫn còn rất cao. Chẳng hạn, tỷ lệ lao
động từ 15 tuổi trở lên làm việc trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng chiếm 71,6%, trong khi
nam giới chỉ chiếm 28,4%; giáo dục đào tạo, nữ chiếm 69,2% và nam chiếm 30,8%; y tế
và cứu trợ xã hội, nữ chiếm 59,6%, nam chiếm 40,4%. Có thể thấy trong công việc và lao
động nữ cũng có nhỉnh hơn nam . Sau đây cùng xem qua bảng tỷ lệ nữ tuổi 15 trở lên có
việc làm.
10
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
Bảng 8. Tỷ lệ lao động nữ từ 15 tuổi trở lên có việc làm (%)

Chia theo ngành kinh tế quốc dân Nữ Nam


Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 51,6 48,4
Khai khoáng 31,1 68,9

Công nghiệp chế biến, chế tạo 51,7 48,3

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước… 27,4 72,6
Thương nghiệp, sửa chữa động cơ, xe máy…. 61,5 38,5

Khách sạn, nhà hàng 71,6 28,4


Tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm 52,5 47,5
Hoạt động khoa học, công nghệ 34,0 66,0

Kinh doanh tài sản, dịch vụ hành chính, tư vấn hỗ trợ 42,2 57,8

Quản lý nhà nước về an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội… 24,7 75,3
Giáo dục và đào tạo 69,2 30,8

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 59,6 40,4

Hoạt động văn hoá thể thao 48,8 51,2

Phục vụ cá nhân, làm thuê công việc gia đình… 45,5 54,5

Làm việc trong các tổ chức quốc tế 51,4 48,2


Tổng số 49,4 50,6
Nhìn chung, phân bố cơ cấu nam, nữ trong các ngành nghề cho thấy, nam giới vẫn
thường chiếm tỷ lệ cao hơn ở những nhóm việc như công nhân, lãnh đạo, dịch vụ cá nhân,
công việc chuyên môn kỹ thuật và lực lượng vũ trang. Phụ nữ thường chiếm tỷ lệ cao ở một
số nhóm nghề khác như nông nghiệp, buôn bán nhỏ, nhân viên văn phòng. Mặc dù chưa có
số liệu thống kê chính thức, phụ nữ cũng tham gia rất nhiều vào lực lượng lao động trong
khu vực kinh tế phi chính thức, ước tính khoảng 70% đến 80%. Về chuyên môn và kỹ năng,
tỉ lệ phụ nữ được đào tạo ở tất cả các hình thức đều thấp hơn nam giới, trong khi tỉ lệ phụ
nữ tự học lại cao hơn hẳn nam giới. Về lương, ba ngành nghề thủy sản, dệt may và da giày
có lương gần thấp nhất lại là ba nghề có số lao động nữ tập trung đông nhất. Tính trên bình
diện chung, lương phụ nữ chỉ bằng 85% lương nam giới, trong đó phụ nữ làm việc ở nhóm
công nghiệp có mức lương bằng 82% lương nam giới, dịch vụ bằng 75%, thương mại bằng
11
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
80%. Về vị thế nghề nghiệp, phụ nữ được đề nghị tuyển dụng nhiều ở nhóm việc nhân viên,
còn nam giới được đề nghị vào vị trí lãnh đạo nhiều hơn hẳn nữ giới.

Hình 4. Đảm bảo bình đẳng giới trong lao động

Tuy nhiên, điều kiện lao động, thu nhập và an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế) đối với lao động nữ làm việc trong khu vực này còn rất nhiều hạn chế. Vị thế việc làm
của lao động nữ cũng có sự thay đổi tích cực. Trong 10 năm từ 1997 đến 2007, nhóm lao
động làm công ăn lương tăng rất mạnh trong cơ cấu phân bố lao động, từ 18,6% (1997) lên
tới 30% (2007), trong đó lao động nam chiếm 59,8% và lao động nữ chiếm 40,2% (2007).
Nếu so sánh với năm 2005 thì có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2005, tỷ trọng lao động làm công
ăn lương chiếm 25,6%, trong đó lao động nam chiếm 78,7% và lao động nữ chiếm 21,3%.
Tỷ trọng lao động nữ trong số người làm công ăn lương tăng mạnh (19%), thể hiện sự thay
đổi theo hướng giảm sự bất bình đẳng giới về việc làm có thu nhập ổn định giữa nam và
nữ. Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình bình đẳng giới của Việt Nam có
nhiều tiến bộ. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động khu vực
thành thị cũng có xu hướng giảm nhẹ, từ 4,82% năm 2006, xuống còn 4,64% năm 2007,
ước tính năm 2008 là 4,65%, tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ ở khu vực
thành thị là 5,25%; 5,10% và 5,10%. Nhìn chung, kết quả này đều thực hiện đạt chỉ tiêu
phấn đấu đề ra trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Sự
tiến bộ của phụ Nữ Việt Nam là toàn diện do đó cần tiếp tục, phấn đấu hoàn thành tốt chiến
lược quốc giá.
12
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ BẤT BÌNH ĐẲNG
GIỚI Ở VIỆT NAM
I. Nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
1. Trọng nam khinh nữ
Trọng nam khinh nữ là một tư tưởng trong đó coi nam giới là quan trọng hơn phụ
nữ; tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới. Mặc dù hiện nay quyền phụ nữ được công nhận nhưng
tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ở một số nước, đặc biệt là gắn liền với các tư tưởng
tôn giáo và biểu hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau. Trải qua thời kỳ chi phối lâu dài của
học thuyết Nho giáo, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam là làm sao phải có con
trai để nối dõi dòng tộc, áp lực về con cái, về con nối dõi cứ truyền từ đời này qua đời khác
dần dần ngấm vào tâm khảm nhiều người và cứ thế tư tưởng trọng nam, khinh nữ ngày càng
có chiều hướng gia tăng.

Hình 5. Ba mẹ thương yêu con trai, không quan tâm con gái

Tư tưởng trọng nam khinh nữ ở nước ta được lý giải dựa trên ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo và nhận thức của người dân về thực tiễn cuộc sống: Người đàn ông có trách nhiệm
nối dõng dòng họ, sẽ trông nom chăm sóc mồ mả tổ tiên; không có con trai là một điều bất
kính với tổ tiên dòng họ. Nam giới là nguồn lao động chính, kế thừa tài sản của gia đình và
có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về già. Khi hệ thống phúc lợi xã hội đối với người già
còn chưa phát triển, nhất là tại các vùng nông thôn, nơi 74% dân số đang sinh sống, con cái
chăm sóc cha mẹ già vẫn là hết sức quan trọng. Người già vẫn đa phần phải dựa vào sự hỗ
13
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
trợ trong gia đình. Những suy nghĩ, cách hành xử, sự dạy dỗ có liên quan đến phân biệt,
định kiến giới của ông, bà, cha, mẹ, anh, chị chính là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc
hình thành quan niệm về giới của mỗi thành viên trong gia đình. Do đó, nếu trong gia đình
có những định kiến giới thì những định kiến này sẽ được lặp lại ở các thế hệ tiếp theo. Mặt
khác, chúng ta đã duy trì được mức sinh thấp kéo dài liên tục trong nhiều năm. Nhưng từ
đó cũng xuất hiện mẫu thuẫn, các gia đình muốn chỉ có 1-2 con thì trong đó phải có con
trai. Vì thế mới có chuyện cố tình đẻ con trai cho bằng được. Một số ngành nghề đòi hỏi
phải có nam giới, như việc đi biển, con gái thì không thể làm được. Nhưng nguyên nhân
trực tiếp chính là mong muốn có con trai của các gia đình.
2. Thiên chức của phụ nữ
Nguyên nhân quan trọng nhất cản trở phân chia bình đẳng công việc trong gia đình ở
Việt Nam là quan niệm xã hội: “Công việc nội trợ là thiên chức của Phụ nữ’. Không những
thế, xã hội còn đánh giá thấp ý nghĩa của các công việc gia đình làm cho nam giới thiếu
động lực trong việc chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ. Vấn đề giải phóng phụ nữ trong
gia đình chưa được đặt một cách tương xứng với yêu cầu đổi mới kinh tế, xã hội, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn. Phụ nữ phải phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, nam giới là độc
lập, mạnh mẽ có năng lực và là người ra quyết định. Chồng có quyền dạy vợ, vợ phải nghe
theo chồng. Nam là trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn quan trọng
trong gia đình, nữ có trách nhiệm nuôi dạy con cái, nội trợ trong nhà. Nam giỏi việc xã hội,
nữ phải giỏi việc nhà.

Hình 6. Thiên chức của phụ nữ là trở thành mẹ

14
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
3. Nhận thức xã hội
Nguyên nhân căn bản dẫn tới hiện tượng bất bình đẳng giới là nhận thức xã hội về
vấn đề này chưa thấu đáo, đặc biệt là nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, lãnh
đạo, quản lý và nhân dân. Mặt nhận thức của nhân dân còn hạn chế, công tác tuyên truyền
bình đẳng giới còn nhiều hạn chế, chưa thiết thực, chưa phù hợp và chưa đi sát vào dân,
nên hiệu quả nâng cao nhận thức của nhân dân còn hạn chế. Mặt khác, trong Báo cáo về
mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam qua các bằng chứng từ Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009, trình độ học vấn của người mẹ quan hệ tương hỗ chặt chẽ với tỷ số giới
tính khi sinh - người phụ nữ càng có học thức cao thì càng có khả năng và điều kiện lựa
chọn sinh con trai. Cụ thể, nhóm các bà mẹ có trình độ tiểu học và thấp hơn có tỉ lệ đẻ con
trai là 107/100 (số nam/nữ), trong khi nhóm trung học phổ thông và học nghề là 111 và con
số này ở nhóm chị em có trình độ cao đẳng trở lên là gần 114. Nhóm phụ nữ có học thức
cao thường cũng là nhóm giàu nhất, có mức sinh thấp, đồng thời cũng có nhiều điều kiện
tiếp cận thông tin, công nghệ để lựa chọn giới tính của con, nên có tỷ lệ đẻ con trai cao hơn
trong khi nhóm dân số nghèo nhất thường có tỷ số giới tính nam - nữ gần với mức bình
thường nhất là 105, trong khi với nhóm dân số giàu thì con số này lên đến 112.

Hình 7. Cân bằng giới tính nam-nữ

15
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
II. Giải pháp khắc phục hạn chế bất bình đẳng giới.
Chính phủ cần sớm nghiên cứu, ban hành chiến lược, chính sách và mục tiêu quốc gia
về bình đẳng giới. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các văn bản quy phạm pháp luật
không phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng giới. Chính phủ quan tâm chỉ đạo các bộ,
ngành, cơ quan soạn thảo thực hiện nghiêm túc việc phân tích giới, báo cáo đánh giá tác
động của văn bản quy phạm pháp luật đối với nam và nữ trong quá trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật.
Cần sớm tiến hành việc phân bổ kinh phí cho các hoạt động về bình đẳng giới. Tiếp
tục tiến hành lồng ghép giới, đánh giá tác động giới trong các chính sách, chương trình, đề
án về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong
quá trình tổ chức thực hiện. Sớm xây dựng và ban hành bộ chỉ số bình đẳng giới trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội để tiến hành thống kê, theo dõi hàng năm nhằm đánh giá sát
thực trạng bình đẳng giới, tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách, pháp luật.
Để phụ nữ có quyền bình đẳng hơn, cần chú trọng các giải pháp như tạo thêm việc
làm có thu nhập cho phụ nữ, đảm bảo di cư an toàn và đầu tư vào y tế, giáo dục chất lượng
cao.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền về giới tính, nhằm nâng cao nhận thức cho các
tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên hình thức tuyên truyền cần phải thiết thực, phù hợp, nội dung
phong phú, hấp dẫn nhằm thay đổi hành vi của người dân.
Với vai trò là người bà, người mẹ, người vợ, người chị, người em gái trong gia đình,
phụ nữ cần tạo điều kiện cho các thành viên nâng cao nhận thức, hiểu biết và tham gia các
họat động về bình đẳng giới; phân công hợp lý, hướng dẫn và động viên các thành viên
nam trong gia đình chia sẻ công việc gia đình; đối xử công bằng đối với các thành viên
nam, nữ.
Với vai trò là công dân, phụ nữ và hội viên phụ nữ cần xóa bỏ tâm lý tự ti, an phận,
cam chịu và định kiến giới; có ý chí tự cường, tự lập, tự nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, kỹ thuật, nâng cao nhận thức, hiểu biết về bình đẳng giới; tích cực tham gia các họat
động vì bình đẳng giới của các cấp Hội phụ nữ, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ và các cơ quan,
tổ chức, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hướng dẫn thực hiện những hành vi đúng về
bình đẳng giới; lên án, ngăn chặn những hành vi phân biệt đối xử về giới; giám sát việc
thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cộng đồng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.

16
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
Nhiều trẻ em gái và phụ nữ cảm thấy nâng cao được tính tự trọng và có thêm sự lựa
chọn trong cuộc sống nếu họ làm ra thu nhập từ công việc làm của họ. Vì thế nếu đầu tư
sớm cho các em gái được ăn học, các em sẽ được giải phóng và tự giải phóng.
III. Giải pháp hạn chế bất bình đẳng giới trong vùng dân tộc thiểu số, miền núi
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác bình đẳng giới và công tác cán
bộ nữ còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt còn khiêm tốn. Ở một
số tỉnh cán bộ, công chức nữ chiếm tỷ lệ trên 50%, nhưng tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo
cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016 (Phó Giám đốc sở, ngành và tương đương trở lên) còn chưa
tương xứng với lực lượng cán bộ công chức nữ, như: Lai Châu: 25,94%; Lào Cai: 23,26%,
Hòa Bình: 39,83%, Điện Biên: 28,05%. Trong lao động, việc làm thì phụ nữ dân tộc thiểu
số có thời gian làm việc nhiều hơn nam giới, ngoài lao động kiếm sống hàng ngày, còn phải
làm việc nhà và chăm sóc con cái. Mặc dù pháp luật quy định trong gia đình vợ chồng đều
bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng
chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới
vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện
ngoài cộng đồng. Vì vậy, phụ nữ dân tộc thiểu số ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ,
nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ,
phụ nữ không chỉ gánh vác mọi công việc, chăm sóc con cái, mà đồng thời còn là lao động
chính trong gia đình.

Hình 8. Phụ nữ vùng nuối phải làm việc cực khổ

17
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
Thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số cũng còn những tồn.
Các nhóm dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không những bị tách biệt về
không gian địa lý, mà còn bị tách biệt về không gian xã hội. Chính sự tách biệt này đã và
đang ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với những thay đổi không lường trước trong môi
trường sống của họ. Điều đó cho thấy, có rất nhiều đặc điểm chung trong bất bình đẳng giới
nói chung và bất bình đẳng giới trong các nhóm dân tộc thiểu số nói riêng.
Một số giải pháp đối với thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số:
✓ Thứ nhất, trong công tác giáo dục, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ DTTS là
ưu tiên hàng đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực,
kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với những
nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để các em có thể theo
đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ
phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ DTTS
để có thể đưa ra những giải pháp xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ
DTTS trong việc tiếp cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên
cứu tổng thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những
khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ DTTS, tăng
cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, những
hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... Đây là những vấn đề hết sức cấp
thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu
hiện nay.
✓ Thứ hai, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng cho
phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch hoá gia đình,
kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng hình tượng
người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế “có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối
sống văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc”.
✓ Thứ ba, hiện nay lao động nữ thanh niên DTTS vẫn bị tụt hậu so với mặt bằng
chung của xã hội do rào cản ngôn ngữ và hạn chế về trình độ học vấn. Các lớp đào tạo dạy
nghề cho phụ nữ DTTS cần quan tâm đến những đặc thù này và khả năng tham gia vào thị
trường lao động cụ thể. Trong công tác đào tạo nghề thì cần có sự hài hòa về vai trò sản
xuất và tái sản xuất của người phụ nữ.

18
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC
✓ Thứ tư, cần tiếp tục đầu tư và củng cố cơ sở hạ tầng ở một số vùng sâu vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục
và y tế. Đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện cho
phụ nữ và nam giới vùng DTTS có việc làm tại chỗ, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình
không phải đi làm ăn xa, có điều kiện chia sẻ lẫn nhau trong thực hiện vai trò sản xuất, sinh
sản nuôi dưỡng, cộng đồng.

B ình đẳng giới trở thành mục tiêu


phát triển của Việt Nam nói riêng,
của cộng đồng quốc tế nói chung.
Đ ể đạt được mục tiêu này cần sự
vào cuộc của chính quyền, sự
tham gia của toàn dân

Những người phụ nữ vĩ đại của lịch sử Việt Nam

Nguyễn Thị Minh Khai ......................................................................... 1910-1941


Nguyễn Thị Suốt ................................................................................... 1908-1968
Nguyễn Thị Thứ .................................................................................... 1904-2010
Võ Thị Sáu ............................................................................................ 1933-1952

Bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu đã khẳng định trong
các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trong Hiến pháp và đã được thể chế hóa trong
hầu hết các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình
đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bình đẳng giới
có mối quan hệ mật thiết với nạn đói nghèo và không chỉ riêng vấn đề đói nghèo của phụ
nữ. Bất bình đẳng vừa là nguyên nhân của tình trạng đói nghèo, lạc hậu, vừa là rào cản
chính đối với phát triển bền vững, và cuối cùng gây tác động tiêu cực tới mọi thành viên
trong xã hội và các thiệt hại khác. Xã hội có mức bình đẳng giới càng cao thì thành quả
tăng trưởng kinh tế càng phục vụ tốt cho công tác giảm nghèo vì xã hội đó cớ sự công bằng
ai cũng có quyền và cơ hội để phát triển và hưởng thụ sự phát triển của xã hội. Vì thế bình
đẳng giới có vai trò rất quan trọng để phát triển bền khi nghiên cứu “Thực trạng bất bình
đẳng giới ở Việt Nam trong thời gian từ 2005 đến 2010” tôi muốn nêu lên được thực trạng
bất bình đẳng giới từ đó muốn mọi người có cách nhìn đúng đắn về quyền bình đẳng và
bảo vệ quyền đó của phụ nữ, cũng như mỗi chúng ta sẽ xóa bớt khoảng cách bất bình đẳng
giới vì một xã hội phát triển hơn.

19
Nguyễn Hoàng Vũ_2121006667 Tiểu luận THĐC

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Tài liệu tươi. (2020). Tiểu luận Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
https://tailieutuoi.com/tai-lieu/bai-tieu-luan-thuc-trang-bat-binh-dang-gioi-o-viet-nam
2. Ngô Thắng Lợi. (2013). Giáo trình kinh tế phát triển
3. Công tác cán bộ nữ. (2020). Một số giải pháp thực hiện bình đẳng giới trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay.
https://www.moha.gov.vn/congtaccanbonu/binhdanggioi/mot-so-giai-phap-thuc-hien-
binh-dang-gioi-trong-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-hien-nay-41719.html
4. Tạp chí Cộng sản. (2009). Thực trạng dân số Việt Nam 2008.
https://tapchicongsan.org.vn/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/9347/thuc-trang-
dan-so-viet-nam-nam-2008.aspx

You might also like