You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM

KHOA: LUẬT QUỐC TẾ


LỚP: 128- QT46A1
—--------------------

MÔN: LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM


BUỔI THẢO LUẬN LẦN 1
—--------------------------
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 05

ST TÊN MSSV
T
1 Nguyễn Hoàng Thảo Băng 2153801015024
2 Đoàn Thị Kim Chi 2153801015033
3 Nguyễn Cẩm Chi 2153801015034
4 Hoàng Thị Thanh Chúc 2153801015035
5 Lê Thị Kiều Duyên 2153801015048
6 Nguyễn Kiều Giang 2153801015058
7 Lê Thị Mỹ Hạnh 2153801015068
8 Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 2153801015069
9 Trần Thị Hà Lam 2153801015123
MỤC LỤC
PHẦN I. NHẬN ĐỊNH...........................................................................................................3
Câu 1: Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật không gây ra
hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).............................3
Câu 5: Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên.
..................................................................................................................................................3
Câu 7: Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới
đẻ (Điều 124 BLHS)................................................................................................................3
Câu 8: Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124
BLHS)......................................................................................................................................4
Câu 9: Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu
thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS)............4
Câu 10: Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho
phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công
vụ (Điều 127 BLHS)................................................................................................................4
PHẦN II. BÀI TẬP................................................................................................................5
Bài tập 2..................................................................................................................................5
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?.......................................5
Bài tập 5..................................................................................................................................6
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?.......................................6
Bài tập 7..................................................................................................................................7
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?.......................................7

2
PHẦN I. NHẬN ĐỊNH

Câu 1: Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật
không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123
BLHS).
Nhận định sai.
Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật là lỗi cố ý trực
tiếp. Lỗi cố ý giết người thì hậu quả chết người chỉ có ý nghĩa để xác định thời điểm tội
phạm hoàn thành. Nếu không có hậu quả chết người thì vẫn phạm tội giết người ở giai đoạn
chưa đạt hoặc chưa hoàn thành.

Câu 5: Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết
trở lên.
Nhận định sai.
Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123, tình tiết “giết 02 người trở lên” là
một trong những tình tiết định khung tăng nặng của Tội giết người. Có hai trường hợp xảy
ra:
- Trường hợp 1: Giết 2 người trở lên và là lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp này không
đòi hỏi hậu quả là hai người chết trở lên, dấu hiệu hậu quả có ý nghĩa xác định thời điểm
tội phạm hoàn thành, nghĩa là cho dù hậu quả đó không xảy ra mà chỉ cần có ý định phạm
tội giết 2 người trở lên và đã thực hiện hành vi thì đã phạm tội giết người với tình tiết giết
2 người trở lên.
- Trường hợp 2: Giết 2 người trở lên và là lỗi cố ý gián tiếp. Trong trường hợp này thì dấu
hiệu hậu quả có ý nghĩa để xác định tội danh, bắt buộc phải có hậu quả là 2 người chết trở
lên.
Như vậy, đối với lỗi cố ý gián tiếp thì đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên để
xác định tội danh, còn đối với lỗi cố ý trực tiếp thì không cần bởi khi có ý định phạm tội
giết 2 người trở lên và đã thực hiện hành vi thì đã phạm tội giết người với tình tiết giết 2
người trở lên ở giai đoạn chưa đạt.
Câu 7: Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết
con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
Nhận định sai.
Đối với tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 124 BLHS, chủ thể thực hiện hành vi
phải chính là người mẹ của đứa trẻ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt thì mới cấu thành tội này. Còn nếu chủ thể thực hiện tội này

3
là cá nhân khác hoặc người mẹ không vì lý do nêu trên thì sẽ không cấu thành tội giết con
mới đẻ.
Cấu thành tội phạm:
- Chung: MQH: 123
- Riêng: 124

Hành vi giết con mới đẻ  giống tội giết người


Hậu quả: phải xét tới hậu quả
Vứt bỏ con mới đẻ: lỗi cố ý gián tiếp, phải có hậu quả đứa trẻ chết
Giết con mới đẻ
Ý 1: Dựa vào khoản 1 Điều 124  do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt
Ý 2: Cho ví dụ: trường hợp người bố giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi  không
thỏa mãn về chủ thể  được xem là tội giết người quy định tại Điều 123
Không thỏa mãn dấu hiệu hoàn cảnh  giết người ( 123)
Vứt bỏ con mới đẻ: Khoản 2 Điều 124  xác định tội phạm
Câu 8: Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của tội vứt bỏ con mới đẻ
(Điều 124 BLHS).
Nhận định đúng.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 124 BLHS, người mẹ khi vứt bỏ con mới đẻ có thể
nhận thức được con của mình có thể chết nhưng vẫn vứt bỏ, để mặc hậu quả xảy ra, hành vi
vứt bỏ con mới đẻ này là hành vi phạm tội ở lỗi gián tiếp nên hậu quả nạn nhân chết là dấu
hiệu định tội danh.

Câu 9: Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều
125 BLHS).
Nhận định sai.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 125 BLHS thì trường hợp giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh mà nguyên nhân đưa đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
không phải do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thực hiện đối với chính
người phạm tội hoặc thân thích của họ thì không được xem là Tội giết người trong trạng thái
bị kích động mạnh theo Điều 125 BLHS.
Giết người trong trạng thái kích động mạnh khi nào thì cấu thành dd125: nguyên nhân
của sự kích động là hành vi trái pl của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân
thích của người phạm tội

4
Không điều 125: kích động mạnh nhưng sai đối tượng  quy về cấu thành chung tại điều
123

Câu 10: Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp
luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
Nhận định sai.
Trong trường hợp đang thi hành công vụ, người thi hành công vụ có thái độ coi thường
sức khỏe, tính mạng của người khác mà sử dụng vũ khí cẩu thả hoặc do tư thù cá nhân thì sẽ
bị cấu thành tội phạm giết người theo Điều 123 BLHS 2015 chứ không áp dụng Điều 127
cấu thành tội làm chết người khi thi hành công vụ.
Ngoài ra, trong trường hợp người đang thi hành công vụ có hành vi làm chết người
nhưng người đó không liên quan trực tiếp đến công vụ của họ thì không phạm tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ tại Điều 127 mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội giết người.
Đối tượng tác động 127: 2 loại:
- Đang bị người đang thi hành cv truy bắt:
- Người dân bình thường vô ý bị xâm hại

Nghị quyết 04/1986: áp dụng tinh thần của nghị quyết này
Nhưng tư thù cá nhân, hống hách, coi thường tính mạng của người khác: Quy về cấu thành
chung 123
PHẦN II. BÀI TẬP
Tên tội danh và điều luật cần áp dụng:
VD: Điều 123 BLHS  ĐÚNG LÀ ĐƯỢC NỬA SỐ ĐIỂM
GIẢI THÍCH: NỬA SỐ ĐIỂM
GIẢI THÍCH:
Tập trung vào 4 yếu tố:
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm
+ Đối tượng tác động
- Khách quan: hành vi ( Tùy từng tội danh)
- Lỗi ( Tùy từng trường hợp xác định động cơ, mục đích)
- Chủ thể: cá nhân và pháp nhân
+ Cá nhân: ct thường và ct đặc biệt
 CT thường: đủ tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự
 CT đặc biệt: VD: giết con mới đẻ  nêu ra dấu hiệu chủ thể đặc biệt

5
Chứng minh từng yếu tố ( tùy trường hợp có những yếu tố khác)
Dựa vào tình tiết lập luận nào để định tội

Bài tập 2
A làm rẫy trồng măng tre cho anh ruột là N và sinh sống tại đây. Trong quá trình sinh
sống, A mâu thuẫn với ông C về việc ông C nuôi heo xả nước thải gây hôi thối. A và ông C
đã nhiều lần tranh cãi với nhau nhưng không giải quyết được. Khoảng 19 giờ ngày
07/01/2022 sau khi đi uống bia về thì ngửi thấy mùi hôi thối do nước thải từ trại nuôi heo
của ông C. A bực tức nảy sinh ý định đánh ông C nên lấy 01 (một) dao tự chế kích thước dài
89 cm, cán tròn hình trụ đường kính 3,8 cm, lưỡi dài 20 cm bề rộng nhất 9,7 cm, dùng để
xắn măng tre và sử dụng xe mô tô đi sang trại heo của ông C (cách chỗ ở của A khoảng 200
mét). Khi sang đến trại heo, A thấy ông C đang cởi trần đứng tại khu vực nhà tắm cạnh trại
heo. A dùng hai tay cầm dao tự chế xông tới để chém ông C. Thấy vậy ông C bỏ chạy về
phía ao rau muống gần đô thị A đuổi theo kịp, A dùng hai tay cầm dao chém liên tiếp 03
(ba) cái theo hướng từ trên xuống, từ trái qua phải vào vùng ngực phải - bụng trái, hông,
đầu — vai bên trái của ông C. Sau khi chém ông C. A đến Công an xã đầu thú. Quá trình
điều tra, A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Giấy chứng nhận thương tích, Bệnh viện đa khoa tỉnh T đối với ông C chuẩn đoán
như sau: Vết thương thấu ngực bụng đứt xương ức, sụn sườn 5-10 bên trái + thủng màng
tim, rách chân cơ hoành trái + rách gan hạ phân thùy II trái/bị chém.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích, Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với
ông C kết luận như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương thấu ngực bụng (24 x 0,3) cm, đứt xương ức,
đứt sụn sườn 5, 6, 7, 8, 9, 10, thủng màng tim, rách chân cơ hoàng trái, rách gan hạ phân
thùy II trái, đã phẫu thuật khâu cơ hoành, khâu sụn sườn, vết mổ đường giữa bụng trên dưới
rốn (15 x 0,2) cm, vết mổ dẫn lưu vùng bụng phải (1 x 0,3) cm, sẹo lành.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 59% (năm mươi chín phần
trăm).
3. Cơ chế hình thành vết thương: Vết thương thấu ngực bụng (24 x 0,3) cm, đứt xương ức,
đứt sụn sườn 5, 6, 7, 8, 9, 10, thủng màng tim, rách chân cơ hoàng trái, rách gan hạ phân
thùy II trái: Chiều từ trên xuống chếch từ phải qua trái, hướng từ trước ra sau, bờ sắc gọn,
khả năng do vật sắc gây ra.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?

6
Trả lời

Hành vi của A là hành vi phạm Tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134
BLHS 2015, bởi:
- Về mặt khách thể: Hành vi của A đã xâm phạm đến sức khỏe, gây thương tích cho ông C.
Đối tượng tác động trong trường hợp này là ông C.
- Về mặt khách quan: A bực tức nảy sinh ý định đánh ông C cho nên đã dùng 01 dao tự chế
kích thước dài 89cm, cán tròn hình trụ đường kính 3,8cm, lưỡi dài 20 cm, bề rộng nhất
9,7cm dùng để xắn măng tre và sang nhà ông C bằng mô tô. Khi thấy ông C, A dùng hai
tay cầm dao tự chế xông tới để chém ông C. Thấy vậy ông C bỏ chạy về phía ao rau
muống gần đô thị A đuổi theo kịp, A dùng hai tay cầm dao chém liên tiếp 03 cái theo
hướng từ trên xuống, từ trái qua phải vào vùng ngực phải, bụng trái, hông, đầu - vai bên
trái của ông C. Trường hợp này, A đã thực hiện hành vi trái pháp luật là gây thương tích
cho ông C ( tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 59%). Đây là hành vi nguy
hiểm, phù hợp với hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người khác. Và hậu quả mà A gây ra là ông C đã bị thương.
- Về mặt chủ thể: Trong trường hợp trên, A đã đủ điều kiện để thỏa mãn về chủ thể của tội
danh này. Căn cứ theo quy định tại Điều 13 BLHS 2015, trong trường hợp mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do uống rượu, bia thì A vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với tội mà mình đã gây ra.
- Về mặt chủ quan: Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. A đang trong tình trạng mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do uống rượu, bia. Khi ông C thấy
A và bỏ chạy, A vẫn cố gắng đuổi theo để chém ông C, vì vậy dựa trên phương diện
quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội “mong muốn hậu quả đó xảy
ra” thì đây là hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

Điều 123: bất kì hành vi nào dẫn đến cái chết cho nạn nhân
Hành vi cố ý gây thương tích: bất kì hành vi nào mà khi thực hiện có khả năng gây ra tổn
thương nhất định cho nạn nhân.
Hành vi cố ý tấn công: hung khí, hung khí nguy hiểm, vị trí tấn công ( vị trí trọng yếu 
dễ gây ra cái chết cho nạn nhân)
Dựa vào hung khí, vị trí tấn công  xác định hành vi của tội cố ý gây thương tích
Nghị quyết 04/2019
Bụng  1 nhát đều là giết người ( án lệ 47)
Chết hay không đều là tội giết người
 Hành vi này là hành vi giết người ( chém vào bụng)

7
 Đây là cấu hành phạm tội chưa đạt  A sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công
vào vị trí trọng yếu ( bụng trái, đầu, ngực), mức độ tấn công quyết liệt  hành vi
này có khả năng thực tế làm C chết
 Dấu hiệu định tội: lỗi ( động cơ không phải dấu hiệu định tội  dùng dao tấn
công vị trí trọng yếu  A có thể thấy được hậu quả xảy ra  A có ý chí muốn C
chết
 A đủ tuổi và có năng lực hành vi hình sự

Bài tập 5
A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia đình ép gả nên
phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B. Biết vậy, nên
gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh. A nghe lời đem vợ. lên
sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn lén lút quan hệ với C bằng cách viện lý do đi khám bệnh
và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực chất là 2 người hẹn hò nhau tại một
khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết được nên đã báo cho A biết mối quan hệ giữa B
và C, đồng thời cho A biết số xe Honda của C. Một hôm, vì mất điện nên A về nhà sớm hơn
thường lệ thì thấy B chuẩn bị quần áo nói là đi chữa bệnh tại bệnh viện. A không tin nên
chạy nhanh ra đường cái, cách nhà khoảng 200m thì thấy một thanh niên đang ngồi trên một
chiếc xe Honda có biển số như gia đình B đã báo trước. Quá tức giận, A nhặt một khúc gỗ
bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm, phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên
xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên
đường cấp cứu tới bệnh viện. Khi kiểm tra căn cước của người bị hại thì mới xác định được
nạn nhân không phải là C mà chính là bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh nhầm
người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?
Trả lời

8
Trường hợp giết người trong trạng thái bị kích động mạnh nhưng không bị tác động tại điều
125  xét 123
A có hành vi giết nạn nhân: hung khí nguy hiểm ( khúc gỗ) tấn công vào vị trí trọng yếu
( đầu), mức độ tấn công: nhiều nhác  thực tế có thể gây ra cái chết cho nạn nhân
Hành vi của A phạm Tội giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015
bởi:
- Về mặt khách thể: Hành vi của A đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người bạn
anh C. Đối tượng tác động trong trường hợp trên là bạn anh C
- Về mặt khách quan: Anh A có hành vi nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài
60cm, phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực
mạnh. Trong trường hợp này, A đã thực hiện hành vi trái pháp luật tước đoạt tính mạng
của anh thanh niên (bạn của C), đây là hành vi nguy hiểm và phù hợp với hành vi khách
quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Hậu
quả của hành vi của anh A là khiến cho anh thanh niên bị chết.
- Về mặt chủ thể: Trong trường hợp này A đã thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh
này là chủ thể thường. Giả sử A đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực
trách nhiệm hình sự
- Về mặt chủ quan: Lỗi của anh A trong trường hợp trên là lỗi cố ý trực tiếp. Do anh A
nhận thức được hành vi nguy hiểm của mình là gây thiệt hại đến tính mạng của anh thanh
niên, đồng thời thấy trước hậu quả là nạn nhân có thể sẽ chết nếu hành vi của A được
thực hiện, và có mong muốn cho hậu quả xảy ra là nạn nhân chết.

Bài tập 7
Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và cậu con trai
tên là H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hai con trai tên là B và C. Ban ngày các con
đều đi làm nên ông A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một thời gian, ông A mang gạo
góp với bà K nấu cơm chung. B và C không đồng ý vị cho là cha mình bị bà K dụ dỗ, đem
tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan hệ với bà K nhưng ông A không nghe
và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là sự bất công trong gia đình mình là do bà K
gây ra nên quyết định gây án.
Vào 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà K. B và
C châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và H chạy ra đến
cửa thì thấy B đang quơ đuốc xông tới, C cầm dao lao vào tấn công H. H xông tới C, giành
được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đỏ, B dùng đuốc xông tới gần H, H
nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ, đồng thời H quay sang đối phó với
B thì bà con vừa kịp đến.

9
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?
Trả lời
Hành vi của H là hành vi giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thuộc
một trong những trường hợp được quy định tại Điều 22, 126 BLHS 2015.
Trong tình huống này, B và C đã cố ý xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe của bà K và
H bằng cách đốt nhà và chặn cửa để đón đầu mẹ con bà K nhằm tước đoạt mạng sống của
họ. Nhà bị cháy, mẹ con bà K chỉ còn một đường thoát thân đó là chạy ra cửa, nhưng khi
đến cửa thì có B và C đang chặn cửa, đón đầu để tấn công, ngay thời điểm đó đã làm khởi
phát quyền phòng vệ chính đáng của bà K và H. Vì hành vi của B và C là hành vi đang hiện
hữu, đang trực tiếp xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của mẹ con bà K. Khi H giành được
con dao, H đã chém vào tay C, mục đích nhằm hạn chế sự tấn công từ phía C để tiếp tục đối
phó với B đang cầm đuốc xông tới. Tuy nhiên H lại tiếp tục dùng dao chém vào đầu C khiến
C chết, đây là hành vi chống trả quá mức cần thiết vì lúc này C đã bị thương và không giữ
vũ khí.
Cho nên hành vi giết C của H là hành vi giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng được quy định tại Điều 126 BLHS 2015.
- Về mặt khách thể: Hành vi chống trả quá mức cần thiết của H đã xâm phạm tới tính mạng
của C.
- Về mặt khách quan: 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà
bà K. B và C châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. C cầm dao
lao vào tấn công H. H xông tới C, giành được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay C, H
nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ.
- Về chủ thể: Giả sử H đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm
hình sự  H thỏa mãn về điều kiện chủ thể
- Về mặt chủ quan: hành vi phòng vệ trước sự tấn công nguy hiểm từ phía C của H đã vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng và gây ra cái chết cho C. Thay vì có thể dùng dao làm
tổn thương ở một số vùng không trọng yếu nhằm giảm thiểu sức tấn công của C để chạy
thoát thì H lại chọn cách tấn công trực tiếp vào đầu (vùng trọng yếu) và gây ra cái chết
cho C.

10

You might also like