THẢO LUẬN HÌNH SỰ LẦN 2 NHÓM 5

You might also like

You are on page 1of 9

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ


---  ---

Môn học: Luật Hình sự phần chung


BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI
Lớp: 127-DS46B Nhóm 5

DANH SÁCH CÁC SINH VIÊN THỰC HIỆN


STT Họ và Tên MSSV
1 Trần Nguyễn Thế Nhân 2153801012154
2 Trần Thị Nguyệt Thanh 2153801012208
3 Nguyễn Thị Thảo Nguyên 2153801012151
4 Trịnh Thị Thanh Thái 2153801012207
5 Võ Hoàng Nhi 2153801012158
6 Lê Hồng Nhung 2153801012159
7 Dương Tôn Triều Phát 2153801012169
8 Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 2153801012187

Niên khóa: 2021 – 2025


1
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ
1. BLHS Bộ luật Hình sự
2. … …

2
MỤC LỤC
Phần I: NHẬN ĐỊNH........................................................................................................4
Câu 1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS năm 2015 là mức hình phạt do
Tòa án áp dụng đối với người phạm tội...........................................................................4
Câu 2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù trở xuống
đều là tội phạm ít nghiêm trọng........................................................................................4
Câu 4. Trong một tội danh luôn có cả 3 loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản, cấu
thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ...........................................................................4
Câu 5. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội..........................5
Câu 6. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm có cấu thành hình thức............................................................................................5
PHẦN II: BÀI TẬP...........................................................................................................5
Bài tập 1............................................................................................................................5
1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội gì? Tại sao? 6
2. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất hay CTTP
hình thức? Tại sao?.......................................................................................................6
3. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay
CTTP giảm nhẹ?...........................................................................................................7
Câu 6. A 15 tuổi 6 tháng đã thực hiện hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 168
BLHS. Hãy xác định A có phải chịu TNHS về hành vi của mình hay không.................7
Câu 7. A là bác sĩ đa khoa có mở một phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A đã kê
đơn thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A không
kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà bé Trung. Người nhà của bé Trung đến
tiệm thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có ghi
tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên bị tử vong...............7
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?.............................................8
2. Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội nào?....................................................8
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào?...........8
4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?..............................................................................8
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì? Tại sao?8

Phần I: NHẬN ĐỊNH

3
Câu 1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS năm 2015 là mức hình phạt
do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định trên là sai.
Theo Điều 9 BLHS 2015, việc phân loại tội phạm căn cứ dựa trên tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này. Như vậy,
mức hình phạt Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không phải căn cứ phân loại tội
phạm theo Điều 9 BLHS 2015 mà mức hình phạt Tòa án áp dụng là tính chất và mức độ
nguy hiểm được quy định cụ thể tại BLHS 2015.

Câu 2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù trở
xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhận định trên là sai.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS 2015
BLHS 2015 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm”. Nhận định trên là sai bởi vì theo quy định, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có
mức là cao nhất của khung hình phạt là đến 3 năm chứ không phải những tội phạm bị Toà
án tuyên phạt từ 3 năm tù trở xuống. Ví dụ khoản 1 Điều 285 quy định mức phạt tù từ 03
tháng đến 02 năm, có mức phạt tù cao nhất là 02 năm nên tội phạm phạm tội ở Điều
khoản này được xem là tội phạm ít nghiêm trọng, theo khoản 4 Điều 285 quy định khung
hình phạt từ 01 năm đến 05 năm, tuy nhiên tội phạm phạm tội được quy định ở Điều
khoản này bị Toà án tuyên phạt 02 năm tù thì không được xem là tội phạm ít nghiêm
trọng bởi vì mức phạt cao nhất của tội này là 05 năm.

Câu 4. Trong một tội danh luôn có cả 3 loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản,
cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.
Nhận định trên là sai.
Trong một tội danh, Các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm: khách thể, khách
quan, chủ quan và chủ thể của tội phạm là những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng
cho loại tội phạm cụ thể. 3 loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản, cấu thành tăng
nặng và cấu thành giảm nhẹ là những phân loại tội phạm theo mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh.
Tùy vào tội danh khi xác định tội phạm luôn có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản
nhưng ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của
tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể hoặc tăng lên một cách đáng kể
(so với bình thường) thì sẽ có cấu thành tội phạm giảm nhẹ hoặc cấu thành tội phạm tăng
nặng.
4
Cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là tổng hợp cấu thành tội phạm cơ bản với
dấu hiệu định khung phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Ví dụ đối với khoản 1 Điều 174 BLHS 2015 là cấu thành cơ bản của tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản còn khoản 2, 3, 4 Điều này là cấu thành tăng nặng.
Hoặc ví dụ đối với khoản 1 Điều 108 BLHS 2015 là cấu thành cơ bản của tội phản quốc
còn khoản 2 Điều này là cấu thành giảm nhẹ.

Câu 5. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội.
Nhận định trên là sai.
Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống
một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này được gọi là dấu
hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Như vậy, cấu thành tội phạm giảm nhẹ là tổng hợp
cấu thành tội phạm cơ bản với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ. Ví dụ như Điều
108 BLHS hiện hành thì khoản 1 là dấu hiệu định tội cơ bản, nhưng nếu trong trường hợp
có dấu hiệu định tội nhưng đồng thời có tình tiết giảm nhẹ thì cấu thành tội phạm giảm
nhẹ. Không có dấu hiệu định tội thì không thể cấu thành tội phạm giảm nhẹ được.

Câu 6. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm có cấu thành hình thức.
Nhận định trên là sai.
Một tội phạm trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội hoặc nguy hiểm không
đáng kể thì không được xem là cấu thành tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội được thể
hiện thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể do Luật Hình sự bảo
vệ. Đồng thời, đối với tội phạm có cấu thành hình thức, hành vi là dấu hiệu bắt buộc và
được các nhà làm luật lựa chọn làm tiêu chí tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội sẽ
để lại hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

PHẦN II: BÀI TẬP


Bài tập 1.
A trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp
tài sản theo Khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Toà án tuyên phạt 2 năm tù giam.
Anh (chị) hãy xác định:

1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội gì? Tại sao?
Căn cứ vào Điều 9 Bộ luật hình sự hiện hành thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội
nghiêm trọng vì theo Bản án và khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự hiện hành thể hiện mức
phạt của A theo luật định là từ 02 đến 07 năm. Từ đó, đối chiếu với mức thời gian luật
5
định cho A với Điều 9 Bộ luật hình sự hiện hành có thể thấy rằng khoảng thời gian luật
định của tội trộm cắp phù hợp với mức thời gian phạt của điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật
hình sự hiện hành.

2. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất hay
CTTP hình thức? Tại sao?
Căn cứ vào khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì
trong trường hợp này, tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, sở
dĩ như vậy xuất phát từ những căn cứ sau đây:
Một là, vế dấu hiệu xác định cấu thành tội phạm vật chất: theo đó, dấu hiệu cấu thành tội
phạm vật chất bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm và mối quan hệ
nhân quả. Có thể thấy được rằng, đây là những đặc trưng cơ bản của cấu thành tội phạm
vật chất và là dấu hiệu nhận biết để so sánh với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hình
thức hay cắt xén.
Hai là, đối chiếu với quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017): theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành, để chứng minh đây là
cấu thành tội phạm vật chất, cần chứng minh cụ thể như sau:
(1) Hành vi nguy hiểm cho xã hội: theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành,
đây là một trong những đặc trưng cơ bản thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hình sự Việt
Nam, là hành vi trộm cắp, đáp ứng các tiêu chí thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
hình sự và là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tính chịu hình phạt, tính trái pháp luật hình
sự và tính có lỗi. Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những dấu hiệu đầu tiên khẳng
định đây là hành vi nguy hiểm và là một trong những phạm trù cấu thành tội phạm vật
chất.
(2) Hậu quả nguy hiểm: theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành, cụ thể là
tại khoản 2 thì hậu quả nguy hiểm chính là khoản tiền mà người thực hiện hành vi gây ra.
Theo đó, tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định các loại hậu quả được
đề cập và đó là một trong các cơ sở để khẳng định và chứng minh cấu thành tội phạm vật
chất.
(3) Mối quan hệ nhân quả: hành vi trộm cắp tài sản là nguyên nhân dẫn đến việc gây ra
thiệt hại và có mối liên hệ mật thiết với nhau, chính vì điều đó mối quan hệ nhân quả
cũng là một trong các cơ sở để chứng minh và làm sáng tỏ các dấu hiệu đặc trưng cấu
thành tội phạm vật chất.
Tóm lại, thông qua các phân tích nêu trên, chúng ta thấy được rằng hành vi được quy
định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành là căn cứ xác định cấu thành tội phạm vật
chất được thể hiện thông qua các dấu hiệu và phân tích các đặc trưng nêu trên.

6
3. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay
CTTP giảm nhẹ?
Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP tăng nặng.
Vì theo khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định cho mức phạt tù
của A là từ 02 năm đến 07 năm khi hành vi của A thuộc một trong số các trường hợp do
Luật định. Đối chiếu với khoản 1 Điều 173 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), ta có thế
thấy mức phạt thấp nhất đối với tội “trộm cắp tài sản” là bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, như vậy đây chính là cấu thành tội
phạm cơ bản, có dấu hiệu định tội - thường dùng để mô tả tội phạm và cho phép phân
biệt với các loại tội phạm khác, khi đến khoản 2, có thể thấy rằng đây là trường hợp cấu
thành tội phạm tăng nặng vì nó bao gồm cả phần định tội cùng với định khung tăng nặng
(mức phạt thù của khoản 2 Điều 173 cao hơn mức phạt tù tại khoản 1 Điều 173)

Câu 6. A 15 tuổi 6 tháng đã thực hiện hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 168
BLHS. Hãy xác định A có phải chịu TNHS về hành vi của mình hay không.
A phải chịu TNHS về hành vi của mình. Bởi vì các lý do sau:
Về độ tuổi: tuổi của A 15 tuổi 6 tháng - tức là dưới 16 tuổi. Căn cứ khoản 2 Điều 12
BLHS người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
A có hành vi vi phạm tại khoản 1 Điều 168 và Điều 168 được liệt kê trong khoản 2 Điều
12 BLHS về các trường hợp A phải chịu TNHS.
Khoản 1 Điều 168 BLHS quy định mức hình phạt từ 03 năm đến 10 năm mà căn cứ theo
điểm c khoản 1 Điều 9 BLHS thì thuộc tội phạm rất nghiêm trọng. Thỏa mãn điều kiện
chịu TNHS theo khoản 2 Điều 12 BLHS 2015, vì vậy A phải chịu TNHS về hành vi của
mình.

Câu 7. A là bác sĩ đa khoa có mở một phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A đã
kê đơn thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ suất, A
không kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà bé Trung. Người nhà của bé
Trung đến tiệm thuốc do H đứng bán. H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa
thuốc có ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên bị tử
vong.

1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là bé Hoài Trung (3 tuổi).

7
2. Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội nào?
Hành vi của A đã xâm phạm quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của tội phạm. Cụ thể là
xâm phạm đến quyền sống của con người (bé Trung).

3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc loại nào?
Có hai loại mối quan hệ nhân quả trong pháp luật hình sự bao gồm:
1) Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp:
Là dạng mối quan hệ nhân quả trong đó chỉ có một hành vi trái pháp luật đóng vai trò là
nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
2) Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp:
Là dạng mối quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò
là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Loại mối quan hệ nhân
quả này có hai trường hợp cụ thể là:
Mỗi hành vi trái pháp luật đã có khả năng thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả.
Mỗi hành vi trái pháp luật đều chưa có khả năng thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả.
Khả năng này chỉ hình thành khi các hành vi đó kết hợp với nhau trong điều kiện nhất
định.
Trong vụ án này, mối quan hệ nhân quả được xác định là mối quan hệ nhân quả kép trực
tiếp thuộc trường hợp mỗi hành vi trái pháp luật đều chưa có khả năng thực tế trực tiếp
làm phát sinh hậu quả. Khả năng này chỉ hình thành khi các hành vi đó kết hợp với nhau
trong điều kiện nhất định. Hậu quả tử vong của bé Trung chỉ diễn ra khi 2 hành vi trái
pháp luật là A đã kê đơn thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn và H
bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có ghi tuổi bệnh nhân là 3 tuổi.

4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?


Lỗi của A trong trường hợp này là lỗi vô ý phạm tội.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 11 BLHS hiện hành, theo đó A là một bác sĩ đa khoa, có thể
nhận thức và thấy được hậu quả của việc nếu mình kê đơn thuốc cho bệnh nhân 3 tuổi
theo toa người lớn có thể gây chết người nhưng vì không cẩn thận, sơ suất trong quá trình
kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà bệnh nhân nên dẫn đến cái chết của bệnh
nhân 3 tuổi. Do đó lỗi của A là vô ý phạm tội do cẩu thả theo khoản 2 Điều 11 BLHS
hiện hành.

5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là lỗi gì? Tại sao?
Trong trường hợp nêu trên, hành vi H bán thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có
ghi tuổi của bệnh nhân là 3 tuổi thì trong trường hợp này, H có lỗi trong việc gây ra cái
chết của bé Trung và lỗi được xác định trong H gây ra cái chết của bé Trung là lỗi vô ý.

8
Sở dĩ cho rằng H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung xuất phát từ những căn cứ
sau đây:
Một là, về cơ sở lý luận: tính có lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối
với hành vi và hậu quả mà hành vi đó gây ra và được biểu hiện thông qua hình thức lỗi cố
ý và lỗi vô ý. Theo đó, đối chiếu với cơ sở lý luận, chúng ta thấy được rằng hành vi của H
là hành vi bán thuốc theo toa của A và đây là toa thuốc người lớn tuy nhiên H đã chủ
quan và không kiểm tra trước khi kê đơn toa thuốc, có thể thấy được rằng trong trường
hợp này H đã có lỗi vô ý khi không kiểm tra lại tính chính xác của đơn thuốc trước khi
bán và đây được xem là hành vi có lỗi và mang tính chất lỗi vô ý như đã được đề cập và
phân tích nêu trên.
Hai là, căn cứ vào quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
về mặt lý luận, chúng ta đã thấy được rằng hành vi nêu trên của H là hành vi có lỗi vô ý
xuất phát từ sự chủ quan trong quá trình bán thuốc cho bé Trung, như đã phân tích ở trên
mặc dù H đã bán thuốc đúng theo toa tuy nhiên trong trường hợp này đáng lẽ H phải lưu
ý và kiểm tra toa thuốc phù hợp với độ tuổi hay không, chính điều này đã dẫn đến hậu
quả vô cùng đáng tiếc. Chính vì lẽ đó, hành vi nêu trên của H là hành vi do lỗi vô ý và
căn cứ vào Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi nêu trên
của H sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành.

—HẾT—

You might also like