You are on page 1of 74

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM


KHOA QUẢN TRỊ

BÀI THẢO LUẬN LẦN 2


MÔN LUẬT HÌNH SỰ (phần Các tội phạm)

Gv hướng dẫn: HS - TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng


Thực hiện: Nhóm 5_Lớp CLCQTL46(A)

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 2 NĂM 2023

1
Danh sách thành viên nhóm 5

STT Họ tên MSSV

1 Nguyễn Ngọc Đan Thanh 2153401020228

(Nhóm trưởng)

2 Ngô Quí Đăng 2153401020045

3 Trương Diệu Hà 2153401020077

4 Đinh Thị Hồng Minh 2153401020154

5 Nguyễn Thuỷ Hà My 2153401020160

6 Đỗ Trần Phương Nghi 2153401020169

7 Hoàng Minh Nhật 2153401020189

8 Nguyễn Thị Yến Nhi 2153401020194

9 Dương Đình Hạ Uyên 2153401020296

10 Lê Hồng Anh 2153401020326

2
MỤC LỤC

MỤC LỤC 3
I. NHẬN ĐỊNH 5
II. BÀI TẬP 26
Bài tập 1 26
Bài tập 2 26
Bài tập 3 27
Bài tập 4 27
Bài tập 5 28
Bài tập 6 29
Bài tập 7 29
Bài tập 8 30
Bài tập 9 31
Bài tập 10 31
Bài tập 11 32
Bài tập 12 32
Bài tập 13 33
Bài tập 14 33
Bài tập 15 34
Bài tập 16 35
Bài tập 17 36
Bài tập 18 37
Bài tập 19 38
Bài tập 20 39
Bài tập 21 40

3
Bài tập 23 43
Bài tập 24 44
Bài tập 25 45
Bài tập 26 46
Bài tập 27 47
Bài tập 28 49
Bài tập 29 50
Bài tập 30 51
Bài tập 31 54
Bài tập 32 57
Bài tập 33 58
Bài tập 34 59
Bài tập 35 59
Bài tập 36 62
Bài tập 37 63
Bài tập 38 64

4
I. NHẬN ĐỊNH

1) Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây
hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS)

SAI

Cspl: Điều 123 BLHS 2015 (Tham khảo NQ 04/1986 - nhưng không trích dẫn)

Tội giết người có 2 mô hình khác nhau (khác ở mặt CQ) <đọc gitr tr 55>

● Lỗi cố ý trực tiếp → hậu quả có ý nghĩa xác định tph hoàn thành.

Cho dù hậu quả chưa xảy ra do nguyên nhân KQ thì vẫn định tội danh giết người
nhưng ở giai đoạn chưa đạt.

● Lỗi cố ý gián tiếp → hậu quả có ý nghĩa định tội.

2) Động cơ đê hèn là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 BLHS)

* lập luận theo 2 vế:

+ dấu hiệu định tội của Tội giết người là gì và nằm ở đâu.

+ “động cơ đê hèn” ko phải dấu hiệu định tội mà là dấu hiệu định khung.

SAI

Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu được quy định trong CTTP cơ bản của tội
danh.

● Dấu hiệu định tội của Tội giết người quy định tại kh2 Điều 123 BLHS, gồm:

Mặt KQ: lỗi cố ý

đg cơ, mục đích ko phải dấu hiệu định tội của Tội giết người

→ “Động cơ đê hèn” không phải dấu hiệu định tội

● “Động cơ đê hèn” được quy định tại điểm q khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 –
mà kh1 là CTTP tăng nặng

5
🡪 Đây là tình tiết định khung tăng nặng chứ không phải dấu hiệu định tội.

3) Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết người
theo Điều 123 BLHS

SAI.

- Hành vi cố ý tước bỏ tính mạng người khác có thể cấu thành các tội danh từ Điều
123 → 126 BLHS 2015.

- Ngoài ra, nếu hành vi này xâm phạm khách thể trực tiếp khác, không phải xâm
phạm quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng con người thì phải định tội danh
tương ứng với khách thể trực tiếp đó.

vd: khách thể là an ninh quốc gia → Điều 113

an toàn công cộng → Điều 299

4) “Giết phụ nữ mà biết là có thai” là trường hợp giết 2 người trở lên

SAI

Theo PLHS VN, thai nhi chưa đc xem là một con người, một cá nhân độc lập.

(cá nhân độc lập là một con người đang sống – thực thể tự nhiên, được tính từ lúc họ
được sinh ra và tồn tại độc lập với người mẹ)

→ “Giết phụ nữ mà biết là có thai” chỉ thuộc trường hợp giết một người (giết 2
người trở lên là phải giết 2 người độc lập).

Vì vậy, LHS quy định “Giết phụ nữ mà biết là có thai” và “Giết 2 người trở lên” là
2 tình tiết định khung tăng nặng độc lập tại điểm a và điểm c kh1 Điều 123 BLHS
2015

5) Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi phải có hậu quả 2 người chết trở lên

SAI

Căn cứ vào thái độ tâm lý, ý thức CQ của người phạm tội (lỗi)
● lỗi cố ý trực tiếp → ko phụ thuộc hậu quả có người chết hay không

6
nếu có người chưa chết → phạm tội chưa đạt.
● lỗi cố ý gián tiếp → phải có hậu quả từ 2 người chết trở lên.

6) Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý làm chết
người (Điều 128 BLHS)

SAI

Căn cứ lỗi:

● Lỗi cố ý gián tiếp (thái độ bỏ mặc, bất chấp hậu quả xảy ra, ko có biện pháp
ngăn ngừa cụ thể) → Tội giết người (Điều 123)
● Lỗi vô ý → Tội vô ý làm chết người (Điều 128)

7) Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con
mới đẻ (Điều 124 BLHS)

SAI

Ngoài 2 dấu hiệu về hành vi KQ thuộc mặt KQ (giết con mới đẻ) và ĐTTĐ thuộc
khách thể (trẻ mới sinh trong vòng 7 ngày tuổi), còn phải thỏa mãn thêm 2 dấu hiệu
pháp lý:

● Mặt CQ:

Lỗi cố ý
·
· Động cơ là do ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh
KQ đặc biệt.
● Chủ thể: người mẹ sinh đứa trẻ

Nếu không thỏa mãn đủ các dấu hiệu trên có thể cấu thành Tội giết người (Điều
123)

8) Mọi trường hợp giết người trong trạng thái bị kích động mạnh đều cấu thành Tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS)

SAI

7
● Chỉ khi hành vi giết người khi tinh thần kích động mạnh đi kèm với những
dấu hiệu pháp lý riêng sau thì mới được cấu thành Tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh:

+ Hành vi giết người PHẢI được thực hiện khi tinh thần gần như không tự chủ
được hay nói cách khác là khi không còn tự chủ được hành vi của mình dẫn đến
thực hiện hành vi một cách quyết liệt.

+ Nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội
là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc
người thân thích của họ.

→ Phải có đủ 2 điều kiện trên cùng hậu quả BẮT BUỘC là nạn nhân chết thì mới
cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125).
Còn nếu không hội đủ các điều kiện thì có thể cấu thành Tội giết người (Điều 123).

● Ngoài ra, nếu hành vi giết người khi tinh thần kích động mạnh mà đủ dấu
hiệu cấu thành cả 2 tội danh tại Điều 125 và 126 → ưu tiên định tội danh Điều
126 (vì có tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn Điều 125) <gitr tr 67>

Khi quyết định HP cho Điều 126, phải đồng thời áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm
tội trg trạng thái tinh thần kích động mạnh” (điểm e kh1 Điều 51).

9) Mọi trường hợp làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp
luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ (Điều 127)

SAI

Trong các dấu hiệu định tội, động cơ vì thi hành công vụ là dấu hiệu bắt buộc.

Nếu người phạm tội thực hiện hành vi do tư thù cá nhân hoặc do hống hách, coi
thường tính mạng, sức khỏe người khác thì không thể áp dụng Điều 127 do không
thỏa mãn dấu hiệu về động cơ mà sẽ cấu thành các tội phạm khác tùy vào yếu tố lỗi:

● Lỗi cố ý → Tội giết người (Điều 123 BLHS).


● Lỗi vô ý

10) Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
đều cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (Điều 129)

ĐÚNG

8
Trong một số lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù, hành vi vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp không còn xâm phạm khách thể trực tiếp là quyền đc tôn
trọng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, mà đã xâm phạm khách thể trực tiếp khác như
an toàn công cộng.

→ Trong những trường hợp này, hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp trở thành hành vi KQ của tội phạm khác như tội phạm trong lao động
sx (Điều 195); trong lĩnh vực y tế (Điều 315)...

11) Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130)

SAI

Cơ sở pháp lý: Điều 130 BLHS 2015 và Công văn số 04/1986

Hậu quả nạn nhân tử vong không phải là dấu hiệu định tội của Tội bức tử. Các dấu hiệu
định tội của Tội bức tử bao gồm:

● Giữa nạn nhân và người phạm tội có quan hệ lệ thuộc (quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng, quan hệ công tác, thầy trò, hoặc quan hệ tôn giáo, tín
ngưỡng…).
● Mặt chủ quan: do lỗi cố ý.
● Mặt khách quan: có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, làm
nhục. Chỉ cần nạn nhân tự sát do các hành vi của người phạm tội, hậu quả nạn
nhân tử vong là không bắt buộc để cấu thành Tội bức tử.

12) Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của
chính họ thì cấu thành Tội bức tử (Điều 130 BLHS)

SAI

Cspl: Đ130,131

HV thường xuyên ức hiếp, kích động, dụ dỗ là hành vi khách quan của tội xúi giục ng
khác tự sát

Hành vi đối xử, tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc
mình mới là hành vi cấu thành tội thuộc Điều 130 BLHS. Và những hành vi này cần xuất
phát từ người phạm tội có mối quan hệ lệ thuộc với nạn nhân.

9
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hàng
vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 131, Điều 123-126 BLHS 2015.
Giúp người khác tự sát là hành vi tạo ra những Điều kiện vật chất hoặc tinh thần để người
khác sử dụng các Điều kiện đó để tự sát.
Hành vi khách quan của Tội giúp người khác tự sát là hành vi tạo ra những Điều kiện vật
chất hoặc tinh thần để người khác tự sát như cung cấp thuốc độc để nạn nhân tự đầu độc
hoặc chỉ dẫn cách tự sát. Hành vi khách quan này chỉ đóng vai trò là Điều kiện để nạn
nhân sử dụng các Điều kiện đó mà tự sát. Chủ thể tội phạm không trực tiếp tước đi tính
mạng của nạn nhân. Nếu hành vi trợ giúp lại có tính quyết định cái chết của nạn nhân thì
người đó không phạm tội giúp người khác tự sát mà phạm tội giết người
Như vậy, hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác mang tính quyết định đến cái
chết của nạn nhân, do đó dù có theo yêu cầu của người bị hại hay không đều là hành vi
khách quan của tội giết người, tức là tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật
do VN không cho phép thực hiện cái chết nhân đạo. Do đó, cố ý tước đoạt tính mạng của
người khác theo yêu cầu của người bị hại không là hành vi cấu thành tội giúp người khác
tự sát.

14. Hành vi đối xử tàn ác với người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả nạn
nhân tự sát thì không cấu thành tội phạm
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 130,Điều 140, Điều 185 BLHS 2015
Hành vi đối xử tàn ác là làm cho nạn nhân đau đớn về thể xác và đè nén, áp bức về tinh
thần như: đánh đập, giam hãm không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn, uống, không cho mặc
đủ ấm,... Hành vi đối xử tàn ác với người bị lệ thuộc có thể cấu thành tội bức tử (Điều
130), tội Hành hạ người khác (Điều 140) hoặc tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con cháu (Điều 185).

10
Về hành vi khách quan của các tội này cũng tương tự như hành vi khách quan của tội bức
tử, chỉ khác nhau ở chỗ:
- Trong tội hành hạ người khác, nếu đối tượng tác động ko có quan hệ hôn nhân
huyết thống nuôi dưỡng và người bị hành hạ không tự sát thì vẫn bị cấu thành tội
hành hạ người khác.
- Đối tượng tác động trong tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con cháu, người có công nuôi dưỡng phải là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu,
người có công nuôi dưỡng và phải dẫn đến hậu quả là thường xuyên làm cho nạn
nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm. Như vậy, không cần nạn nhân có hành vi tự sát, nếu
thoả các điều kiện về đối tượng tác động và hậu quả, mối quan hệ nhân quả thì vẫn
có thể bị cấu thành tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con
cháu, người có công nuôi dưỡng.

15. Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ tổn
thương cơ thể dưới 11% thì có thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134
BLHS)
Đây là nhận định đúng.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS và điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định số
167/2013/NĐ-CP
Tham khảo thêm: tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
Dùng gạch đá tấn công (hung khí nguy hiểm) trái phép người khác là một hành động gây
nguy hiểm . Đây là trường hợp người phạm tội cố ý trong việc gây thương tích cho nạn
nhân. Đối với trường hợp được luật định thì tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% cũng đủ
cấu thành tội phạm theo điểm a khoản 1 Điều 134: “Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí
nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”. Tuy nhiên, nếu
không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi trên có thể bị xử phạt hành
chính theo điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã

11
hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình về xâm hại đến sức khỏe
của người khác

16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ gây tổn thương cơ thể
dưới 11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 134 BLHS
Đây là hành vi mà người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước được hành vi của mình có thể gây thương tích cho người khác. Để cấu
thành tội phạm thì tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% cũng đủ để cấu thành tội phạm nếu
thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS Tội cố ý gây thương
tích.

17.Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây
thương tích (Điều 134 BLHS).

=> Nhận định Đúng.

Cơ sở pháp lý: Điều 134, Điều 135, Điều 136 BLHS

Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây hại đến sức khỏe người
khác, được xác định bằng thương tích cụ thể.

Do đó hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây
thương tích mà còn còn có thể là hành vi khách quan của các Tội khác như: Tội cố ý gây
thương tích cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội
cố ý gây thương tích cho người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do
vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136)

12
18. Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô ý gây
thương tích được quy định tại Điều 138 BLHS.
Đây là nhận định đúng.
Cơ sở pháp lý: Điều 138, Điều 139 BLHS
Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hành vi
với lỗi vô ý do cẩu thả hoặc lỗi vô ý vì quá tự tin dẫn đến hậu quả là gây thương tích
người khác hoặc gây tổn hại sức khỏe.
Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ là hành vi khách quan thuộc cấu
thành của Tội vô ý gây thương tích vì hành vi vô ý gây thương tích còn có thể là hành vi
khách quan thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm khác, ví dụ như Tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139) nếu hành vi vô ý gây thương tích này là do vi
phạm các quy tắc nghề nghiệp hoặc các quy định hành chính.
Ngoài ra, để hành vi vô ý gây thương tích cấu thành tội vô ý gây thương tích thì phải thoả
mãn dấu hiệu hậu quả bắt buộc theo quy định là gây tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở
lên, nếu không thoả mãn về dấu hiệu hậu quả thì không thể cấu thành tội phạm này.

Xâm phạm các khách thể khác (lĩnh vực khác) chương khác thì phải định tội khác (vd
Đ315)

19. Mọi hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ
người khác quy định tại Điều 140 BLHS

Đây là nhận định sai.

Bổ sung 130

Cơ sở pháp lý: Điều 140, 185 BLHS 2015

Các dấu hiệu pháp lý của Tội hành hạ người khác (Điều 140 BLHS)

- Khách thể: xâm phạm đến sức khỏe người khác

13
Đối tượng tác động: người có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội

- Mặt khách quan: hành vi mang tính chất độc ác, tàn bạo như đánh đập, gây đau
khổ về thể chất nhưng chưa đến mức gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người lệ thuộc.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý

- Chủ thể: người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo quy định tại
Điều 12 BLHS 2015, và Là người mà nạn nhân lệ thuộc do các quan hệ như cộng tác,
tín ngưỡng,...

Như vậy, Đối tượng tác động của tội danh này thuộc mặt khách thể phải là người bị lệ
thuộc vào người phạm tội. Mối quan hệ lệ thuộc này có thể xuất phát từ quan hệ công tác
(vd giữa chủ và người làm công), quan hệ thầy trò, quan hệ tôn giáo…

Trường hợp Đối tượng tác động là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình (tức quan hệ hôn nhân, gia đình), nếu hội đủ các điều kiện luật định thì
có thể cấu thành tội danh tại Điều 185 BLHS 2015.

20. Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của
họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS)

Đây là nhận định sai.


Cơ sở pháp lý: Điều 141, 142 BLHS 2015
Các dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS):

- Khách thể: danh dự, nhân phẩm của con người

Đối tượng tác động: người từ đủ 16 tuổi trở lên (không phân biệt nam, nữ)

14
- Mặt khách quan: hành vi giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn
của nạn nhân.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý

- Chủ thể: người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Như vậy, Tội hiếp dâm (Điều 141) chỉ áp dụng cho Đối tượng tác động là người từ đủ 16
tuổi trở lên. Trường hợp Đối tượng tác động là nạn nhân dưới 16 tuổi thì có thể cấu thành
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 142 BLHS 2015.

21. Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải miễn
cưỡng giao cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
theo quy định tại Điều 144 BLHS
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 144, 142 BLHS 2015
Đối tượng tác động của 2 Điều 142 và 144 đều có hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi miễn cưỡng giao cấu nhưng điểm khác biệt cơ bản nhất
giữa 2 tội này là độ tuổi của nạn nhân. Trong trường hợp này, đối tượng tác động là
người dưới 16 tuổi vì thế nếu nạn nhân là người dưới 13 tuổi thì mọi hành vi giao cấu
hoặc thực hiện hành vi tình dục đều cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy
định tại Điều 142.

22. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16
tuổi (Điều 145 BLHS)

Đây là nhận định sai.


Cơ sở pháp lý: Điều 145, Điều 142 BLHS 2015

15
Hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi chỉ cấu thành Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điều
145 BLHS 2015 CHỈ KHI thỏa điều kiện chủ thể thực hiện hành vi là người đủ 18 tuổi
trở lên và đối tượng tác động là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Ngoài ra, nếu hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 13 tuổi (cũng dưới 16 tuổi) có
thể cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo điểm b khoản 1 điều 142 BLHS
2015.
Lưu ý: Người phạm tội này phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên (căn cứ theo Điều 12 Bộ
luật Hình sự).

23. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn nạn nhân.
Đây là nhận định sai.
Những trường hợp giao cấu thuận tình vẫn được xem là trái pháp luật:
Quan hệ thuận tình đối với người dưới 13 tuổi

Theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS 2015 quy định về Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi, chỉ cần điều kiện duy nhất là nạn nhân là người dưới 13 tuổi thì người đó luôn phạm
tội hiếp dâm trẻ em.

Lưu ý: Người phạm tội này phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên. Trường hợp người dưới 14
tuổi giao cấu hoặc quan hệ tình dục với người dưới 13 tuổi không bị xử lý hình sự (căn
cứ theo Điều 12 Bộ luật Hình sự).

Quan hệ thuận tình với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 145 BLHS thì hành vi khách quan của tội phạm là
“Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

16
Như vậy, mọi hành vi giao cấu giữa người đã đủ 18 tuổi và trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi thì đều phạm vào tội giao cấu trái pháp luật kể cả trường hợp giao cấu thuận tình.

Quan hệ thuận tình với người từ đủ 16 tuổi trở lên

Việc quan hệ với người từ đủ 16 tuổi tự nguyện không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội cưỡng dâm, hiếp dâm hay giao cấu với trẻ em. Tuy nhiên, trong trường hợp quan hệ
với người từ 16 tuổi trở lên theo hình thức mua bán dâm thì có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính theo điều 22, 23, 24 Nghị định 167/2013 (Điều 329)

Trường hợp chủ thể dưới 14 tuổi thì không chịu trách nhiệm hình sự

Giao cấu cùng dòng máu trực hệ, huyết thống,… -> trái PL

24. Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người
khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 141-145 BLHS
bổ sung khoản 3 đ141
Dấu hiệu định tội từ lây truyền hiv cho người khác (điều 148 BLHS)
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Chủ thể phạm tội: đây là chủ thể đặc biệt, cụ thể là người bị nhiễm HIV. Người
phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu TNHS và ĐÃ BỊ
NHIỄM HIV.
+ Lỗi: cố ý. Người phạm tội biết rõ mình đã nhiễm HIV nhưng đã cố tình lây truyền
HIV cho người khác.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: người phạm tội biết rõ mình nhiễm HIV nhưng vẫn cố ý lây
truyền HIV cho người khác.

17
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người
nhiễm HIV mà vẫn tự nguyện thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì không cấu thành
nên tội phạm này.
Kết luận, để cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác cần xem xét về ý chí,
mong muốn tự nguyện thực hiện hành vi giao cấu với người phạm tội. Chính vì vậy
không phải trong mọi trường hợp người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV mà cố
tình lây nhiễm cho người khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác
Cố ý lan truyền HIV bằng cách hiếp dâm?? -> Tội hiếp dâm với tình tiết tăng nặng, xử từ
điều 141 đến 145
Tuỳ hành vi mà xử tình tiết năng nặng

25. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 150, 151 BLHS
Dấu hiệu định tội của Tội mua bán người ( điều 150 BLHS)
- Đối tượng tác động: người từ đủ 16 tuổi không phụ thuộc giới tính
- Hành vi khách quan: hành vi mua bán người dưới nhiều hành vi khác nhau và vì
một số mục đích vô nhân đạo khác
- Chủ thể của tội phạm: người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
- Lỗi: cố ý
Tuy nhiên có một vài trường hợp buôn bán người không bị truy cứu TNHS theo điều 150
BLHS như sau:
Trong trường hợp thuộc hành vi khách quan của tội phạm là mua bán người nhằm mục
đích lấy bộ phận quyết định sự sống nạn nhân LÀM NẠN NHÂN CHẾT thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.
Trong trường hợp đối tượng tác động của tội phạm mua bán người là người dưới 16 tuổi
thì sẽ cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi ( Điều 151 BLHS )

18
26. Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì cấu
thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS.
Đây là nhận định sai.
Khác cả khách thể
Căn cứ điều 153 BLHS năm 2015,điểm d khoản 2 điều 169 BLHS năm 2015
- Hành vi khách quan của tội phạm quy định tại điều 153 là “Dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ
người dưới 16 tuổi”
-> Như vậy chỉ cần hành vi khách quan là “bắt cóc”, và đối tượng tác động là “người
dưới 16 tuổi” thì đã cấu thành nên tội phạm ở điều 153
- Hành vi khách quan của tội phạm quy định tại điều 169 là hành vi “bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản”, bên cạnh đó đối tượng tác động là “Người dưới 16 tuổi”
không phải dấu hiệu định tội mà là cấu thành tăng nặng quy định tại điểm d khoản
2 Điều 169.
-> Vậy cả 2 tội phạm này có cùng hành vi khách quan,cùng đối tượng tác động, nhưng
đối với tội phạm quy định tại điểm d khoản 2 điều 169 lại có thêm mục đích nhằm đoạt
tài sản.
=>Nên Hành vi trên không là cấu thành tội phạm ở điều 153 BLHS

27. Mọi trường hợp bán con mới đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán người
dưới 16 tuổi theo Điều 151 BLHS
Đây là nhận định sai.
Căn cứ điểm a khoản 1 điều 151,nghị quyết 02/2019 giải thích về mục đích nhân đạo
Để cấu thành tội phạm này cần đảm bảo:
- Đối tượng tác động là “người dưới 16 tuổi”
- Hành vi bao gồm:
“a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;

19
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại
điểm a hoặc điểm b khoản này”
Trường hợp ở nhận định này có hành vi “mua bán con đẻ” và đối tượng tác động là “con
đẻ dưới 16 tuổi” để cấu thành tội phạm ở điểm a khoản 1 điều 151. Nhưng luật này có
quy định “ trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo”
Vậy nên không phải mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán
người dưới 16 tuổi theo Điều 151 BLHS

28. Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội
vu khống (Điều 156 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 1 Điều 156 BLHS 2015, Tội vu khống được hiểu
là hành vi Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác hoặc Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật phải nhằm xúc phạm
nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác hoặc gây thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác mới đủ cấu thành Tội vu khống, có nghĩa đối tượng tác
động ở đây phải là con người và khách thể của tội phạm là xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của con người. Nếu không thỏa mãn dấu hiệu
về mặt khách thể thì không thể cấu thành Tội vu khống theo Điều 156 BLHS.

29. Chỉ có nam giới mới là chủ thể của Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Căn cứ vào quy định tại Điều 141 BLHS 2015 về Tội Hiếp dâm (sửa đổi, bổng sung năm
2017), “ Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể

20
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân,...”
Đối với chủ thể của tội phạm này, BLHS không phân biệt giới tính của chủ thể của tội
phạm, nên chủ thể của tội phạm có thể là nam giới, nữ giới hoặc người lưỡng tính, …
Thế nên nếu chủ thể thỏa mãn các dấu hiệu về năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS, và
thỏa mãn các dấu hiệu về các mặt hành vi khách quan, lỗi và khách thể theo quy định của
điều này thì đủ cấu thành tội phạm về Tội Hiếp dâm.
Do hvkq của blhs 2015 đã mở rộng chủ thể “thực hiện hành vi tình dục khác” -> có thể
nam / nữ

30. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124
BLHS)

Đây là nhận định đúng

Cơ sở pháp lý: k2 Điều 124 BLHS

Xét các dấu hiệu pháp lý:

+ Đối tượng tác động của Tội vứt bỏ con mới đẻ là trẻ mới đẻ - trẻ mới sinh trong vòng 7
ngày tuổi. Nạn nhân là con do chủ thể của tội phạm mới sinh ra.

+ Hành vi khách quan của tội vứt bỏ con mới đẻ là hành vi vứt bỏ trẻ ở lại bất cứ nơi nào.

+ Phải để lại hậu quả là nạn nhân chết, ở đây là đứa trẻ chết.

+ Lỗi là Lỗi cố ý.

+ HOÀN CẢNH phạm tội của vứt bỏ con mới đẻ là do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt. Đây là dấu hiệu bắt buộc của tội này.
Hành vi vứt bỏ con mới đẻ không do các động cơ nêu trên thì không cấu thành tội phạm
này mà cấu thành tội giết người được quy định tại các điều luật khác trong BLHS.

21
+ Chủ thể ở đây là chủ thể đặc biệt - người mẹ sinh đứa trẻ là nạn nhân của hành vi phạm
tội. Hành vi giết trẻ mới đẻ do những người khác thực hiện không cấu thành tội phạm này
mà có thể cấu thành tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS

→ Đủ các dấu hiệu pháp lý trên ta có thể kết luận đây là Tội vứt bỏ con mới đẻ

Đối với tội vứt bỏ con mới đẻ thì dấu hiệu hậu quả bắt buộc của cấu thành vật chất là đứa
trẻ chết. Nếu nạn nhân không chết thì không thể cấu thành tội phạm của Tội vứt bỏ con
mới đẻ ( Điều 124 BLHS). Như vậy, hậu quả nạn nhân chết là một trong những dấu
hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ.

Bổ sung nếu cô có hỏi: Tội giết con mới đẻ, dấu hiệu hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu
xác định tội phạm hoàn thành, có nghĩa là nếu nạn nhân không chết vẫn cấu thành tội
này nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

Còn đối với Tội vứt bỏ con mới đẻ, dấu hiệu nạn nhân chết là dấu hiệu định tội, nếu
không xảy ra hậu quả nạn nhân chết thì không cấu thành tội phạm.

31. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ quy định là tình tiết định
khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS

Đây là nhận định sai.


Cơ sở pháp lý: điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS, điểm 1 Điều 154 BLHS
Ngoài quy định là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123
BLHS thi hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác còn là tình tiết định tội của
Điều 154. Theo khoản 1 Điều 154: “Người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận
cơ thể người khác, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.”

32. Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết thì không cấu
thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS)

22
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 3 Điều 157 và điểm b khoản 3 Điều 377 BLHS 2015
Hành vi bắt, giam giữ người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết nếu thuộc trường hợp
tại điểm b khoản 3 Điều 377 Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp
luật thì không cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Tuy nhiên, trường hợp
bắt, giữ, giam người trái pháp luật khiến nạn nhân chết giam không thuộc Điều 377 thì
vẫn bị cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật được quy định tại điểm a khoản 3
Điều 157.

33. Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là người không có
thẩm quyền mà thực hiện bắt, giữ hoặc giam người (Điều 157 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 157, khoản 1 Điều 12 BLHS
Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là người có năng lực trách nhiệm
hình sự và phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
là những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm căn
cứ vào khoản 1 Điều 12 BLHS. Chủ thể thực hiện tội phạm phải là người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Nếu thiếu
một trong hai năng lực này, người đó bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc bị hạn chế năng lực TNHS và được loại trừ TNHS theo Điều 21 Bộ luật hình sự.

34. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là dấu hiệu định tội
của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS).

Đây là nhận định đúng.

Cơ sở pháp lý: Điều 153, Điều 157, Điều 377 BLHS

Theo Điều 157 BLHS, hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là dấu hiệu định
tội của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật khi đối tượng tác động là người từ 16

23
tuổi trở lên và chủ thể phải là chủ thể thường. Trong trường hợp cũng thực hiện hành vi
bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nhưng đối tượng tác động là người dưới 16 tuổi
thì cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 BLHS) hoặc chủ thể là chủ
thể đặc biệt - người có chức vụ, quyền hạn mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người thì
cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377,
BLHS).

35. Hành vi cưỡng bức, buộc NLĐ đang làm việc tại các chủ quan NN, tổ chức XH,
các DN phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng thì cấu thành Tội
buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải NLĐ trái pháp luật (Điều 162
BLHS)

Đây là nhận định sai.


Cơ sở pháp lý: Điều 162 BLHS 2015
Các dấu hiệu pháp lý của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải NLĐ trái
pháp luật (Điều 162 BLHS)

- Khách thể: quyền được lao động của công dân

Đối tượng tác động: công chức, viên chức, NLĐ làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ
chức XH, các doanh nghiệp..

- Mặt khách quan: hành vi buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải NLĐ
trái pháp luật và gây hậu quả nghiêm trọng.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý

- Chủ thể: chủ thể đặc biệt

+ Có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

24
+ Là người có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc cho thôi việc công chức, viên
chức và sa thải NLĐ.

Như vậy, hành vi khách quan chỉ là một trong 4 yếu tố cấu thành tội danh này. Hành vi
khách quan phải đồng thời hội đủ các điều kiện về khách thể, chủ thể và mặt khách quan
thì mới cấu thành Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải NLĐ trái pháp
luật (Điều 162 BLHS)

36. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức viên chức thôi việc hoặc sa thải
người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức hoặc
người lao động của các cơ quan nhà nước.
Đây là nhận định sai..
Cơ sở pháp lý: Điều 162 BLHS 2015, Điều 35 hiến pháp 2013
Khách thể: xâm phạm đến quyền được lao động của công dân.

Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao
động trái pháp luật theo Điều 162 ngoài công chức, viên chức hoặc người lao động của
các cơ quan Nhà nước còn có công chức, viên chức và người lao động ở các tổ chức xã
hội, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Mặt khách quan: là hành vi buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người
lao
động trái pháp luật
- Chủ thể: chủ thể đặc biệt; có đủ 2 dấu hiệu NLTNHS đủ tuổi chịu TNHS và là
người có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc cho thôi viêc công chức, viên chức
hoặc sa thải người lao
động trái pháp luật

25
37. Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS) phải là
người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 166 BLHS 2015
Tội phạm này chứa đựng 2 hành vi khách quan và chủ thể tội phạm khác nhau, tuy nhiên
về khách thể tội phạm và lỗi lại giống nhau:
- Hành vi khách quan thứ nhất : thuộc điểm a khoản 1 điều 166 BLHS, hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo,
việc xét xử và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố
cáo. Đối với hành vi này chủ thể tội phạm là người có đủ năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS.
- Hành vi khách quan thứ hai: thuộc điểm b KHoản 1 Điều 166 BLHS, hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm
quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
Đối với hành vi này thuộc chủ thể đặc biệt. Chủ thể lúc này ngoài việc đầy đủ
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS còn cần thêm 1 dấu hiệu nữa là người có
trách nhiệm thi hành quyết định xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có
thẩm quyền.
Như vậy kết luận rằng, không phải mọi trường hợp chủ thể của tội xâm phạm quyền
khiếu nại, tố cáo ( điều 166 BLHS) luôn là người có thẩm quyền trong việc giải quyết
khiếu nại tố cáo mà cần xem xét về hành vi khách quan để xác định đúng chủ thể của tội
phạm.

38. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội xâm
phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự trái pháp luật hình sự của chủ thể trong những
tình huống, hoàn cảnh cụ thể.Xử sự này gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các
quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ

26
Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 166 BLHS
Hành vi khách quan của tội phạm này là “Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi
khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý
người bị khiếu nại, tố cáo” hoặc “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành
quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại
cho người khiếu nại, tố cáo”
Trả thù người khiếu nại, tố cáo không phải là hành vi khách quan của Tội xâm phạm
quyền khiếu nại, tố cáo.Bởi vì khi chủ thể thực hiện các hành vi nhằm mục đích trả thù
nhưng không thực hiện các hành vi khách quan ở dấu hiệu nên tội phạm này thì không
thể cấu thành tội phạm quy định tại Điều 166 BLHS năm 2015

39. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy
định tại Điều 181 BLHS
Đây là nhận định sai.
Căn cứ Điều 181 BLHS
Bên cạnh hành vi khách quan của tội phạm, để cấu thành tội phạm này còn phải đảm bảo
cả chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm:
- Về mặt khách quan của tội phạm là: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tối biết rằng dùng các thủ đoạn để cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản
trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện là nguy hiểm cho xã hội
và vi phạm pháp luật,trước đây đã bị xử lý hành chính về việc đó mà vẫn thực hiện
- Về chủ thể của tội phạm này phải là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS theo luật định, vì trên thực tế người vi phạm điều này thường là người dưới
18 tuổi

40. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu thành
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS)
Đây là nhận định sai.

27
Căn cứ vào quy định tại Điều 182 BLHS 2015 về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau:
Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc Đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hành vi của người đang có vợ, có
chồng (thoả mãn các điều kiện về năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS) mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác phải thuộc một trong hai trường hợp là làm cho
quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc Đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này thì mới cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Trong trường hợp người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác bên mà không dẫn đến hậu quả là một trong hai bên ly hôn hoặc
chưa bị xử phạt hành chính vì hành vi này thì sẽ bị xử phạt như sau:
Hành vi này vi phạm Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Xử phạt hành chính về hành vi vi phạm: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng
đối với một trong các hành vi sau:

● Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc
chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc
đang có vợ;
● Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
● Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà
mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

Cơ sở pháp lý: Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành
án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

28
41. Chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội loạn
luân được quy định tại Điều 184 BLHS

Đây là nhận định sai.

Cơ sở pháp lý: Điều 184 BLHS

Theo Điều 184 BLHS 2015 nêu rõ thì đối tượng tác động của tội phạm này là người mà
mình biết rõ là có cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Chính vì vậy, ngoài đối tượng tác động là
người có cùng dòng máu trực hệ nếu giao cấu giữa anh chị em cùng cha mẹ, giữa anh chị
em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thì vẫn có thể cấu thành tội Loạn luân.

Ngoài ra, nếu không có sự thuận tình giao cấu giữa những người nêu trên, thì tùy trường
hợp mà định tội theo về tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS), Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
(Điều 142 BLHS); Tội cưỡng dâm (Điều 143 BLHS); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Điều 144 BLHS).

Ngoài ra, mặc dù có sự giao cấu thuận tình nhưng nếu giao cấu với trẻ em chưa đủ 16
tuổi cùng dòng máu trực hệ hoặc giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác
cha, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 145 BLHS về tội giao
cấu với người dưới 16 tuổi (đổi với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) hoặc khoản 4
Điều 142 BLHS về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Nếu trẻ em chưa đủ 13 tuổi).

42. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi chỉ quy
định trong cấu thành Tội loạn luân được quy tại Điều 184 BLHS.
Đây là nhận định sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 142, Điều 145 và Điều 184 BLHS 2015
Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu trực hệ là việc giao cấu giữa cha, mẹ
với con; giữa ông bà với cháu nội, cháu ngoại. Hành vi này được quy định trong cấu

29
thành của Tội loạn luân (Điều 184), tuy nhiên để truy cứu trách nhiệm hình sự của tội này
còn cần phải làm rõ điều kiện là được thực hiện với người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trường hợp giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi thì sẽ bị cấu thành Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
(Điều 145).
Trường hợp giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ dưới 13 tuổi thì dù thuận
tình hay không vẫn bị cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với tình tiết định khung
tăng nặng có tính loạn luân (Điều 142)
Như vậy, giao cấu thuận tình với người có dòng máu về trực hệ không chỉ được quy định
trong cấu thành tội loạn luân mà còn được quy định trong tội giao cấu với người với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

43. Mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi
mình đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có
công nuôi dưỡng mình (Điều 185 BLHS)
Đây là nhận định sai.
Để cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi
dưỡng mình chỉ cấu thành tội phạm khi dẫn tới hệ quả là thường xuyên làm cho nạn nhân
bị đau đớn về thể xác, tinh thần hoặc thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành
vi này mà vẫn còn tái phạm. Và khi xem xét, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi đối xử tồi tệ hay hành vi bạo lực xâm phạm thân thể cần chú ý đến đặc điểm của
người bị hại là con hư hỏng, bướng bỉnh trong gia đình và ngoài xã hội hay trường hợp
ông bà, cha mẹ già yếu.

30
II. BÀI TẬP
Bài tập 1
- T không phát sinh quyền phòng vệ (không thoả mãn yếu tố sự tấn công/đe doạ
đang hiện hữu: C đã kết thúc hành vi tấn công H và cả 2 bên đã được can ngăn tại
thời điểm T đâm C). Do đó, không cấu thành Tội giết người do phòng vệ chính
đáng (Điều 126)
- H có hành vi phạm tội trong trạng thái kích động nhưng không trong trạng thái
tinh thần kích động mạnh (hai bên chỉ xảy ra xô xát nhỏ, H tự tìm tới chỗ A,B,C
để tranh cãi xô xát và đâm C). Do đó, không thể cấu thành tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125).
Cơ sở pháp lý: Điều 123 BLHS 2015 và Án lệ số 17/2018/AL: “Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ
nhặt trong sinh hoạt với nhau mà tội phạm đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những
vùng trọng yếu trên cơ thể của nạn nhân.”
Căn cứ theo dữ liệu của đề bài, T đã phạm tội Giết người (Điều 123) với tình tiết định
khung tăng nặng có tính chất côn đồ quy định tại điểm n khoản 1 dựa trên các mặt:
- Khách thể: Tính mạng, sức khỏe, quyền được sống của con người được pháp luật
Việt Nam bảo vệ
- Chủ thể: dữ liệu đề bài không đề cập nên xem như T có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự.
- Khách quan:
+ Hành vi khách quan: T đã có hành vi trực tiếp dùng lưỡi lê đâm một nhát
vào vị trí trọng yếu của cơ thể là ngực C khiến C tử vong.
+ Hậu quả: C chết
+ Mối quan hệ nhân quả: Nguyên nhân C chết là do vết thương sắc nhọn, thấu
ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạnh, mất máu cấp tính T gây ra.
- Chủ quan:
+ Lỗi cố ý trực tiếp (T nhận thức được hành vi đâm vào ngực C của mình gây
chết người và mong muốn hậu quả ấy xảy ra)
+ Tình tiết định khung tăng nặng: T có thái độ coi thường pháp luật, coi
thường tính mạng sức khỏe con người khi chỉ vì tranh cãi nhỏ nhặt mà đâm
vào vị trí trọng yếu là ngực của C.
Cô hỏi nhóm kia:
Có ý kiến khác cho rằng lúc T rút lưỡi lê ra đâm C thì định theo 125 hay 126? (đã có
phản biện)

31
⇒ vì nó kh nằm trong giới hạn cần thiết nên kh định ở 126. Tại thời điểm T thực hiện
hành vi đâm thì 2 bên vẫn tiếp tục xô xát thì hành vi của A kh đủ chứng cứ để chứng
minh rằng T phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.

Bài tập 2
Cơ sở pháp lý: Điều 124, khoản 2 Điều 123 BLHS
Xét những cấu thành của Tội giết con mới đẻ theo quy định của Điều 124 BLHS 2015:
đối tượng tác động của hành vi của chị N ko thỏa mãn cấu thành về mặt khách thể (dưới
7 ngày tuổi) nên chị N không thể phạm tội giết con mới đẻ.
Dựa trên dữ liệu của đề bài, hành vi của N là hành vi có phạm tội dựa trên các mặt:.

- Khách thể: Chị N xâm phạm quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng.
- Chủ thể: chị N - mẹ của đứa bé được 10 ngày tuổi
- Mặt khách quan: Chị N có hành vi là chùm chăn, bịt mặt đứa bé đến khi không
còn thấy nhịp tim đập nữa. Hành vi tước đoạt mạng sống của đứa bé là một hành
vi trái pháp luật. Hậu quả xảy ra là tim đứa bé ngừng đập và chết.
- Mặt chủ quan: Hành vi của chị N là hành vi cố ý trực tiếp vì chị đã thực hiện hành
vi của mình đến lúc chắc chắn rằng không thấy nhịp tim nữa mới dừng lại.
Vậy, chị N đã phạm tội giết người với tình tiết tăng nặng giết người dưới 16 tuổi quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.

Trong th nếu nạn nhân là phạm vi 7 ngày tuổi thì đủ cơ sở để xử lý 124. Chị này có đủ tâm lý
để điều chỉnh hành vi. Không phải lúc này cũng 3, 7 năm hay chung thân. Có thể xem xét để
chuyển qua 123

Bài tập 3
Cơ sở pháp lý: Điều 123 BLHS 2015
Hành vi của A cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS 2015):
- Về mặt chủ thể: A có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự
- Về mặt khách thể:
+ Đối tượng tác động: Ở đây A đã có sai lầm về đối tượng tác động khi
có ý định giết C, nhưng thực chất lại giết nhầm sang bạn của C. Đối
tượng tác động mà A nhắm đến (tức là C)
- Về mặt khách quan:

32
+ Hành vi khách quan: A có hành vi giết người khi nhặt một khúc gỗ
phang thẳng vào đầu (vị trí trọng yếu) của nạn nhân
+ Hậu quả: bạn của C chết.
+ Mối quan hệ nhân quả: Nguyên nhân trực tiếp khiến bạn C chết là do
hành vi của A.
+
- Về mặt chủ quan:
+ Lỗi cố ý: A nhận thức được hành vi của mình sẽ gây chết người và
mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ A đã thực hiện hành vi giết người (bạn của C) trong trạng thái tinh
thần bị kích động nhưng chưa tới mức kích động mạnh. A cho rằng
B và C đang đi ngoại tình khi nhìn thấy người thanh niên đang ngồi
trên chiếc xe Honda có biển số xe của C và đã bị tức giận và kích
động nhưng vẫn ý thức được về hành vi của mình ( nhận biết được
xe Honda biển số của C, nhặt được cây gậy để nhắm vào đầu C).

Bài tập 4
H có 2 hành vi: chém đứt bàn tay C và chém vào đầu C khiến C chết.
1. Hành vi chém đứt bàn tay C là hành vi phòng vệ chính đáng (Điều 22 BLHS
2015)
Thỏa mãn 3 dấu hiệu làm phát sinh quyền phòng vệ:
+ Có sự tấn công nguy hiểm đáng kể, trái pháp luật: C cầm dao lao vào tấn công H.
+ Sự tấn công của C xâm phạm đến tính mạng mẹ con H.
+ Sự tấn công đang hiện hữu - đe dọa sự nguy hiểm có thể xảy ra ngay tức khắc.
Trong tình huống này, hành vi chém đứt bàn tay C của H là nhằm gạt bỏ sự tấn công tức
thời của C và nằm trong giới hạn cần thiết để ngăn chặn sự tấn công đó.
→ Đây là hành vi phòng vệ chính đáng.
Căn cứ Điều 22 BLHS 2015: “Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”
→ Hành vi này của H không phạm tội.

2. Hành vi chém vào đầu C


* Xét Điều 126 BLHS 2015:

33
Xem xét dấu hiệu làm phát sinh quyền phòng vệ: vào thời điểm này, C đã bị chém đứt
bàn tay, không còn khả năng tấn công cao nữa
→ Không thỏa mãn dấu hiệu có sự tấn công đang hiện hữu - đang xảy ra hoặc đe dọa xảy
ra tức khắc → Không làm phát sinh quyền phòng vệ của H.
Như vậy, hành vi chém vào đầu C không thể cấu thành Tội giết người do vượt quá PVCĐ
hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 BLHS 2015).
* Xét Điều 125 BLHS 2015:
+ H giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Hành vi của B và C: châm lửa đốt nhà, chặn cửa đón đầu và tấn công mẹ con H →
Những hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của B, C khiến H rơi vào trạng thái
kích động mạnh, không hoàn toàn tự chủ để kiềm chế hành vi của mình.
+ Hành vi của B, C là nhằm vào mẹ con H (quan hệ huyết thống).
+ Hậu quả: C chết.
→ Thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 125 BLHS 2015).

Bài tập 5
Theo Điều 125 có quy định nguyên nhân dẫn đến trạng thái kích động mạnh gây nên sự
mất kiểm soát của người phạm tội phải đến từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của
nạn nhân đối với người đó hoặc người thân thích của người đó và hậu quả là nạn nhân tử
vong. Tuy nhiên, trong tình huống ngày B không đáp ứng đủ điều kiện thoả mãn để
cấu thành Tội giết người trong trạng thái bị kích động mạnh theo Điều 125:
- Thứ nhất, có thể thấy B đang trong trạng thái bị kích động nhưng chưa tới mức
kích động mạnh (Người bị kích động về tinh thần là người không còn nhận thức
đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng
nhận thức) khi ông Th ( bố đẻ của cả A và B) bị xúc phạm. (*Tham thảo các quy
định của Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn “tình
trạng tinh thần bị kích động mạnh” tại Bộ luật Hình sự 1985)
- Thứ hai, trạng thái bị kích động mạnh này phải đến từ hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân; trong trường hợp này việc A xúc phạm ông Th không
được coi là hành vi trái pháp luật mà chỉ vi phạm về mặt đạo đức.

34
- Thứ ba, hậu quả để lại là A gục và chết ngay tại chỗ. Chính vì không đáp ứng đủ
các điều kiện của Điều 125 nên B là phạm tội giết người theo Điều 123.
Dựa trên các dữ liệu của đề bài, hành vi của A cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS
2015):
- Về mặt chủ thể: B có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự
- Về mặt khách thể:
+ Đối tượng tác động: A
- Về mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: B có hành vi giết người khi rút con dao bầu
mũi nhọn đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng
+ Hậu quả: B chết tại chỗ.
+ Mối quan hệ nhân quả: Nguyên nhân trực tiếp khiến A chết là do
hành vi của B.
+
- Về mặt chủ quan:
+ Lỗi cố ý: B nhận thức được hành vi của mình sẽ gây chết người và
mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Tình tiết tăng nặng: B có thái độ coi thường pháp luật khi chỉ vì
những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống mà giết em trai (A) →
Tính chất côn đồ.
Theo ý kiến của nhóm em, B đã phạm Tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng
được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.

Bài tập 6
H không phải chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi của H được xem là hành vi phòng vệ
chính đáng theo quy định tại Điều 22 BLHS 2015.
Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:
Sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật: S vẫn tiếp tục chạy tới với cả 2 dao
vung lên
Sự tấn công xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được sống của H
Sự tấn công đang hiện hữu, đã xảy ra và chưa kết thúc: S đã đứng trước mặt H cách
chừng 2m với cả 2 dao vung lên
Căn cứ Khoản 1 Điều 22 BLHS 2015:

35
Hành vi phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của
người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức: H gây thiệt hại đối với S vì S
là đối tượng trực tiếp tân công H
Phạm vi phòng vệ này vẫn còn nằm trong giới hạn, do H đã có ý bước lùi tránh sự tấn
công và bắn vào chân S – không phải vị trí trọng yếu và đủ để ngăn chặn sự tấn công
nguy hiểm của S
Do đó hành vi bắn một phát súng vào chân S của H dẫn đến cái chết của S là hành vi
hành vi phòng vệ nằm trong giới hạn cần thiết để ngăn chặn sự tấn công của S. Nhằm bảo
vệ lợi ích hợp pháp của H và mọi người xung quanh. Vì thế hành vi của H là hành vi
phòng vệ chính đáng.

Bài tập 7:
Hành vi của A cấu thành Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều
126 BLHS )
Trước tiên các điều kiện để phát sinh quyền phòng vệ chính đáng gồm:
- Thứ nhất, có sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật
- Thứ hai, sự tấn công xâm phạm lợi ích của NN, XH hoặc lợi ích chính đáng của
mình hoặc người khác
- Thứ ba, sự tấn công đang hiện hữu: đang xảy ra hoặc đe dọa xảy ra ngay tức khắc.

Trong tình huống này, anh A đã phát sinh quyền phòng vệ chính đáng xuất phát từ sự tấn
công nguy hiểm và đang xảy ra được thực hiện bởi anh B như: cầm khúc cây tầm vông
đánh A, cầm chiếc ấm nhôm ném vào vai A, xông vào đánh đấm A.

Tuy nhiên trong tình huống này A đã có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
như sau: Theo Khoản 2 Điều 22 BLHS thì A đã chống trả quá mức cần thiết, cụ thể A đã
lấy dao đâm 1 phát vào ngực B rồi vứt dao bỏ chạy. Trong khi đó A hoàn toàn có thể
không dùng cách cầm dao đâm vào ngực B để phòng vệ. Xét các cấu thành tội phạm của
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại điều 126
BLHS:
Mặt chủ thể: có năng lực TNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS
Mặt chủ quan: cố ý
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: hành vi tước đoạt đi tính mạng con người trong trường hợp
quá mức cần thiết: ở đây, việc sử dụng dao đâm vào ngực, ta xét thấy ngực là một

36
trong những vùng trọng yếu của cơ thể, có sự đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng
nếu đâm bằng dao (ảnh hưởng đến tim, phổi, ...), A hoàn toàn có thể dùng dao tác
động đến những vùng khác mà không có khả năng đe dọa đến tính mạng như tay,
vai, ...
- Hậu quả: vì là tội phạm có CTTP vật chất nên hậu quả B chết là dấu hiệu bắt buộc
để định tội A.
- Mối quan hệ nhân quả: hành vi phòng vệ quá mức cần thiết của A là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến cái chết của B.
Mặt khách thể: xâm phạm đến tính mạng. Đối tượng tác động ở đây là B - người đang có
sự tấn công nguy hiểm

Như vậy, xét các dấu hiệu cấu thành tội phạm trên, có thể kết luận rằng A sẽ bị xét xử về
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tội ( Điều 126 BLHS)

Có ý kiến cho rằng kh thể định 126. Thực hiện hành vi đấm dá và dùng dao là kh thể xét
126
ĐÁP ÁN: K2 Đ123

Bài tập 8
P phạm tội giết người căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 123 BLHS 2015
Các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội này
Khách thể: quyền được sống của C
Đối tượng tác động: C - con người đang sống
Mặt khách quan:
Hành vi: P kê súng lên bờ mương, nhắm về phía C lên đạn và bóp cò
Hậu quả: C chết ngay tại chỗ
Mối quan hệ nhân quả: súng nổ và viên đạn xuyên qua cuống tim là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến cái chết của C
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. P biết hành vi của mình là trái pháp luật, nhận thức
được hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra
Chủ thể: P có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự

37
Tại sao kh xử dc cho B Đ127?
⇒ động cơ phạm tội: d127 bắt buộc đg cơ vì thi hành công vụ, công vụ đặt ra yêu
cầu.
Ở th này, mấy đứa trẻ trộm ko đáng kể → ko đặt ra vấn đề công vụ → chỉ vì lý do
B bực tức dù ko có lời khai của B.

Bài tập 9

Theo ý kiến của nhóm em, hành vi của N trong vụ án này là hành vi cấu thành Tội giết
người theo quy định tại Điều 123

Ở trường hợp này, xét các cấu thành của Tội giết người theo quy định tại điều 123 BLHS:

- Mặt khách thể: đối tượng tác động: con người đang sống : Thỏa

- Mặt khách quan: Thứ nhất, Hành vi: hành động hoặc không hành động có khả
năng gây chết người: Thỏa, ở trường hợp này, N đã “dùng vải màn quấn quanh mặt đứa
bé, để nằm trên bàn và không cho ai trong số người nhà nhìn vào mặt”: hành vi có khả
năng gây chết người: đứa bé có thể bị ngộp thở, ngoài ra đứa bé đang bị gãy xương tay và
chảy máu nhiều do cắt dây rốn quá sát da, việc để mặc đứa bé nằm trên bàn có thể dẫn
đễn việc đứa bé vì mất máu quá nhiều mà tử vong. Thứ hai, mặt hậu quả, hậu quả đã xảy
ra là việc đứa bé đã chết, quan hệ nhân quả ở đây: nếu đưa đứa bé đi cấp cứu kịp thời đứa
bé có thể sẽ không bị mất nhiều máu đến mức nguy hiểm cho tính mạng.

- Mặt chủ quan: lỗi: cố ý gián tiếp: phân tích: N nhận thấy được rõ hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình có thể gây ra (đứa bé chết) và để mặc cho hậu quả xảy ra.

- N thỏa mãn các dấu hiệu về chủ thể

Vì thế, hành vi giết người của N cấu thành Tội giết người theo quy định tại điều 123 và
có thể xem xét các tình tiết tăng nặng khác, có thể kể đến như “Giết người dưới 16 tuổi”,
“Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp”, …

Bài tập 10

Xét tới 2 chủ thể liên quan đến cái chết của chị H là bà Y và người yêu chị H.

38
Kh1 Điều 130 BLHS 2015 quy định về Tội bức tử: “Người nào đối xử tàn ác, thường
xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”
Như vậy, một trong những dấu hiệu KQ của tội bức tử là hành vi ức hiếp, ngược đãi phải
là nguyên nhân dẫn đến sự tự sát của nạn nhân (mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả). Nạn nhân tự sát vì một nguyên nhân khác thì dù chủ thể đã có hành thường
xuyên ức hiếp ngược đãi đối với nạn nhân cũng không cấu thành tội bức tử.
Trong tình huống này, nguyên nhân dẫn đến H tự sát là do chị H thất vọng vì bị bội tình,
bà Y và người yêu chị H đều không có hành vi tác động trực tiếp như trong CTTP mô tả
để dẫn đến cái chết của chị.
→ Tình huống không có hành vi phạm tội.

Ko đề cập tuổi → đều đã thành niên


Nếu Y ko phải chủ thể của d185 → có thể xử d140 ko? - phải chứng minh mối
quan hệ lệ thuộc, mối qhe
Y thường ngc đãi ức hiếp nhưng ko đủ cơ sở có nghiêm trọng ko
Y là mẹ kế nhưng ko rõ quan hệ gia đình
→ nếu đủ cơ sở chứng minh (đề hiện ko đủ dữ liệu) thì có thể xử d140. Ko kết luận có tội
hay ko mà trả lời khả năng có thể xử d140 ko
H ko đủ cơ sở để bị truy cứu TNHS

Bài tập 11
Hành vi gây chết người của A cấu thành nên Tội vô ý làm chết người ( Điều 128 ). Căn
cứ dấu hiệu pháp lý và Khoản 12 Công văn 81/2002/TANDTC của Tòa án nhân dân tối
cao về việc giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ :
- Chủ thể: ông A người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Khách thể của tội phạm: xâm phạm đến quyền được sống của con người
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: ông A đã giăng dây quanh luống mía để diệt chuột gây
vô ý làm chết người.
+ Hậu quả: một thanh niên khác xã chết

39
+ Mối quan hệ nhân quả: nguyên nhân trực tiếp khiến một thanh niên khác xã
chết là do bị điện giật vì bẫy chuột của A
- Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi : vô ý vì quá tự tin
Bên cạnh đó căn cứ theo Điểm b Khoản 12 Công văn 81/2002/TANDTC của Tòa án
nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ: ông A sử dụng điện mắc để
diệt chuột với ý chí tin rằng nơi đó không có người qua lại do ông A đã có thông báo
trước với hàng xóm và tin rằng sẽ không gây ra hậu quả chết người. Nhưng hậu quả chết
người ngoài ý muốn đã xảy ra do thanh niên khác trèo trộm mía nên ông A sẽ được xét
xử Tội vô ý làm chết người.

Bài tập 12

Ở trường hợp này, xem xét hành vi của B ta thấy những cấu thành sau:

- Mặt khách thể: Xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, đồng thời đe dọa đến
sức khỏe, tính mạng của H

- Mặt khách quan:

+ Hành vi: hành vi sử dụng súng – một loại vũ khí quân dụng, của B là việc
chỉ súng đến H là hành vi có khả năng gây chết người, hoặc làm tổn thương
nghiêm trọng đến sức khỏe của H, và hoàn toàn vi phạm các quy định của
Pháp luật về việc sử dụng vũ khí quân dụng.
+ Hậu quả đã xảy ra: H đã chết.

- Mặt chủ thể: B có đầy đủ các cấu thành về mặt chủ thể về năng lực pháp luật và
hành vi

- Mặt chủ quan: LỖI: vô ý (cụ thể: vô ý vì quá tự tin), B mặc dù biết hành vi của
mình có khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra,
và B hoàn toàn không có mục đích, mong muốn tước đoạt tính mạng của H.

Vì các dấu hiệu trên, không thể cấu thành Tội giết người theo điều 123, do không thỏa
mãn cấu thành về mặt chủ quan cụ thể thể là mặt Lỗi. Nên chúng ta xem xét đến các cấu
thành theo quy định tại điều 128 với Tội vô ý làm chết người. Vì đã thỏa mãn dấu hiệu
giảm nhẹ về mặt chủ quan với lỗi Vô ý.

40
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể xem xét đến những quy định tại điều 304 về Tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự.

Bài tập 13
Căn cứ theo dữ liệu đề bài, B đã phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (Điều
134).
Cơ sở pháp lý: khoản 4 Điều 134 BLHS 2015
- Khách thể: Tính mạng, sức khỏe, quyền được sống của con người được pháp luật
Việt Nam bảo vệ
- Chủ thể: B đủ tuổi và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
- Khách quan:
+ Hành vi khách quan: B đá A 1 cái khiến A té ngửa xuống sân nhà.
+ Hậu quả: A chết.
+ Mối quan hệ nhân quả:
- Chủ quan:
+ Hỗn hợp lỗi (cố ý với hành vi, vô ý với hậu quả)
- Hậu quả “chết người” của A là tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả này
do lỗi vô ý của B, và hành vi gây thương tích (tình tiết khách quan quy định
trong cấu thành tội phạm cơ bản) được B thực hiện với.

Bài tập 14
Dựa theo dữ kiện của đề bài, B không phát sinh quyền phòng vệ: sự tấn công của A (cầm
chai bia bị đập bể đâm vào người B) đã kết thúc và không còn hiện hữu -> loại Điều 126
B có hành vi phạm tội nhưng không trong trạng thái kích động mạnh. B đã có sự chuẩn
bị từ trước: chuẩn bị dụng cụ phạm tội (mua dao dài 15cm), tìm kiếm A suốt 3 ngày ->
không thể phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125)
Theo quan điểm của nhóm, B phạm Tội giết người (Điều 123) dựa trên các mặt:
- Chủ thể: B có đủ tuổi và đủ NLTNHS
- Khách thể: Tính mạng, sức khỏe, quyền được sống của con người được pháp luật
Việt Nam bảo vệ
- Khách quan:

41
o Hành vi khách quan: B lao đến đâm A vào bả vai của A trúng vào đầu đỉnh phổi
phải
o Hậu quả: A chết
o Mối quan hệ nhân quả: Nguyên nhân trực tiếp khiến A tử vong là do B có hành vi
đâm vào bả vai của A khiến A tràn khí phổi.
- Chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp (B nhận thức được hành vi của mình có thể gây nên
cái chết của A và mong muốn hậu quả đó xảy ra khi trực tiếp đâm vào ngực – vị trí trọng
yếu khiến tỷ lệ tử vong rất cao)

Bài tập 15
a. Nạn nhân chết
A phạm tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS 2015)
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 128, khoản 1 Điều 11 BLHS
Dựa theo dữ liệu của đề bài:
- Khách thể: A đã xâm phạm tính mạng của người bẻ măng
- Chủ thể: vì đề bài không đề cập gì nên A được xem là người có đầy đủ năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan: hành vi của A là không nghe theo lời cảnh báo của B
và bóp cò khiến cho đạn trúng người bẻ măng
+ Hậu quả: người bẻ măng chết do trúng đạn của A
+ Mối quan hệ nhân quả: người bẻ măng chết là do bị A bắn trúng.
- Mặt chủ quan: Lỗi: lỗi vô ý vì quá tự tin: A nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm nhưng cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra (A tự tin vào tài bắn của mình
sẽ không bắn trượt)
Ngoài ra, chúng ta có thể xem xét hành vi của A với các tội danh khác liên quan tới việc
tàng trữ và sử dụng trái phép súng săn theo quy định tại Điều 306 BLHS.

b. Nạn nhân bị thương nặng

42
A phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều
138) nếu thỏa mãn dấu hiệu hậu quả của cấu thành vật chất (bị thương nặng từ 31% trở
lên đến 60%)
TH1: Nạn nhân bị thương nặng từ 31% trở lên
Cơ sở pháp lý: điểm b khoản 2 Điều 138 BLHS
Khách thể: A đã xâm phạm đến sức khoẻ của người bẻ măng
Chủ thể: vì đề bài không đề cập gì nên A được xem là người có đầy đủ năng lực TNHS
và đủ tuổi chịu TNHS
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: hành vi của A là không nghe theo lời cảnh báo của B và bóp
cò khiến cho đạn trúng người bẻ măng
- Hậu quả: Nếu người bẻ măng bị thương nặng trên từ 31% đến 60%
Mặt chủ quan:
- Lỗi: vô ý vì quá tự tin: A nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng
cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra
TH2: Nạn nhân bị thương nặng nhưng ko thoả mãn dấu hiệu hậu quả về thương tích cơ
thể từ 31% trở lên.
Không cấu thành tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chúng ta có thể xem xét hành vi của A với các tội danh khác liên quan tới việc tàng trữ
và sử dụng trái phép súng săn theo quy định tại Điều 306 BLHS.

c. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%


Cơ sở pháp lý: điểm khoản 2 Điều 138 BLHS
Căn cứ vào Điều 138 BLHS, để tội phạm cấu thành thì cần hội đủ các dấu hiệu:
- Hành vi này là hành vi vô ý gây thương tích cho người khác
- Hậu quả là gây thiệt hại về sức khoẻ phải có tỷ lệ tổn thương cơ thể là từ 31% trở
lên

43
Vì A bắn đạn trúng người bẻ măng với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%, A đã thực hiện hành
vi và đã có hậu quả xảy ra nhưng hậu quả này không thỏa mãn yếu tố bị thương tích từ
31% trở lên của Điều 138 BLHS nên A không phạm tội.
Thế nhưng, chúng ta có thể xem xét hành vi của A với các tội danh khác liên quan tới
việc tàng trữ và sử dụng trái phép súng săn theo quy định tại Điều 306 BLHS.

Dữ liệu ko cho thấy sử dụng súng trái phép


31% trở lên → d138
Dưới 31% → ko có tội

Bài tập 16

Theo Điều 130 BLHS 2015 Tội danh mà M đã phạm là Tội bức tử. Hành vi của M đã
thoả mãn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội bức tử như sau:

- Khách thể

+ Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của bà H.

+ Đối tượng tác động: con người đang sống - H.

- Mặt khách quan

+ Hành vi: ông M lừa dối bà H (ông M đang có vợ bé và đang có một con chung với
người vợ này). Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào mặt
bà H tờ đơn xin ly hôn. Ông M buông lời lạnh lùng, bỏ mặc bà H. Bà H leo lên thành cửa
sổ (đang mở sẵn), ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không nói gì thêm. Như vậy, ông
M đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương chăm sóc, sống chung nên ông M có
hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp ngược đãi người lệ thuộc mình.

+ Hậu quả: bà H tử vong.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của ông M là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến hậu quả H tự sát, dẫn đến tử vong.

44
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.

- Chủ thể: M thỏa mãn điều kiện về chủ thể thường của tội danh này (đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).

Bài tập 17

Cơ sở pháp lý: Điều 129 BLHS 2015

* Điều 129: Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính

- Khách thể: tính mạng của anh C

- Mặt khách quan:

+ Hành vi của H đã vi phạm quy tắc nghề nghiệp của lực lượng Công an nhân dân: khi
bàn giao công việc, trách nhiệm của H theo quy trình là phải kiểm tra súng đạn để đảm
bảo an toàn; nhưng H đã không tuân thủ quy định.

+ Đồng thời, H còn có hành vi sử dụng vũ khí là súng ngắn để đùa nghịch, bóp cò, là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả C chết.

- Mặt chủ quan: lỗi vô ý do cẩu thả

- Chủ thể:

+ H có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

+ H là chiến sĩ công an nghĩa vụ → có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc nghề nghiệp.

45
Bài tập 18
Trong trường hợp này, M có phạm tội theo quy định của Điều 128 Tội vô ý làm chết
người.
Cơ sở pháp lý: Điều 128 BLHS 2015
- Chủ thể: M; người có năng lực TNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS
- Khách thể: xâm phạm đến quyền được bảo vệ về tính mạng và sức khoẻ của T,
- Mặt khách quan: + hành vi khách quan của M: vi phạm quy tắc chung về đảm bảo
tính mạng và sức khỏe
+ Hậu quả: T chết
+ Mối quan hệ nhân quả: Vì T không đồng ý chở N đi cấp cứu mà M đã có
hành vi thái quá là cãi nhau và dùng tay đánh T. Sau khi T đi bỏ đi thì M
chạy theo dùng tay nắm cổ áo T và đẩy T ra đường khiến cho T chết. Hành
vi đẩy T xuống đường là nguyên nhân trực tiếp gây nên cái chết của T; dù
do K không bật đèn xe khiến M không xác định được có phương tiện di
chuyển trên đường nhưng bắt buộc M phải biết là đây là hành vi nguy hiểm
và có thể gây chết người.
- Mặt chủ quan: lỗi vô ý

Bài tập 19
Cả A và B đều là người phạm tội.

A phạm tội bức tử (Điều 130 BLHS 2015)

- Khách thể: tính mạng của B (không có C vì C không thực hiện hành vi tự sát)
- Đối tượng tác động: B - con người đang sống
- Mặt khách quan
+ Hành vi: A thường nhậu nhẹt say xỉn về đánh đập mẹ con chị B. Đêm 29/7,
sau khi đi nhậu về, A tiếp tục đánh đập, chửi bới chị B rồi vứt quần áo đuổi
hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão. Như vậy, A đã có

46
hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi người lệ thuộc
mình là mẹ con chị B.
+ Hậu quả: chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát
+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi đánh đập, đuổi mẹ con chị B ra khỏi nhà
của A là nguyên nhân trực tiếp khiến chị B bế con ra sông tự sát do quá
tuyệt vọng.
+ Chủ thể: A có đầy đủ năng lực TNHS, giữa A và mẹ con chị B có mối quan
hệ lệ thuộc; trong trường hợp này là quan hệ gia đình.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi vô ý. Vì A thường thực hiện hành vi đánh đập mẹ con chị B sau khi
nhậu nhẹt say xỉn về, và không có ý mong muốn hậu quả xảy ra.

B phạm tội giết người (Điều 123 BLHS) với tình tiết định khung tăng nặng giết
người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm b khoản 1

- Khách thể: tính mạng của C


- Đối tượng tác động: C - con người đang sống (lúc này đã 8 tháng tuổi nên loại bỏ
trường hợp chị B phạm Tội giết con mới đẻ tại Điều 124 BLHS)
- Mặt khách quan
+ Hành vi: chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát.
+ Hậu quả: C chết
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của chị B bế con ra
bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát là nguyên nhân trực tiếp khiến
cháu C tử vong
- Chủ thể: B có đầy đủ năng lực TNHS
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi cố ý trực tiếp. B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. B nhận thức
được hành vi của mình là nguy hiểm cho cháu C và thấy được hậu quả là
cháu C sẽ chết nhưng vẫn mong muốn thực hiện.

47
+ Tình tiết tăng nặng: giết con dưới 16 tuổi (cháu C 8 tháng tuổi)

→ làm đúng

Bài tập 20
Trường hợp 1:
Trường hợp này A sẽ phải chịu TNHS cho Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
( Điều 131 BLHS)
Tội phạm này bao gồm những dấu hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm: cả A và B đều bàn nhau cùng tự tử nên cả 2 đều xâm
phạm đến tính mạng của người còn lại.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: trong trường hợp này hành vi của A là hành vi giúp người
khác tự sát, cụ thể A đã giúp B trói người lại. Hành vi khách quan của A đóng vai
trò làm điều kiện để B có thể tự sát.
+ Hậu quả của tội phạm: trong tội phạm này hậu quả không đóng vai trò cấu thành
nên tội phạm, nên chỉ cần nạn nhân đã tự tử bất kể có thành hay không, có chết
hay không đều cấu thành nên tội phạm này.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi: cố ý trực tiếp. Dù A biết rõ hậu quả của hành vi giúp sức cho B tự tử có thể
khiến B tử vong nhưng A vẫn mong muốn và để mặc cho hậu quả đó xảy ra
+ Chủ thể của tội phạm: người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS

Trường hợp 2:
Tội giết người ( điều 123 BLHS ) bao gồm những dấu hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm: tính mạng của B
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: tước bỏ trái phép tính mạng của người khác. Trong tình
huống này đối tượng A đã trói chặt nạn nhân theo ý muốn của nạn nhân và dù đối

48
tượng A đã làm theo yêu cầu là đẩy nạn nhân B xuống sông theo yêu cầu của nạn
nhân B vẫn bị xem là tước đoạt tính mạng của người khác trái phép.
+ Hậu quả: nạn nhân B chết
+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi trói quá chặt nạn nhân và đẩy nạn nhân B xuống
sông là nguyên nhân tất yếu đưa hậu quả nạn nhân tử vong
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: cố ý trực tiếp
+ Chủ thể của tội phạm: có hai dấu hiệu là có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Theo Điều 12 BLHS thì tuổi chịu TNHS của tội phạm này là từ đủ 14 tuổi trở lên.
Hành vi của A thoả mãn Tội giết người căn cứ theo Điều 123 BLHS 2015
Bài tập 21
Xét các dấu hiệu pháp lý của B căn cứ tại điều 123
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm là tính mạng của ông K
+ Đối tượng tác động là ông K - Người đang sống
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan là “Tước bỏ trái phép mạng sống người khác” thể hiện
qua việc B mang xi lanh và và thuốc độc đến tiêm cho ông K
+ Hậu quả: Ông K chết
- Chủ thể: là B người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi: Cố ý trực tiếp
+ Động cơ: Vì mục đích nhân đạo, giúp ông K kết thúc sự sống sớm hơn
Việc anh B lợi dụng việc mình là y tá, có kiến thức am hiểu về thuốc, và tiêm thuốc độc
cho ông K là cấu thành tăng nặng quy định tại điểm k khoản 1 điều 123 , tuy động cơ
thực hiện tội phạm là vì mục đích nhân đạo, nhưng đông cơ không phải là dấu hiệu định
tội bắt buộc của tội giết người. Do vậy, việc định tội danh về tội giết người không phụ
thuộc vào động cơ giết người là gì, thậm chí là vì lý do nhân đạo như muốn giúp nạn
nhân sớm giải thoát khỏi sự đau đớn về thể xác do nạn nhân mắc bệnh hiểm nghèo

49
Có thể áp dụng kh2 d8 để ko truy cứu TNHS với B đc ko?
Tùy đánh giá HĐXX trg vụ án cụ thể.
Th này, chưa đủ dữ liệu để kết luận ko đáng kể. Để áp dụng kh3 d8, phải có thêm cơ sở
chứng minh.
(K2đ8 nói rằng có dấu hiệu về hành vi nhưng hậu quả k đáng kể)
Pl VN ko cho gây ra cái chết kể cả khi yêu cầu

Bài tập 22
A. Tình huống 1: A đứng yên trên bờ chờ B chết rồi bỏ đi. B chết vì ngạt nước
Theo nhận định của nhóm em, hành vi của A cấu thành Tội không cứu giúp người đang ở
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo quy định tại điều Điều 132 BLHS 2015,
xem xét các cấu thành của tội phạm:
- Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội này người có năng lực trách nhiệm hình sự, đuổi tuổi chịu TNHS và phải
là người có đủ điều kiện để cứu giúp người bị nạn: xét thấy ông A có năng lực trách
nhiệm hình sự đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS, ngoài ra, xem xét về mặt có “đủ điều kiện
để cứu giúp”, ông A mặc dù không biết bơi, nhưng CÓ dụng cụ là cây gậy dài, hoàn toàn
có thể đưa cây gậy dài này xuống nước để cứu giúp ông B, thế nhưng ông A lại để mặc
và đứng yên trên bờ chờ ông B chết do ngạt nước, hoàn toàn có đủ điều kiện để cứu giúp
hoặc kêu gọi sự cứu giúp từ người khác xung quanh.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý gián tiếp: nhận biết rõ hậu quả có thể xảy ra là
ông B có thể chết do ngạt nước nhưng vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra. Ông A vì lý do
mâu thuẫn cá nhân với ông B mà không hành động cứu giúp.
- Khách thể của tội phạm:
Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đã gián tiếp xâm phạm đến
tính mạng của người khác. Do đó khách thể trực tiếp của tội phạm này là quyền được
sống, được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Trong trường hợp này, người phạm tội đã

50
không tuân thủ xử sự cứu giúp người khi họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng. Ở đây, là tính mạng của ông B, đối tượng tác động chính là ông B - người đang
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng vì sắp chết đuối
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi: hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi không hành động
phạm tội. Ở đây, người phạm tội đã không thực hiện hành vi cứu giúp
người khác mặc dù có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này.
Ông A vì lý do mâu thuẫn cá nhân với ông B mà không hành động cứu
giúp.
+ Hậu quả: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng là tội có cấu thành vật chất hậu quả chết người là dấu hiệu bắt
buộc của tội phạm này. Hậu quả đã xảy ra ở đây là ông B đã chết do ngạt
nước với mối quan hệ nhân quả trực tiếp từ nguyên nhân là hành vi không
hành động cứu giúp của ông A.

Căn cứ vào các dấu hiệu trên, hành vi của ông A cấu thành Tội không cứu giúp người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo quy định tại khoản 1 Điều 132
BLHS 2015

B. Tình huống 2: Ông B gần chết do ngạt nước thì có ông C nhảy xuống cứu ông
B, ông B được cứu sống

Căn cứ theo các phân tích ở tình huống 1: cấu thành mặt khách quan của Tội không cứu
giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo quy định tại điều Điều
132 BLHS gồm dấu hiệu hậu quả bắt buộc của cấu thành vật chất là người đang trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đó phải chết. Thế nên, ở tình huống này, hành vi của
ông A không thể cấu thành tội phạm này.

51
Ngoài ra, BLHS cũng không quy định một tội phạm riêng nào đối với hành vi không cứu
giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà không dẫn đến hậu quả là người
đó chết.

Bài tập 23

- Hành vi của N đã phạm phải tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng (Điều 132 BLHS).

- Về Khách thể:

+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm là tính mạng của một cậu bé trong đám trẻ.

+ Đối tượng tác động là cậu bé đang trong tình trạng ngụp lặn như sắp chết đuối.

- Về mặt khách quan:

+ Hành vi: Ở đây, ông N nghe thấy những đứa trẻ kêu cứu người chết đuối, và chính ông
N cũng thấy có người đang ngụp lặn như sắp chết đuối lúc sáng nhưng vì nghĩ mình bị
lừa nên ông N đã bỏ đi luôn. Tuy là bị lừa nhưng rõ ràng vào thời điểm xảy ra vụ việc,
ông N cũng đã chính mắt thấy có người ngụp lặn như sắp chết đuối.

+ Hậu quả: Một cậu bé bị chết đuối

- Về chủ thể:

+ Ông N là chủ thể có đầy đủ TNHS và đạt độ tuổi luật định.

- Về mặt chủ quan:

+ Lỗi: Cố ý gián tiếp

52
Bài tập 24
TH1: Thương tích gây ra cho C có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 27%

M phạm Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS)

- Khách thể: quyền được bảo vệ sức khoẻ của C


- Đối tượng tác động: C
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: Khi bị C và Đ tấn công thì lúc đó, M sẵn có trong tay một cây
kiếm (M mang theo người dùng để phát cành cây bảo vệ đường dây điện)
chống cự lại. C và Đ bỏ chạy. M đuổi theo chém nhiều nhát từ phía sau
lưng của C
+ Hậu quả: C bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 27%
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của M là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại thể chất cho C
- Chủ thể: M có đầy đủ năng lực TNHS và đạt tuổi chịu TNHS
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp

TH2: Thương tích gây ra cho M có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 8%, thương tích gây ra
cho C có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 51%

Vì M có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 8% và không thuộc các trường hợp gây thương tích
dưới 11% quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 nên không cấu thành Tội cố ý gây
thương tích cho C.

C có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 51%. M thực hiện hành vi chém vào lưng C khi C và Đ bỏ
chạy nên không có cơ sở để phát sinh quyền phòng vệ chính đáng cho M.

M phạm Tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135
BLHS)

53
- Khách thể: quyền được bảo vệ sức khoẻ của C
- Đối tượng tác động: C
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: Khi bị C cầm 1 thanh sắt và Đ cầm 1 thanh gỗ chạy xông vào
đánh vào người M thì lúc đó, M sẵn có trong tay một cây kiếm chống cự
lại. C và Đ bỏ chạy. M đuổi theo chém nhiều nhát từ phía sau lưng của C.
Như vậy, M thực hiện hành vi gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của C và Đ đã xâm
hại đến M.
+ Hậu quả: C bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 51%
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của M là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại thể chất cho C
- Chủ thể: M có đầy đủ năng lực TNHS
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý
-

Bài tập 25
Hành vi của T cấu thành nên tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi. Căn cứ pháp lý: Điểm e
Khoản 2 Điều 153 BLHS
Dấu hiệu pháp lý của tội phạm như sau:
- Khách thể của tội phạm: xâm phạm đến nhân phẩm và sự phát triển bình thường
của cháu bé 3 tuổi.
- Đối tượng tác động: người dưới 16 tuổi - cháu bé 3 tuổi
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: hành vi của T chiếm giữ cháu bé 3 tuổi,
+ Thủ đoạn phạm tội: T đã cho cháu bé kẹo sau đó rủ cháu bé đi theo và đưa cháu bé
vào thành phố HCM
- Mặt chủ quan của tội phạm:

54
+ Lỗi: cố ý
- Chủ thể của tội phạm: T là người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS

Trong trường hợp này T cũng phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ( Điều 134 BLHS )
Căn cứ pháp lý Điểm c Khoản 1, Điểm c Khoản 3 Điều 134 BLHS
Dấu hiệu định tội của tội phạm này như sau:
- Khách thể của tội phạm: sức khỏe của cháu bé 3 tuổi
- Mặt khách quan của tội phạm: đây là tội phạm có cấu thành vật chất nên sẽ bao
gồm những dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan: đối tượng T đã có hành vi tác động trái phép lên cháu bé 3
tuổi gây thiệt hại về sức khỏe cháu bé. Cụ thể T đã có hành vi dùng tay đánh vào
đầu cháu bé, bẻ gãy chân trái cháu bé, bẻ gãy tay cháu bé, rạch mặt nhiều nơi, cắt
môi, đánh đập dã man cháu bé.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: cháu bé 3 tuổi bị thương tích và tổn hại về sức
khỏe. Để cấu thành nên tội phạm này thì tỷ lệ tổn thương cơ thể phải đạt từ 11%
trở lên, trong trường hợp này thỏa điều kiện vì cháu bé phải gánh chịu tỷ lệ tổn
thương cơ thể là 55%
+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi của đối tượng T là nguyên nhân gây ra thương tích
và tổn hại về sức khỏe của cháu bé 3 tuổi
- Mặt chủ quan của tội phạm;
+ Chủ thể của tội phạm: đối tượng T là người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi
chịu TNHS với hành vi của mình
+ Lỗi: cố ý. Đối tượng T tuy có đầy đủ nhận thức, dù biết rõ hành vi của mình gây
tổn hại đến sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Bằng
chứng ở chỗ T đã dùng tay đánh vào đầu cháu bé đến chảy máu với mục đích
khiến cháu bé bị thương để xin được nhiều tiền hơn.
Đối với hành vi “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi” thì tội phạm đã hoàn thành kể từ
thời điểm T bắt cháu bé 3 tuổi đi. Giả sử thời điểm đó T bị bắt giữ thì phải chịu trách

55
nhiệm về hành vi “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi”. Sau đó T gây thương tích cho
cháu bé 3 tuổi nhằm mục đích để cháu đi ăn xin, hành vi này cấu thành tội “Cố ý gây
thương tích”. Như vậy, hành vi khách quan nêu trên của T đã thỏa mãn dấu hiệu của
cấu thành tội hai tội độc lập.

Bài tập 26
A phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng dẫn đến chết người (theo quy
định tại điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS 2015)
- Khách thể:
+ Quan hệ bị xâm phạm là sức khỏe của người khác - Ông X
+ Đối tượng tác động là ông X
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan là “ Tác động trái phép đến thân thể người khác” thể
hiện qua việc A xông vào đánh và đạp ông X bật ngửa xuống nền nhà và
chấn thương sọ não
+ Hậu quả: Ông A bị chấn thương sọ não dẫn đến chết
- Chủ thể: là A người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi: hỗn hợp lỗi (cố ý với hành vi đánh đập ông X) và vô ý với hậu quả là
ông X chết)
+ Động cơ giết người: Do thù hận A vì lý do công vụ của ông A
Như vậy A thỏa mãn các cấu thành tội phạm và điều 134 và thỏa mãn cấu thành tăng
nặng căn cứ tại điểm a khoản 4 điều luật này.

Bài tập 27
Theo phân tích từ những dữ kiện đã cho, hành vi của cả A và B đều phạm tội theo các
quy định trong BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017.

56
Xét thấy: Hậu quả đã xảy ra là X đã chết, giám định pháp y cho thấy nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến tử vong là do trụy tim mạch cấp do vỡ tim, đây là do mối quan hệ nhân quả
từ nguyên nhân là do hành vi của B ném viên gạch trúng vào vị trí ngực của X, ngoài ra,
hành vi bắn ná cao su của A trúng vào vị trí trán của X đã gây tỉ lệ tổn thương cơ thể
12%.

1. Phân tích hành vi của B trước: Hành vi của B không thỏa mãn các dấu hiệu giảm nhẹ
theo các cấu thành quy định tại các Điều 124, 125, 126 BLHS 2015 nên ta xét các dấu
hiệu cấu thành Tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015
Xét các dấu hiệu cấu thành tội phạm:
- Mặt chủ thể: B có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)
- Mặt khách thể: đối tượng tác động là X, xâm phạm đến tính mạng của X
- Mặt chủ quan:
Lỗi: Cố ý gián tiếp: thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra là X sẽ
chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Mặt khách quan:
Hành vi: hành vi ném gạch của B vào vùng ngực của X - một trong những vùng trọng yếu
của cơ thể, có nguy cơ dẫn đến sự nguy hiểm cao đối với tính mạng, chính vì thể không
thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo quy định tại Điều 134 BLHS.
Hậu quả: X chết do bị trụy tim mạch cấp do vỡ tim do tác động từ việc ném viên gạch
vào vùng ngực
Mối quan hệ nhân quả: hành vi của B là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của X

Căn cứ vào những dấu hiệu trên, hành vi của B cấu thành Tội giết người theo quy định tại
Điều 123 BLHS 2015, ngoài ra còn có thể xem xét đến tình tiết tăng theo quy định tại
khoản 1 Điều 123 BLHS: “n) Có tính chất côn đồ” do đây là trường hợp giết người với
tính hung hãn cao độ, coi thường tính mạng của người khác. B có thể bị truy cứu TNHS

57
về tội danh này với các hình phạt được quy định là: “phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình”

2. Phân tích các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với hành vi của A: Hành vi của A không
có mối quan hệ nhân quả đối với cái chết của X, không phải là nguyên nhân dẫn đến hậu
quả là X chết. Thế nên, hành vi của A không thể cấu thành Tội giết người theo quy định
tại Điều 123 BLHS 2015 với dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả là cấu thành bắt
buộc của tội danh này. Thế nhưng hành vi sử dụng ná cao su để bắn vào vùng trán của X
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tổn thương cơ thể tỉ lệ 12% theo giám định pháp y (lúc
tác động đến thân thể của X, X còn sống).
Xét các cấu thành theo quy định tại Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017
về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
- Mặt chủ thể: A có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)
- Mặt khách thể: đối tượng tác động là X, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe của X
- Mặt chủ quan:
Lỗi: Cố ý trực tiếp đối với việc xâm phạm đến sức khỏe, thân thể của X: thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Mặt khách quan:
Hành vi: sử dụng ná cao su nhằm tác động trái phép đến thân thể, sức khỏe của X
Hậu quả: X bị tổn thương cơ thể với tỉ lệ 12% (Thỏa mãn cấu thành vật chất tội phạm này
về mặt hậu quả theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung
2017)
Căn cứ vào những dấu hiệu trên, hành vi của A cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi
và bổ sung năm 2017. Ngoài ra, ngoài ra còn có thể xem xét đến tình tiết tăng theo quy
định tại khoản 2 Điều 134 BLHS với tình tiết: “Có tính chất côn đồ” do đây là trường hợp
cố ý tác động đến thân thể, sức khỏe của người khác với tính hung hãn cao độ, coi thường

58
sức khỏe, tính mạng của người khác. A có thể bị truy cứu TNHS về tội danh này với các
hình phạt được quy định là: “phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”.

Bài tập 28
Trong trường hợp này A, T và H phạm tội.
- Tội danh mà A đã phạm là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Điều 125, BLHS).
Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội này:
Dấu hiệu pháp lý:
- Khách thể: tính mang, quyền được sống của H.
- Đối tượng tác động: H – con người đang sống.
- Mặt khách quan
+ Hành vi: A lấy con dao lao từ phòng trọ ra đâm vào lưng H vì xót vợ.
+ Có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng từ T và H: T và H lấy nón bảo hiểm đập vào
đầu A, gây nguy hiểm cho A. T và H đấm đá vào B là vợ A và đang mang thai.
+ Hành vi trái pháp luật này nhằm vào vợ của A là B và cả A.
+ Hậu quả làm H tự vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân
trực tiếp khiến H tử vong.
- Chủ thể A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi cố ý trực tiếp

- Tội danh mà T và H đã phạm là Tội cố ý gây thương tích (Điều 134, BLHS).
Hành vi của T và H đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội cố ý gây thương tích:
Dấu hiệu pháp lý:
- Khách thể: tính mang, quyền được sống của B.
- Đối tượng tác động: B – con người đang sống.
- Mặt khách quan
+ Hành vi: T và H đã có hành vi lấy nón bảo hiểm đập vào đầu A và lao vào đấm đá chị
B .Như vậy, T và H đã có hành vi cố ý gây thương tích cho chị B và anh A.
- Hậu quả: chị B bị tổn thương cơ thể 27%, đủ yếu tố cấu thành Tội cố ý gây thương tích
(trên 11%).

59
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của T và H là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến việc chị B bị tổn thương cơ thể 27% và bị sẩy thai
- Chủ thể: T và H là chủ thể thường ( Đủ tuổi luật định và có TNHS đầy đủ).
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.

Bài tập 29
- Trong tình huống trên, A là người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Đ.145 BLHS)
- Dấu hiệu pháp lý:
- Về khách thể:
+ Khách thể bị xâm phạm là quan hệ xã hội về sự phát triển bình thường về thể chất, tâm
sinh lý của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+Đối tượng tác động là B (chỉ mới 15 tuổi 6 tháng).
- Về mặt khách quan:
+ Hành vi: A đã có quan hệ tình dục với B khi B chỉ mới 15 tuổi và 6 tháng và khiến B có
thai
- Về mặt chủ quan:
+ Lỗi cố ý trực tiếp. A phải có ý thức là B chỉ mới 15 tuổi và 6 tháng nên việc quan hệ
tình dục với B vi phạm luật này. Tuy nhiên nếu như vì lí do khách quan mà A không biết
được B chưa đủ 16 tuổi thì hành vi này không cấu thành tội phạm.
- Về chủ thể:
+ A là chủ thể thường ( Có đủ TNHS và đủ tuổi luật định).

Bài tập 30
Xem xét những tình huống trên trong hai trường hợp:
1. A thực hiện hành vi giao cấu với B khi không có sự thỏa thuận, đồng ý từ cả hai
bên, nghĩa là giao cấu với B trái với ý muốn của B:
A. B 12 tuổi
Ở trường hợp này vì B dưới 13 tuổi nên dù có sự đồng ý từ B hay không, thì hành vi này
cũng được quy định tại Điều 142 BLHS 2015 với tội danh hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Xét hành vi của A với các quy định cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo
quy định tại Điều 142 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017.

60
Xét các dấu hiệu cấu thành tội phạm:
- Về khách thể:
Tội phạm này xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người, quyền tự do và bất khả
xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi, xâm phạm đến quá trình phát triển và sức
khỏe của trẻ em. Ở đây, hành vi của A xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự
do và bất khả xâm phạm về tình dục của B. B 12 tuổi, là người dưới 13 tuổi.
- Mặt khách quan:
Hành vi: Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
- Mặt chủ quan:
Lỗi: cố ý trực tiếp
- Mặt chủ thể:
A (17 tuổi) có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)

Ngoài ra, hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân của A đã dẫn đến hậu quả là B có
thai. Đây thuộc một trong những tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 142
BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017: “b) Làm nạn nhân có thai”, A có thể bị truy
cứu TNHS với các hình phạt theo quy định là: “Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm”, kết hợp
cùng với việc xem xét truy cứu và xử lý theo quy định tại các Điều 90 và 91 BLHS 2015
với các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

B. B 15 tuổi
Xét hành vi của A với các quy định cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo
quy định tại Điều 142 BLHS 2015.
- Về khách thể:
Tội phạm này xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người, quyền tự do và bất khả
xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi, xâm phạm đến quá trình phát triển và sức
khỏe của trẻ em. Ở đây, hành vi của A xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự
do và bất khả xâm phạm về tình dục của B. B 15 tuổi, là người từ 13 tuổi - 16 tuổi.
- Mặt khách quan:

61
Hành vi: Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của nạn nhân
- Mặt chủ quan:
Lỗi: cố ý trực tiếp
- Mặt chủ thể:
A (17 tuổi) có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)

Ngoài ra, hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân của A đã dẫn đến hậu quả là B có
thai. Đây thuộc một trong những tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 142
BLHS 2015: “b) Làm nạn nhân có thai”, kết hợp cùng với việc xem xét truy cứu và xử
lý theo quy định tại các Điều 90 và 91 BLHS 2015 với các quy định đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.

C. B 17 tuổi
Xét hành vi của A với các quy định cấu thành của Tội hiếp dâm theo quy định tại Điều
141 BLHS 2015
Xét các dấu hiệu cấu thành tội phạm:
- Về khách thể:
Tội phạm này xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người. Ở đây, hành vi của A
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của B.
Đối tượng tác động: B 17 tuổi
- Mặt khách quan:
Hành vi: Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn
nhân
- Mặt chủ quan:
Lỗi: cố ý trực tiếp
- Mặt chủ thể:

62
A (17 tuổi) có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)

Ngoài ra, hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân của A đã dẫn đến hậu quả là B có
thai. Đây thuộc một trong những tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 141
BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017: “b) Làm nạn nhân có thai”, A có thể bị truy
cứu TNHS với các hình phạt theo quy định là: “Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm”, kết hợp
cùng với việc xem xét truy cứu và xử lý theo quy định tại các Điều 90 và 91 BLHS 2015
với các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

2. A thực hiện hành vi giao cấu với B khi đã có sự thỏa thuận, đồng ý từ cả hai bên.

A. B 12 tuổi
Giống như phân tích ở Tình huống 1.
B. B 15 tuổi
Xét thấy: B 15 tuổi, thuộc đối tượng trên 13 tuổi dưới 16 tuổi. B đã có sự đồng ý, thỏa
thuận trong việc giao cấu với A nên không thể cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
theo quy định tại Điều 142 BLHS 2015 và A 17 tuổi nên không thể cấu thành Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi theo quy định tại Điều 145 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung 2017 với cấu thành chủ
thể đặc biệt là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Ngoài ra, BLHS cũng không có quy định tội
danh nào khác đối với hành vi này của A.
C. B 17 tuổi
Xét thấy: B 17 tuổi và có sự đồng ý, thỏa thuận trong việc giao cấu với A, thuộc đối
tượng người trên 16 tuổi, BLHS cũng không có quy định tội danh nào khác đối với hành
vi này của A.

63
Bài tập 31
A và B đều phạm Tội mua bán người 16 tuổi và Tội mua bán người căn cứ theo Điều 150 và Điều 151
BLHS 2015
*Đối với A:
Căn cứ điều 151 BLHS 2015
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự
+ Đối tượng tác động: Người dưới 16 tuổi không phụ thuộc giới tính ( X )
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Chuyển giao X cho B để nhận tiền
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi cố ý trực tiếp
- Chủ thể: là A người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Tình tiết tăng nặng: Đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
Căn cứ điều 150 BLHS 2015
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự
+ Đối tượng tác động: Người từ 16 tuổi trở lên không phụ thuộc giới tính
(Y)
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Chuyển giao Y cho B để nhận tiền
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi cố ý trực tiếp
- Chủ thể: là A người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Tình tiết tăng nặng: Đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam

64
=> Như vậy hành vi của A đủ cấu thành nên 2 tội phạm ở điểm d khoản 2 điều 150 và
điểm đ khoản 2 điều 151 BLHS
*Đối với B:
Căn cứ điều 151 BLHS 2015
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự
+ Đối tượng tác động: Người dưới 16 tuổi không phụ thuộc giới tính ( X )
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Tiếp nhận X cho từ A để giao tiền
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi cố ý trực tiếp
- Chủ thể: là B người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Tình tiết tăng nặng: Đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
Căn cứ điều 150 BLHS 2015
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự
+ Đối tượng tác động: Người từ 16 tuổi trở lên không phụ thuộc giới tính
(Y)
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Tiếp nhận Y từ A để giao tiền
- Mặt chủ quan của tội phạm
+ Lỗi cố ý trực tiếp
- Chủ thể: là B người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
- Tình tiết tăng nặng: Đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
Căn cứ điều 329
- Khách thể:

65
+ Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ cụ thể khách thể ở đây là xâm
phạm trật tự công cộng.
+ Đối tượng tác động là: Người từ 16 đến 18 tuổi (Y) và Người từ 13 tuổi đến
16 tuổi (X)
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan:Là hành vi tiếp cận, hướng dẫn người mua dâm, người
bán dâm thực hiện hành vi mại dâm
- Chủ thể: Người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS (B)
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi cố ý trực tiếp

=> Như vậy hành vi của A đủ cấu thành nên 2 tội phạm ở điểm d khoản 2 điều 150 và
điểm đ khoản 2 điều 151 BLHS và Tội phạm có cấu thành tăng nặng quy định tại điểm
a,đ khoản 2 và điểm a khoản 3 điều 329
*Lưu ý: B có thể vẫn phải chịu TNHS đối với tội phạm của mình theo Pháp luật Việt
Nam vì căn cứ khoản 2 điều 6 BLHS 2015: Người nước ngoài ở ngoài lãnh thổ nước
Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS
2015 trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền,lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam

Bài tập 32
Hành vi của A là phạm tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi ( điều 153 BLHS )
Để cấu thành nên tội phạm này bao gồm những dấu hiệu pháp lý sau:
- Đối tượng tác động: người dưới 16 tuổi; ở đây là đứa con 3 tháng tuổi của chị C
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: A đã có hành vi chuyển dịch, chiếm giữ trái phép cháu bé 3
tháng tuổi ra khỏi nơi quản lý của gia đình chị C. Thủ đoạn A đã dùng như sau:
nhân cơ hội chị C không có ở nhà, trong nhà chỉ có con gái lớn của chị C đang ở

66
nhà trông em, A đã cho cháu bé tiền để mua kẹo sau đó lợi dụng để đưa cháu bé 3
tháng tuổi đi.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Chủ thể của tội phạm: A là người có đầy đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS.
+ Lỗi: cố ý
Kết luận, hành vi của A đã thỏa mãn đủ các điều kiện dấu hiệu pháp lý để cấu thành Tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi. Căn cứ pháp lý: Điều 153 BLHS

Bài tập 33
A và B phạm Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169, BLHS).

- Khách thể: xâm phạm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do thân thể của X
- Đối tượng tác động: tài sản của X và X
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: Sau khi tìm thấy anh X tại đường, các đối tượng đã ép anh X lên
xe, đưa về nhà A. Sau đó, A gọi điện cho gia đình anh X đe dọa, yêu cầu
giao nộp 20 triệu đồng.
- Chủ thể: A và B có đầy đủ năng lực TNHS
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ: xuất phát từ việc anh X vay của A 20
triệu đồng đã đến hạn mà không chịu thanh toán còn có hành vi trốn tránh chủ nợ.
A và B bắt anh X là để ép anh X phải trả nợ.

67
Bài tập 34
Trong trường hợp này, H vẫn có hành vi phạm tội thoả mãn cấu thành của Tội giao cấu
và thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được
quy định theo Điều 145.
- Chủ thể: H ( nam, 25 tuổi)
- Khách thể : xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
- Mặt khách quan: hành vi giao cấu của H (25 tuổi) với M( 14 tuổi) được thực hiện
trên cơ sở thuận tình của M
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý. H biết việc quan hệ tình dục là trái pháp luật; có thể dựa
vào ngoại hình, hỏi tuổi hoặc hỏi về căn cước công dân của M trong giai đoạn 1
tuần tìm hiểu của H và M.

Bài tập 35
- Trước hết, theo điểm b khoản 2 Điều 157 BLHS 2015, A và B phạm Tội bắt giữ
người trái pháp luật vì hành vi của A và B thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội này như sau:

- Khách thể:

+ Khách thể: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại của X.

+ Đối tượng tác động: con người đang sống - X.

- Mặt khách quan:

+ Hành vi: A và B là tổ viên bảo vệ dân phố đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để bắt, giữ X trái pháp luật, cụ thể vì X thực hiện vụ gây rối và hủy hoại tài sản tại khu
phố K nên A và B là tổ viên bảo vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự; thay vì xử
lý vụ việc đúng quyền hạn thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không thông
báo cho cơ quan có thẩm quyền biết.

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.

+ Về lý trí: A và B nhận thức rõ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ X trái
pháp luật của mình là xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của X.

68
+ Về ý chí: A và B vẫn thực hiện hành vi.

- Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này chủ thể thường
(có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đạt độ tuổi quy định)

● Lưu ý:
- Điều 157 BLHS 2015 thể hiện ở hành vi của người không có thẩm quyền mà
pháp luật cho phép đã có hành vi bắt người trái pháp luật, giữ người trái
pháp luật hoặc giam người trái pháp luật. Hành vi ở tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật ở phạm vi rộng hơn. Ngoài hành vi giam, giữ còn có hành vi
bắt người trái pháp luật.
- Điều 377 BLHS 2015 thể hiện ở hành vi không ra quyết định trả tự do cho
người được trả tự do, nghĩa là người đã hết thời hạn tạm giam, tạm giữ hoặc đã
chấp hành xong hình phạt tù mà người có quyền ra các quyết định trả tự do đã cố
tình không ra quyết định trả tự do cho họ, hoặc không áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác khi có đủ căn cứ xác định việc áp dụng biện pháp tạm giam không còn
cần thiết nữa.
→ Trường hợp này không thuộc hành vi cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
giam, giữ người dù A và B có là người có chức vụ, quyền hạn.

1. X bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%.

- Theo điểm e khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, ở trường hợp trên, A và B phạm Tội cố ý
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại vì hành vi của A và B thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này như sau:

- Khách thể

+ Khách thể: quyền được bảo vệ sức khỏe của X (sức khỏe của X).

+ Đối tượng tác động: con người đang sống - X.

- Mặt khách quan:

69
+ Hành vi: A và B đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây tổn hại cho sức
khỏe của X, cụ thể vì X thực hiện vụ gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K nên A và
B là tổ viên bảo vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự; thay vì xử lý vụ việc đúng
quyền hạn thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không thông báo cho cơ
quan có thẩm quyền biết; tiếp đó, A và B đã đánh X chấn thương.

+ Hậu quả: X ngất xỉu, bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của A và B cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của X là nguyên nhân trực tiếp khiến X ngất
xỉu, bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%.

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp:

+ Về lý trí: A và B nhận thức rõ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây tổn hại cho
sức khỏe của X có thể khiến X bị thương nặng;

+ Về ý chí: A và B vẫn thực hiện hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra.

- Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này chủ thể thường
(có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đạt độ tuổi quy định.

2. X bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%.

- Theo điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS 2015, ở trường hợp trên, A và B phạm Tội
cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại vì hành vi của A và B thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này như sau:

- Khách thể

+ Khách thể: quyền được bảo vệ sức khỏe của X (sức khỏe của X).

+ Đối tượng tác động: con người đang sống - X.

- Mặt khách quan:

70
+ Hành vi: A và B đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây tổn hại cho sức
khỏe của X, cụ thể vì X thực hiện vụ gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K nên A và
B là tổ viên bảo vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự; thay vì xử lý vụ việc đúng
quyền hạn thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không thông báo cho cơ
quan có thẩm quyền biết; tiếp đó, A và B đã đánh X chấn thương.

+ Hậu quả: X ngất xỉu, bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của A và B cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của X là nguyên nhân trực tiếp khiến X ngất
xỉu, bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%.

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp:

+ Về lý trí: A và B nhận thức rõ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý gây tổn hại cho
sức khỏe của X có thể khiến X bị thương nặng.

+ Về ý chí: A và B vẫn thực hiện hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra.

- Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này chủ thể thường
(có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đạt độ tuổi quy định.

Bài tập 36

Theo điểm b khoản 1 Điều 158, A phạm Tội xâm phạm chỗ ở của người khác vì hành vi
của A và B thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này như sau:

- Khách thể:

+ Khách thể: quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.

+ Đối tượng tác động: chỗ ở, nhà ở của X và Y.

- Mặt khách quan:

+ Hành vi: A, B, C kéo người tới đuổi Y khỏi chỗ ở của Y.

+ Hậu quả: Y bị đuổi ra đường, mất chỗ ở.

71
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:

- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp.

+ Về lý trí: A, B, C nhận thức rõ hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác là trái pháp
luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

+ Về ý chí: A, B, C vẫn thực hiện hành vi.

- Chủ thể: A, B, C thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này chủ thể thường
(có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đạt độ tuổi quy định.

Bài tập 37

Cơ sở pháp lý: Điều 185, 134 BLHS 2015

A có 2 hành vi:

1) Hành vi nhiều lần đánh đập B của A vi phạm Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185 BLHS 2015) do
thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý:

- Khách thể:

+ xâm phạm nghiêm trọng nghĩa vụ có tính chất đạo lý giữa những người thân trong gia
đình.

+ sức khỏe, danh dự, phẩm giá của đối tượng bị xâm hại là chị B.

- Mặt khách quan: A đã có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể của B – nhiều lần
đánh đập B.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

- Chủ thể:

72
+ A có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

+ Là người thân thích (chồng) của B.

2) Hành vi trong lần cãi vã của A vi phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS 2015) do thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý:

- Khách thể: sức khỏe của chị B

- Mặt khách quan: hành vi dùng dao lam rạch lên người B, đổ cồn lên đốt dẫn đến
hậu quả B bị bỏng vùng lưng, vùng hông đã nhiễm trùng với tỷ lệ tổn thương cơ thể
20%.

- Mặt chủ quan: lỗi cố ý

- Chủ thể: A có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Cơ sở pháp lý: Điều 134 BLHS, khoản 1 Điều 185 BLHS


Khách thể: A đã xâm hại đến:
- sức khoẻ của B
- tính chất đạo lý giữa những người thân trong gia đình
- danh dự, phẩm giá của B
Chủ thể:
- vì đề bài không đề cập gì nên A và B được xem là người có đầy đủ năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
- A là chồng của B
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: A đã nhiều lần đánh đập B, dùng dao lam rạch lên người B
rồi đổ cồn lên đốt
- Hậu quả: B bị nhiều vết bỏng ở vùng lưng và vùng hông đã bị nhiễm trùng với tỷ
lệ tổn thương cơ thể là 20%

73
Mặt chủ quan:
- Lỗi: lỗi cố ý trực tiếp

Bài tập 38

Theo nhóm, hành vi của A và B có phạm tội.

Trong trường hợp này, A có phạm tội theo quy định của Điều 145 về Tội giao cấu với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

- Chủ thể: A 21 tuổi; người có năng lực TNHS đầy đủ và đủ tuổi chịu TNHS
- Khách thể: xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
- Mặt khách quan: Hành vi giao cấu cấu của A và B được thực hiện trên cơ sở thuận
tình của B .
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý. A biết rõ tuổi của B, ý thức được hành vi của mình là trái
pháp luật nhưng vẫn thực hiện dẫn đến việc B mang thai.
Ở đây, tình tiết định khung của tội này có tính chất loạn luân và làm nạn nhân có thai.

Như vậy, A thỏa các điều kiện để cấu thành Tội giao cấu với người từ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 145) với tình tiết định khung tăng nặng là có tính chất loạn luân và làm nạn
nhân có thai.

74

You might also like