You are on page 1of 9

Đề bài: Có thể nói La Mã đã phát triển tương đối hoàn thiện chế định vật quyền hay quyền

đối
vật với các quy định cụ thể về từng loại vật quyền – real rights hay rights in term. Phân tích

Mục lục
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT QUYỀN TRONG LUẬT TƯ LA
MÃ VÀ SỰ TIẾP NHẬN VẬT QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ:..........................................3
1.1. Khái quát chung về Luật tư La Mã:..........................................................................................3
1.2. Vật quyền trong luật La Mã......................................................................................................3
1.2.1. Phân loại vật quyền trong Luật La Mã :............................................................................4
1.2.2. Bảo vệ vật quyền :.............................................................................................................4
Chương 2: CHẾ ĐỊNH VẬT QUYỀN TRONG LUẬT TƯ LA........................................................5
2.1. Chế định vật quyền....................................................................................................................5
2.1.1. Vật trong Luật La Mã:.......................................................................................................5
2.2. Quy định cụ thể về chế định vật quyền.....................................................................................6
2.2.1. Chiếm hữu:........................................................................................................................6
2.2.2. Quyền sở hữu:...................................................................................................................7

MỞ ĐẦU
Từ thế kỷ II TCN, Đế chế La Mã đã phát triển hùng mạnh và bành trướng khắp Châu
Âu lục địa trong một thời gian dài, ảnh hưởng của đời sống và pháp luật La Mã đã in dấu ấn
đậm nét trong xã hội Châu Âu lục địa và có tầm ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn thế giới.
Cụ thể trong luận văn này tôi tập trung vào chế định quyền đối vật hay quyền đối vật -
một chế định vật quyền cơ bản trong luật dân sự. Việc làm rõ khái niệm và nội dung của
quyền đối vật trong Luật tư La Mã là rất cần thiết. Trên thực tế tại Việt Nam hiện nay có rất ít
các công trình nghiên cứu khoa học về Luật La Mã, đặc biệt là công trình tập trung về riêng
chế định quyền đối vật. Nắm rõ được bản chất, nội dung của vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta
đi sâu và phát triển các lý luận pháp lý cũng như các quy định pháp luật khi áp dụng vào thực
tế kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Như đã phân tích ở trên, chế định quyền đối vật hay quyền đối vật là một chế định
quan trọng trong ngành luật dân sự. Những quy định của Luật La Mã đã đặt nền móng vững
chắc, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến luật thành văn của các nước trên thế giới trong
quá trình xây dựng luật dân sự hiện đại. Hệ thống các chế định pháp luật không tự nhiên sinh
ra, cũng không tự nhiên mất đi, mà nó là sự kế thừa từ đời này sang đời khác, là sự tiếp thu,
học hỏi, giao thoa giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Trong phạm vi tiểu luận này tôi chỉ xin tập trung vào một phần của Luật tư La Mã đó
là chế định về quyền đối vật hay quyền đối vật. Với mục đích là đi sâu làm rõ mọi vấn đề liên
quan đến quyền đối vật trong Luật La Mã: khái niệm, nội dung, căn cứ…

1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT
QUYỀN TRONG LUẬT TƯ LA MÃ VÀ SỰ TIẾP NHẬN
VẬT QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ:
1.1. Khái quát chung về Luật tư La Mã:
La Mã là tên một quốc gia tồn tại từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên đến thế kỷ VII
sau công nguyên mà nơi phát nguyên của nó ở bán đảo Italia. Đây từng là một quốc gia rộng
lớn với sự phát triển rực rỡ cả về kinh tế lẫn văn hóa. Lịch sử nhà nước La Mã có thể chia
thành ba thời kỳ là thời kỳ đế chế trước năm 500 trước công nguyên, thời kỳ cộng hòa từ năm
500 trước công nguyên đến năm 44 trước công nguyên, thời kỳ đế chế độc tài từ năm 30 trước
công nguyên. Lịch sử nhà nước La Mã luôn luôn xảy ra những cuộc đấu tranh gay gắt do sự
cách biệt lớn giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân. Những người bình dân đấu tranh để
chống lại sự áp bức của quý tộc, đòi quyền lợi của mình về ruộng đất và chính trị như được
vào thị tộc, được hưởng một số quyền nhất định, đặc biệt được cử người đại diện cho mình
tham gia vào bộ máy Nhà nước. Một trong những hình thức đấu tranh được áp dụng là bỏ nơi
cư trú để đi đến những vùng đất khác. Nhiều cuộc di dân lớn đã diễn ra. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến sức mạnh của nhà nước La Mã bởi tầng lớp bình dân là lực lượng chủ yếu
trong quân đội. Để giải quyết tình trạng này, Đại hội nhân dân đã được triệu tập vào năm 450
trước Công nguyên tại Aventinus. Đại hội quyết định cử ra một ủy ban đặc trách gồm mười
người (5 người đại diện cho tầng lớp quý tộc và 5 người đại diện cho tầng lớp bình dân) với
nhiệm vụ soạn thảo ra các điều luật nhằm giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Ủy ban này
đã soạn thảo ra các điều luật và tập hợp thành 12 bảng (Luật XII bảng).
Để có thể tìm hiểu một cách đầy đủ và khái quát về vật quyền, trước hết cần xác định
được các loại nguồn của tư pháp La Mã trong đó chứa đựng các quy phạm quy định về vật
quyền. “Có thể hiểu nguồn luật La Mã như là nguồn gốc nội dung các quy phạm pháp luật,
hình thức cấu thành các quy phạm pháp luật và cơ sở nhận thức pháp luật” [9; tr11]. Từ các
công trình nghiên cứu Luật La Mã, chúng ta có thể thấy nguồn của tư pháp La Mã bao gồm:
tập quán pháp (thường luật); đạo luật; sắc dụ của các quan chấp chính; hoạt động của các luật
gia La Mã và hệ thống hóa Luật La Mã của hoàng đế Justinian.
1.2. Vật quyền trong luật La Mã
Vật quyền không chỉ cho phép người có quyền được tác động lên chính đối tượng của
vật quyền, mà theo Edward C.Abell Jr thì vật quyền còn được xem như một công cụ chống lại
tất cả những người khác trên thế giới. Khái niệm về vật quyền cũng được PGS.TS Nguyễn
Ngọc Điện xây dựng như sau: “Vật quyền. Tính chất trực tiếp và tức thì của việc thực hiện vật
quyền được thể hiện ngay trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất (cả hành vi pháp lý)
của chủ thể lên đối tượng của quyền”.
Quan hệ vật quyền hình thành từ hai yếu tố: chủ thể quyền và đối tượng của quyền.
Chủ thể quyền bao giờ cũng là một người xác định, có quyền loại trừ với tất cả những người
còn lại trong quan hệ với đối tượng của vật quyền cũng là một vật xác định. Chủ thể của vật
quyền được thực hiện đầy đủ các quyền năng đối với vật cũng như quyền tác động trực tiếp
lên vật bao gồm quyền kiểm soát, sử dụng, được lợi từ vật mà không cần thông qua bất cứ một
người nào khác. “Tính chất trực tiếp và tức thì của việc thực hiện vật quyền được thể hiện
ngay trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất (và cả hành vi pháp lý) của chủ thể lên
đối tượng của quyền”[14].

2
Do các vật thể vật chất hay còn gọi là các vật chất liệu là một trong những phương tiện
thiết yếu giúp con người tồn tại cũng như đáp ứng các nhu cầu của mình trong cuộc sống. Để
có thể khai thác được các công dụng của các vật thể vật chất này nhằm phục vụ cho mục đích
của mình, con người cần được thừa nhận quyền đối với vật cũng như quyền “ngăn cản hay
loại trừ người khác từ việc tiếp cận tới vật thể vật chất đó, đến việc quản lý và khai thác nó…
Pháp luật đã hỗ trợ cho người nắm giữ hay tạo lập vật thể vật chất (mà pháp luật cho rằng họ
nắm giữ hay tạo lập hợp pháp) ngăn cản hay loại trừ tất cả những người khác bằng cách xây
dựng chế định quyền sở hữu để cho người này thống trị đối với vật thể vật chất.
Do vậy, quyền sở hữu được coi là quyền thống trị của một người đối với vật thể vật
chất của mình và loại trừ tất cả những người khác, nên được gọi là vật quyền hay quyền đối
vật”[8]. Ngoài ra, khi xã hội phát triển, nhu cầu của con người nhiều khi không còn bó hẹp
trong phạm vi vật thuộc sở hữu của mình dẫn đến việc cần sử dụng sản phẩm của người khác
hoặc cho người khác sử dụng sản phẩm của mình để thu lại lợi nhuận. Chủ sở hữu có thể cho
phép người khác có một hoặc một vài quyền nhất định trên vật thuộc sở hữu của mình.
Như vậy, hiểu một cách khái quát, vật quyền (jus in re) là quyền của một người chi
phối, tác động trực tiếp lên vật không cần thông qua người trung gian.
1.2.1. Phân loại vật quyền trong Luật La Mã :
Vật quyền trong Luật La Mã có thể được chia thành hai loại là quyền trên tài sản của
mình (có thể gọi là quyền sở hữu) và quyền trên tài sản của người khác. Người có quyền sở
hữu được xác lập quyền tuyệt đối và đầy đủ trên tài sản của mình. Quyền trên tài sản của
người khác được gọi là dịch quyền (servitude), có được là do chủ sở hữu cho phép một người
nào đó được phép hưởng lợi trên tài sản của mình. Dịch quyền bao hàm bên trong nó hai nội
dung chính là dịch quyền thuộc người (personal servitudes), và dịch quyền thuộc vật (real
servitude hay predial servitude).
Dịch quyền thuộc người bao gồm quyền hưởng dụng; quyền sử dụng, quyền ngụ cư,
quyền thuê dài hạn, quyền bề mặt. Bên cạnh các vật quyền này còn tồn tại quyền chiếm hữu
được xem như một quan hệ thực tế. Tất cả các loại quyền này là các vật quyền chính. Vật
quyền chính là các vật quyền cho phép người có quyền kiểm soát vật chất và khai thác vật.
Trong các vật quyền chính yếu, quyền sở hữu là vật quyền đầy đủ cho phép người có quyền
thu được lợi ích từ vật thông qua việc khai thác một cách trọn vẹn các khả năng kinh tế của
vật [17]. Có thể thấy, vật quyền chính yếu đặc trưng bởi sự cho phép chủ thể quyền được tác
động trực tiếp lên vật nhằm sử dụng hoặc khai thác giá trị của vật.
1.2.2. Bảo vệ vật quyền :
Vật quyền được pháp luật La Mã công nhận và bảo vệ một cách tuyệt đối, người có vật
quyền được phép chống lại bất cứ người nào có hành vi cản trở việc thực hiện quyền của
mình. Không ai có thể tự ý hạn chế, tước đoạt trái pháp luật hoặc xâm phạm đến quyền sở hữu
cũng như các quyền hợp pháp trên tài sản của người khác. Có hai hình thức bảo vệ được pháp
luật La Mã công nhận và cho phép chủ thể được áp dụng đó là phương pháp tự bảo vệ và
phương pháp kiện vật quyền (actio in rem). Chủ thể của vật quyền có quyền tự bảo vệ, ngăn
cản các hành vi xâm phạm đến quyền của mình cũng như truy đòi tài sản là đối tượng của vật
quyền đang bị người khác chiếm giữ, sử dụng không có căn cứ pháp luật.
Ngoài biện pháp tự bảo vệ, vật quyền được pháp luật La Mã bảo vệ bởi hình thức kiện
actio in rem (kiện vật quyền). Theo hình thức này, người có vật quyền được phép khởi kiện
người có hành vi xâm phạm đến quyền của mình hoặc người chiếm giữ vật bất hợp pháp. Khi
xảy ra những hành vi nhằm chiếm hữu trái pháp luật tài sản của người khác hay những hành vi

3
được tiến hành nhằm cản trở việc chủ sở hữu khai thác các quyền năng của mình trên vật, chủ
sở hữu có quyền yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền sở hữu cũng như vật quyền
chính đáng của mình đã được xác lập trên vật.

Chương 2: CHẾ ĐỊNH VẬT QUYỀN TRONG LUẬT TƯ LA


2.1. Chế định vật quyền
2.1.1. Vật trong Luật La Mã:
Trong luật tư La Mã, tài sản được coi là một chế định quan trọng. “Luật La Mã phân
chia tài sản thành vật chất liệu và tài sản phi chất liệu - đó là các quyền”[6]. Khi tài sản được
hình dung như một quyền, nó được “phân chia thành hai loại là các quyền thiết lập trên vật
chất liệu (rights in rem) và các quyền có giá trị kinh tế đối với người khác (rights in personam)
[6]”. “Theo luật dân sự truyền thống, quan hệ giữa người với người có ý nghĩa kinh tế được
gọi là quan hệ nghĩa vụ hay còn được gọi là “quyền đối nhân” (rights in personam). Còn quan
hệ giữa người với vật được gọi là “quyền đối vật” hay “vật quyền” (rights in rem) [7]”.
Như vậy, trong Luật La Mã, khi tài sản được tiếp cận dưới góc độ là một dạng quyền
thì nó bao gồm quyền đối vật và quyền đối nhân. Khi đi sâu vào bản chất chế định tài sản,
“vật” được coi là vấn đề cơ bản của tài sản, và tạo cơ sở thiết lập nên tiêu chuẩn pháp lý cho
tài sản. “Vật” (res) là những vật thể của thế giới vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu của con người
và mang giá trị kinh tế - xã hội nhất định. Khi tài sản được hình dung ở góc độ là vật, nó được
phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau, bao gồm: vật hữu hình
và vật vô hình; vật cho người và vật cho thần linh; vật lưu thông được và vật không lưu thông
được; vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật cùng loại và vật đặc định; vật chính và vật phụ;
tài sản gốc và hoa lợi… Luật La Mã còn chia tài sản thành động sản và bất động sản. Cách
phân loại này cho đến ngày nay vẫn được ghi nhận trong hệ thống pháp luật nhiều nước trên
thế giới. “Sự phân biệt giữa bất động sản và động sản có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định thời hiệu xác lập quyền sở hữu.
Theo luật 12 Bảng, 26 một người chiếm hữu liên tục hai năm một bất động sản sẽ trở
thành chủ sở hữu đối với bất động sản đó, còn đối với động sản, thời hạn này là một năm” [11;
tr13]. Trong xã hội La Mã cổ đại, đất đai được coi là tài sản có giá trị nhất do tầm quan trọng
của nó đối với cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của xã hội, đặc biệt là trong sản xuất nông
nghiệp. Đất đai được coi là bất động sản và là tài sản có giá trị của người dân La Mã. Động
sản bị coi là “của di động là thấp hèn (res mobilis, res vilits)”[24; tr106].
Điều này có thể dễ dàng được hình dung, bởi khi phân chia các vật quyền này, dường
như các luật gia Lã Mã đã dựa vào tính chất, đặc điểm và đặc trưng của vật để phân chia ra
các quyền, các hành vi có thể tác động hợp pháp lên vật. Sự phân chia này thúc đẩy cho giao
lưu dân sự được diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn. Có thể thấy rằng các hệ thống pháp luật
đều có xu hướng quy định chi tiết hơn đối với bất động sản so với động sản.
Điều này có thể xuất phát từ ba lý do chính [9; tr.VI]:
Một là, lý do về mặt vật lý: Bất động sản thường gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ quốc
gia, trong khi đó động sản di chuyển tự do dễ bị mất mát, phá huỷ, nhầm lẫn.
Hai là, lý do về mặt kinh tế: Trong lịch sử xã hội loài người cho tới thời kỳ công
nghiệp hoá, đất đai là nguồn của cải thiết yếu cho cuộc sống và nó được chuyển từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Ba là, lý do về mặt tâm lý: Đất đai, nhà cửa thường gắn bó chặt chẽ lâu dài với đời
sống của con người, do đó họ thường có tình cảm và chú ý hơn so với động sản. Có một số

4
quyền chỉ có thể tồn tại trên bất động sản như dịch quyền và một số khác thì tồn tại trên cả
động sản và bất động sản như quyền hưởng dụng [5].
Ngoài cách phân loại trên, Luật La Mã còn phân chia vật thành vật chia được và vật
không chia được dựa trên việc xác định giá trị của vật có còn nguyên vẹn hay không khi phân
chia, hay phân chia vật thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao dựa trên việc xác định giá trị
nguyên vẹn của vật qua thời gian. Hoặc dựa vào bản chất, đặc điểm, vật có thể được phân chia
thành vật thay thế và vật đặc định. Những cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định
đối tượng của các loại hợp đồng.
2.2. Quy định cụ thể về chế định vật quyền
2.2.1. Chiếm hữu:
Trong Luật La Mã, chiếm hữu mang ý nghĩa là việc có vật trên thực tế, có quyền kiểm
soát và chi phối vật. Chiếm hữu là căn cứ thiết lập nên quyền sở hữu. Tuy nhiên, chiếm hữu
vẫn được phân biệt với quyền sở hữu bởi chúng có thể thuộc cùng một người hoặc cũng có thể
tồn tại ở nhiều người khác nhau. Chiếm hữu được pháp luật bảo vệ cho dù người chiếm hữu
có thể không có quyền sở hữu đối với đồ vật. Các trường hợp chủ sở hữu không chiếm hữu đồ
vật của mình: thứ nhất, việc không chiếm hữu thực tế đồ vật xảy ra theo ý chí của chủ sở hữu:
chủ sở hữu có thể nhường quyền chiếm hữu cho người khác để nhận lại các lợi tức (fructus
civilis) do vật đem lại (cho thuê…) hoặc đưa vật cho người khác giữ; thứ hai, việc không
chiếm hữu thực tế vật xảy ra không theo ý chí của chủ sở hữu: đồ vật bị người khác định đoạt
trái phép, đồ vật bị mất, đánh rơi, bị chiếm đoạt bằng vũ lực hay bị ăn cắp [1].
Các trường hợp kể trên tuy chủ sở hữu không phải là người chiếm hữu vật nhưng
quyền sở hữu đối với vật vẫn tồn tại chứ không thể bị mất đi. Trong Luật La Mã, những người
nắm giữ vật theo ý chí của chủ sở hữu được gọi là người chiếm giữ thực tế (detentores).
Những người này tuy có vật trên thực tế nhưng không có ý chí coi vật thuộc sở hữu của mình.
Trường hợp này đươc gọi là chiếm giữ (possessio naturalis hay detentio). Luật La Mã có sự
phân biệt giữa chiếm hữu và sự chiếm giữ bình thường. Nếu chỉ chiếm dụng đồ vật trên thực
tế thì chưa đủ điều kiện để được coi là chiếm hữu. Một người để được coi là người chiếm hữu
phải có đủ hai điều kiện, đó là: corpus possessionis (thực tế có vật) và animus possessionis (có
ý chí chiếm hữu vật).
Để có thể là người có hành vi chiếm hữu về mặt pháp lý phải thể hiện ý chí muốn
chiếm dụng đồ vật một cách độc lập, không phụ thuộc vào người khác hoặc như là ý chí muốn
xem đồ vật như của chính mình (animus domini). Điều này không thể thực hiện được nếu như
đồ vật đó là nhà cửa. Trong trường hợp như thế chỉ cần chiếm giữ được đồ vật bằng olulis et
affectu (bằng mắt và bằng ý đồ).
Thông thường chủ sở hữu là người chiếm hữu đồ vật. Chủ sở hữu là người chiếm hữu
hợp pháp đồ vật. Tuy nhiên trên thực tế nhiều trường hợp người chiếm hữu đồ vật không phải
là chủ sở hữu, điều này có thể theo hoặc không theo ý chí của chủ sở hữu. Những người có đồ
vật và có ý đồ xem chúng là của mình nhưng không có ius possidendi (quyền có đồ vật) theo
pháp luật La Mã là những người chiếm hữu bất hợp pháp. Chiếm hữu bất hợp pháp bao gồm
chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng và chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng.
2.2.1.1. Căn cứ phát sinh, chấm dứt chiếm hữu:
Sự chiếm hữu được ghi nhận trong một hoàn cảnh thực tế và thông thường tư cách của
người chiếm hữu đối với vật được thừa nhận mà không nhất thiết phải tìm hiểu tính xác thực,
hợp pháp của tư cách người chiếm hữu đó. Tư cách của ngừơi chiếm hữu được xác định dựa
vào hai yếu tố cấu thành quan hệ chiếm hữu, pháp luật La Mã gọi là corpus và animus.

5
Corpus được coi là yếu tố vật chất khách quan của chiếm hữu. Yếu tố này biểu hiện
thành các hành vi ứng xử cụ thể cho thấy người ứng xử là người có quyền đối với tài sản.
Nhưng đó cũng có thể là hành vi ứng xử mang tính pháp lý: trả tiền gửi xe, giao kết hợp đồng
cho mượn, gửi giữ tài sản...
Animus được coi là yếu tố ý chí hay yếu tố chủ quan. Đó là trạng thái tâm lý thể hiện
thành thái độ ứng xử hàm chứa quyền năng của người chiếm hữu đối với tài sản. Hay có thể
hiểu animus là “yếu tố tâm lý hay yếu tố chủ quan, được hiểu là thái độ tâm lý thể hiện thành
cung cách cư xử phù hợp với các quyền năng mà người chiếm hữu tự cho là có được đối với
tài sản. Chiếm hữu trong tư cách chủ sở hữu, người chiếm hữu bộc lộ dáng vẻ của một người
có các quyền năng dùng, khai thác giá trị kinh tế của tài sản và định đoạt tài sản” [15].
Như vậy muốn thực hiện việc chiếm hữu thông qua đại diện người đại diện phải có ý
chí chiếm hữu vật cho người được đại diện chứ không phải cho bản thân mình. Chiếm hữu
chấm dứt khi một trong hai yếu tố cấu thành nên nó là corpus possessionis và animus
possessionis không còn. Như vậy các trường hợp chấm dứt chiếm hữu bao gồm: thực tế nắm
giữ vật không còn hoặc chủ thể chiếm hữu thể hiện ý chí từ bỏ chiếm hữu. Vật không còn tồn
tại hoặc không thể thuộc sở hữu cá nhân cũng là một trong những trường hợp chấm dứt chiếm
hữu. Chiếm hữu thông qua người đại diện chấm dứt theo ý chí cuả người chiếm hữu cùng với
việc chấm dứt khả năng chiếm giữ đồ vật của người đại diện hay người ủy nhiệm. Một trong
hai người này còn có khả năng thể hiện quyền hành của bản thân đối với đồ vật thì vật vẫn
thuộc quyền chiếm hữu của người ủy nhiệm [9; tr 53].
2.2.1.2. Bảo vệ chiếm hữu:
Là một tình trạng thực tế, nhưng chiếm hữu lại phát sinh hiệu lực pháp lý giữa người
chiếm hữu và vật được chiếm hữu. Chiếm hữu được pháp luật thừa nhận, điều chỉnh và bảo
vệ. Bảo vệ chiếm hữu được phân biệt với chế độ bảo vệ quyền sở hữu. Thông thường, người
chiếm hữu được suy đoán là chủ sở hữu và những yếu tố cốt lõi của quan hệ này bao gồm:
Chiếm giữ vật (corpus) và có ý chí xem vật là của mình (animus). Bởi vậy “xét xử để bảo vệ
chiếm hữu một mặt là một quá trình tương đối đơn giản hơn về mặt chứng minh yêu cầu
(chứng minh quyền sở hữu đối với vật trong điều kiện đòi lại vật rõ ràng là khó khăn hơn
nhiều)[1]”.
Mặt khác kiện bảo vệ chiếm hữu mang tính chất sơ bộ bước đầu; nếu kết quả của xét
xử mà việc chiếm hữu vật được trao cho người không có quyền đối với vật thì người có quyền
đối với vật có thể phát đơn kiện đòi lại vật (rei vindicatio) [1].
Chiếm hữu được bảo vệ bằng các phương tiện pháp lý đặc biệt còn gọi là interdictio
(điều quan cấm) bao gồm những điều cấm để đề phòng vi phạm quyền chiếm hữu (interdicta
retinendae possesionis) và điều cấm để trả lại sự chiếm hữu (interdicta recuperandae
possesionis). Interdicta là những chỉ định của quan tòa về việc chấm dứt không chậm trễ
những hành vi xâm phạm đến trật tự xã hội và lợi ích cá nhân. Một trong những đặc trưng của
việc bảo vệ chiếm hữu thông qua interdicta là trong quá trình xét xử không đòi hỏi phải chứng
minh quyền đối với vật bị chiếm hữu [1].
Như vậy, trong số các bên tranh chấp, bên nào đang nắm giữ vật được suy đoán là có
quyền, bên còn lại nếu muốn khẳng định điều ngược lại thì phải chứng minh chứ không được
tự ý chiếm đoạt vật từ người đang chiếm hữu. Điều này nhằm mục đích bảo vệ cho sự ổn định
của các quan hệ xã hội đang tồn tại, tình trạng của người chiếm hữu đối với vật sẽ được duy
trì cho đến khi có người khác chứng minh được quyền đối với vật.
2.2.2. Quyền sở hữu:

6
Sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ và đầu cơ đã thúc đẩy quá trình biến động
của tư hữu. Trước hết điều đó được thể hiện trong việc tầng lớp giàu có càng ngày càng ra sức
chiếm giữ đất, mặc dầu họ chỉ được quyền sử dụng đất công. Với quyền lực của mình, họ biến
sự sử dụng tạm thời thành quyền sở hữu riêng đối với đất công. Luật La Mã dùng thuật ngữ
dominium và sau này là thuật ngữ proprietas để chỉ quyền sở hữu.
Quyền sở hữu được chia thành quiritarian – quyền dành riêng cho công dân La Mã và
bonitarian – quyền sở hữu của các cá nhân khác. Quyền sở hữu của cá nhân được hình thành
từ: thủ tục thủ đắc tài sản – mancipation, việc chuyển giao, việc từ bỏ trước tòa án, theo thời
hiệu, việc xét xử và theo quy định của luật. Quyền sở hữu được hiểu là tập hợp một số quyền
năng cụ thể của chủ sở hữu mà pháp luật quy định [5; tr56,57].
Quyền sở hữu trong Luật La Mã được coi là vật quyền lớn nhất, cho phép chủ sở hữu
có đầy đủ các quyền năng đối với vật. Quyền sở hữu cũng là cơ sở cho việc tạo lập nên các vật
quyền chính khác. Chủ sở hữu là người có đầy đủ các quyền sử dụng, thu hoa lợi và định đoạt
vật; khi chủ sở hữu cho phép một người có quyền sử dụng và thu hoa lợi từ vật của mình thì
người đó có quyền hưởng dụng trên vật, còn người sử dụng thì chỉ có một quyền năng đó là sử
dụng vật. Quyền sở hữu được Luật La Mã thừa nhận là vật quyền, bởi vậy nó mang các đặc
điểm: tính tuyệt đối, tính độc quyền và tính vĩnh viễn.
Do vậy, sự tác động nhằm xác lập quyền sở hữu chỉ đến từ phía chủ thể duy nhất trong
quan hệ này. Luật La Mã cho phép người đầu tiên chiếm đoạt được vật vô chủ mà có khả năng
lưu thông hoặc khả năng sử dụng với ý định chiếm đoạt cho mình trở thành chủ sở hữu vật vô
chủ đó.

7
KẾT LUẬN
Luật La Mã là hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thuộc kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ
La Mã. Pháp luật La Mã cổ đại được nâng lên hàng “Lý trí thành văn”, được tiếp thu, vận
dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến Tây Âu và là một nguyên tắc cơ bản của nhiều
chế định pháp luật, nhất là pháp luật dân sự tư sản.
Có một cách nói được truyền tụng rộng rãi là người La Mã đã ba lần chinh phục thế
giới: lần thứ nhất bằng các đạo quân lê dương; lần thứ hai bằng Thiên Chúa giáo; và lần thứ
ba bằng pháp luật.
Xét về bản chất, luật La Mã thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô, phản ánh lợi ích của
giai cấp thống trị, là công cụ đàn áp nô lệ, chúng ra đời trong điều kiện cụ thể của xã hội La
Mã cổ đại, khi quan hệ, giao lưu thương mại dựa trên chế độ sở hữu tư nhân rất phát triển ở
dạng thuần túy, lại được một đội ngũ luật sư đông đảo và có trình độ nghiệp vụ cao biết sử
dụng ngôn ngữ pháp lí để thể hiện các nhu cầu pháp lí của các quan hệ, giao lưu thương mại,
hàng hóa một cách đúng đắn thành các quy định, chế định pháp lí chặt chẽ, có tính mẫu mực,
mang ý nghĩa của một bộ phận tiêu biểu của nền văn minh La Mã.
Luật La Mã mà ngày nay vẫn đang thu hút sự quan tâm của nhiều người như một giá trị pháp
lí đáng trân trọng hình thành trong cả một quá trình kéo dài trên dưới một ngàn năm, trong đó,
phần pháp luật dân sự là bộ phận nổi bật nhất mà các chế định của nó, từ quyền sở hữu, vật
quyền, hợp đồng, trái vụ, hôn nhân và gia đình, thừa kế vẫn còn giữ nguyên giá trị, ví như lời
nhận xét của Ăngghen: “Đó là hình thức pháp luật hoàn chỉnh nhất có cơ sỏ là chế độ sở hữu
tư nhân mà chúng ta biết được với độ chính xác không thể vượt qua trong việc thể hiện tất cä
các quan hệ pháp luật cơ bản của những người chiếm hữu hàng hóa đơn giản (người mua -
người bán, chủ nợ - con nợ, hợp đồng, trái vụ...”. Không phải ngẫu nhiên, Ăngghen đã đánh
giá: “luật La Mã là sự thể hiện có tính kinh điển về mặt pháp lí điều kiện sống cũng như các
mâu thuẫn của một xã hội, nơi sở hữu tư nhân thuần túy thống trị mà tất cả những hệ thống
pháp luật về sau không thể đưa được gì có tính cơ bản vào đó".

8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật bản, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật La Mã, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Đào (1994), Luật La Mã, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam,
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
7. Bùi Đăng Hiếu (2003), “Quá trình phát triển của khái niệm quyền sở hữu”, Tạp chí Luật
học (số 5), trang 8-15. 8. Phạm Trí Hùng, Ngô Hoàng Anh (2007), “Luật so sánh và thực tiễn
xây dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học (số 4), trang 32-42.
9. Vũ Dương Ninh (2003), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, Hà Nội.

You might also like