Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI:
“ THỪA KẾ THEO DI CHÚC THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ”
Họ và tên
Mã số sinh viên
Nguyễn Thanh
Thúy 22110241
Nguyễn Thanh 22110137
Hiền 22110241
Lê Công Hùng 22110254
Lục Thới Trọng 22110173
Nguyễn Thành
Long
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, chúng em xin gửi lời cảm ơn đến Ban
giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM đã tạo điều kiện về cơ
sở vật chất với phòng học sạch đẹp, có wifi, máy chiếu để phục vụ cho việc học
tập và tìm kiếm thông tin của chúng em.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, chúng em xin gửi đến quý Cô Võ Thị Mỹ
Hương – Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM đã cùng với tri thức và
tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, nhóm em xin gửi đến cô. Chúc cô sẽ luôn
thành công và tâm huyết hơn với nghề để tiếp tục truyền đạt những kiến thức
quý báu cho chúng em trong quá trình học tập ở trường và xa hơn là ngoài cuộc
sống.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót
và hạn chế, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía cô để đề tài được hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
MỤC LỤC
PHẦN 1:LỜI MỞ ĐẦU·······························································1
1. Lí do chọn đề tài··································································1
2. Mục đích và nhiệm vụ···························································1
PHẦN 2: NỘI DUNG··································································2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN····················································2
1.1. Một số khái niệm·······························································2
1.1.1. Thừa kế···································································2
Theo điều 624 Bộ luật Dân sự: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc
phải được lập thành văn bản..·················································2
1.1.3. Thừa kế theo di chúc····················································2
1.2. Người được quyền thừa kế theo di chúc····································2
1.3. Người thừa kế không theo nội dung của di chúc···························3
1.4. Di tặng và di sản·······························································4
1.4.1. Khái niệm di sản························································4
1.4.2. Di tặng····································································4
1.4.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng········································5
1.5. Hình thức và nội dung của di chúc··········································5
1.5.1. Hình thức của di chúc··················································5
1.5.2. Nội dung của di chúc···················································6
1.6. Các loại di chúc································································7
1.6.1. Di chúc bằng văn bản··················································7
1.6.2. Di chúc bằng miệng·····················································9
1.7. Di chúc bị thất lạc,hư hại····················································11
1.8. Hiệu lực của di chúc·························································13
1.8.1. Thời điểm có hiệu lực của di chúc···································13
1.8.2. Xác định mức độ có hiệu lực của di chúc···························14
1.8.3. Hiệu lực của di chúc chung do vợ chồng cùng lập ra············14
1.9. Gửi giữ và công bố di chúc··················································14
1.9.1. Gửi giữ di chúc·························································14
1.9.2. Công bố di chúc························································16
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN···············································19
1. Thực trạng và những bất cập của Bộ luật Dân sự 2015························19
1.1. Vấn đề xác định di sản·······················································19
1.2. Năng lực người lập di chúc··················································20
1.3. Di chúc miệng·································································21
2. Kiến nghị sửa đổi····································································21
2.1. Kiến nghị sửa đổi về vấn đề xác định di sản······························21
2.2. Kiến nghị sửa đổi về vấn đề năng lực người lập di chúc················25
2.3. Kiến nghị sửa đổi về di chúc miệng········································31
PHẦN 3: KẾT LUẬN································································32
TÀI LIỆU THAM KHẢO···························································32
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
1
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
thừa kế do luật về thừa kế chưa quy định cụ thể cũng như chưa thể dự hiệu
được hết các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế nên qua đó đề xuất một số ý
kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong giải quyết các vướng mắc,
tranh chấp về thừa kế theo di chúc hiện nay.
Từ các mục đích trên hình thành những nhiệm vụ sau: Nghiên cứu pháp
luật về thừa kế theo di chúc của Bộ Luật Dân sự 2015, nghiên cứu, đánh giá
thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc và thực tiễn việc áp dụng
các quuy định của Bộ Luật Dân sự 2015 về thừa kế theo di chúc. Đề ra những
kiến nghị sửa đổi về các quy định trong luật thừa kế theo di chúc.
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Thừa kế
Thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết
cho người còn sống, tài sản để lại gọi là di sản.
1.1.2. Di chúc
Theo điều 624 Bộ luật Dân sự: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di
chúc phải được lập thành văn bản..
1.1.3. Thừa kế theo di chúc
Theo điều 624 Bộ luật Dân sự 2015: Thừa kế theo di chúc là
việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo sự
định đoạt của người đó khi họ còn sống.
1.2. Người được quyền thừa kế theo di chúc
Mọi cá nhân đều có quyền nhận di sản trong trường hợp thuộc
diện nhận di sản theo di chúc. Người thừa kế là cá nhân phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc
không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp người nhận di sản theo di chúc thì căn cứ vào
quyền thừa kế của họ, họ sẽ được hưởng phần di sản mà người
đã chết để lại theo đúng những điều khoản trong di chúc. Người
được thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai theo ý chí của
người lập di chúc.
2
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Lưu ý: Người được thừa kế theo di chúc không được là người làm
chứng cho di chúc hoặc công chứng, chứng thực di chúc.
Người thừa kế theo di chúc có quyền từ chối nhận di sản, trừ
trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác.
Những người không được hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật
dân sự 2015 vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã
biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di
sản theo di chúc.
1.3. Người thừa kế không theo nội dung của di chúc
Tại điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu
di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với
người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là
những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Theo đó, trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng
bất cứ di sản nào hay hưởng ít hơn hai phần ba suất đó thì những đối
tượng là: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà
không có khả năng lao động sẽ có quyền được bằng hai phần ba của
một người thừa kế theo quy định của pháp luật. Ngọai trừ, các đối
tượng đó từ chối di sản căn cứ theo Điều 621 hoặc những người bị tước
quyền thừa kế theo khoản 1 điều 621.
Ví dụ: Vợ chồng ông An, bà Hoa có tài sản chung là nhà đất trị
giá 04 tỷ đồng. Ông A trước khi chết đã lập di chúc với nội dung là để
toàn bộ di sản cho 01 người con trai (cha, mẹ ông A đã chết).
3
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Như vậy căn cứ theo điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 ta có thể kết
luận rằng cho dù ông An không cho bà Hoa hưởng tài sản theo di chúc
nhưng bà Hoa vẫn sẽ nhận được di sản vì là người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc. Phần di sản bà Hoa được nhận sẽ được
tính như sau:
Di sản thừa kế của ông An là 02 tỷ (vì nhà đất là tài sản
chung nên chia đôi).
Nếu chia thừa kế theo pháp luật thì người thừa kế của ông
A thuộc hàng thừa kế thứ nhất là bà Hoa và con trai, mỗi
suất thừa kế là 1 tỷ đồng.
Tuy nhiên, vì bà Hoa thuộc đối tượng là người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc thì bà Hoa vẫn được hưởng với số tiền
là: (2.000.000.000.000 /2)*2/3=666.666.666.7 VND
4
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
5
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Một bản di chúc được xem như hoàn chỉnh và hợp pháp phải hội
tụ đầy đủ các yếu tố sau (theo điều 630-631 bộ luật Dân sự) :
Thứ nhất, điều kiện để bản di chúc được pháp luật công nhận là
hợp pháp:
Không có nội dung mà pháp luật cấm (xét theo khoản b
điều 630 bộ luật Dân sự- “Nội dung của di chúc không vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”). Tức
là, trong văn bản di chúc người lập cần phải đảm bảo các
điều khoản của mình sẽ không rơi vào các hành vi vi
phạm cụ thể mà pháp luật cấm.
Không có nội dung trái với đạo đức xã hội. Theo điều 123
bộ luật Dân sự 2015 có nói “đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Đạo đức xã hội chính
là chuẩn mực, phản ánh các nét đẹp truyền thống văn hóa
của một dân tộc hay cả một quốc gia. Vì thế chúng ta
cũng cần đảm bảo các điều khoản trong di chúc nằm
trong thước đo chuẩn mực của đạo đức xã hội.
Thứ hai, nội dung cụ thể của một văn bản di chúc cần có đầy đủ
các phần sau:
Điều 631. Nội dung của di chúc
Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
Ngày, tháng, năm lập di chúc;
Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
Di sản để lại và nơi có di sản.
Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có
thể có các nội dung khác.
Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu
di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số
thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự
viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên
bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
6
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
7
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
8
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Theo đó, những di chúc văn bản này không được công chứng,
chứng thực thì vẫn có giá trị pháp lý như di chúc được công
chứng, chứng thực.
Người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng.
Ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc. kể từ ngày người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải
được công chứng viên hoặc điểm chỉ của người làm
chứng.
Như vậy, di chúc miệng hợp pháp phải đáp ứng đủ 03 điều kiện
trên.
9
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
10
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột
của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
} Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội
dung di chúc.
} Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vị
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
Theo Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, sau 03 tháng
kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
1.7. Di chúc bị thất lạc,hư hại
Trong trường hợp di chúc được lập bằng văn bản trong quãng
thời gian từ khi di chúc được lập cho đến khi di sản được chia, có thể
xảy ra tình trạng thất lạc, hư hỏng, khi đó việc chia di sản sẽ được thực
hiện theo quy định của pháp luật tùy theo từng tình hình cụ thể. Điều
642 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về chia di sản khi di chúc bị thất
lạc, hư hại như sau:
Theo đó, khi di chúc bị thất lạc, hư hại thì di sản thừa kế được chia
như sau:
Chia di sản khi di chúc bị thất lạc, hư hại: Chia di sản chỉ diễn
ra sau khi người lập di chúc qua đời, vì vậy khi di chúc bị hư
hỏng, thất lạc sẽ không có người để đối chứng, lúc này di
chúc sẽ được chia theo quy định về thừa kế theo pháp luật.
Chia di chúc theo pháp luật chỉ diễn ra khi bản di chúc bị thất
11
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
lạc hoặc hư hại đến mức không thể hiện được đúng, đầy đủ ý
chí của người lập di chúc, cũng không có bằng chứng chứng
minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc. Di chúc
bằng văn bản được thể hiện bằng chữ viết trên giấy, do đó
việc bảo quản, giữ gìn di chúc không tốt có thể dễ dàng làm
mất hoặc hư hại di chúc.
Di chúc bị thất lạc được tìm thấy trước khi chia di sản: Di
chúc bị thất lạc có thể được tìm thấy trước khi chia di sản,
thời điểm từ khi mở thừa kế đến khi di sản được chia là một
quãng thời gian nhất định. Do đó tại thời điểm mở thừa kế
phát hiện ra di chúc đã mất, thì việc chia di sản sẽ được thực
hiện theo quy định về thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên trong
quãng thời gian đó, di chúc lại được tìm thấy thì di sản sẽ
được chia theo nội dung di chúc đã tìm thấy. Vì chia di sản là
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu, nên pháp luật luôn
tôn trọng ý chí, nguyện vọng của họ, trong mọi trường hợp
đều tạo điều kiện tối ưu nhất để bảo vệ sự độc lập, tự nguyện
của các chủ thể.
Di chúc bị thất lạc được tìm thấy sau khi di sản được chia.
Quy định của pháp luật trong tình huống này có thể xảy ra 03
trường hợp sau đây:
12
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
quãng thời gian này thì pháp luật vẫn phải tôn trọng ý
kiến, mong muốn của người thừa kế.
Trường hợp 3: Nếu người thừa kế yêu cầu chia lại di sản
theo nội dung của di chúc đã tìm thấy, tuy nhiên thời hạn
yêu cầu chia lại di sản đã hết thì di sản sẽ không chia lại.
Pháp luật quy định về thời hiệu yêu cầu chia di sản là bởi
vì quá thời gian đó di sản không còn giá trị như ban đầu,
việc chia lại di sản lúc này là không công bằng với những
người thừa kế còn lại.
Các quy định trên nhằm mục đích tôn trọng cao nhất ý chí,
nguyện vọng của người đã chết đồng thời dung hòa lợi ích của những
người thừa kế.
13
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Di chúc liên quan đến di sản là động sản có hiệu lực trong 10
năm.
Di chúc liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản của người đã
chết là 03 năm.
1.8.3. Hiệu lực của di chúc chung do vợ chồng cùng lập ra
Di chúc có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại
thời điểm vợ chồng cùng chết: Pháp luật không cho phép một bên
(vợ hoặc chồng) tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc khi vợ, chồng còn
sống mà chỉ cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ
sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình khi một
bên vợ hoặc chồng đã chết. Điều đó có nghĩa là hiệu lực pháp
luật của di chúc vợ chồng là tại thời điểm người sau cùng chết
(trường hợp chết cùng thời điểm rất ít khi xảy ra). Như vậy về
mặt pháp lý, người vợ hoặc chồng chết trước sẽ có hai thời điểm
mở thừa kế khác nhau đối với di sản của mình như đã nêu ở trên
và nó có mâu thuẫn với quy định “di chúc có hiệu lực pháp luật
từ thời điểm mở thừa kế” (khoản 1 điều 667). Hơn nữa quy định
như trên không đảm bảo nguyên tắc thống nhất ý chí giữa vợ và
chồng với nguyên tắc tự định đoạt của mỗi bên vợ hoặc chồng mà
cần phải kết hợp cả hai yếu tố này với nhau.
1.9. Gửi giữ và công bố di chúc
1.9.1. Gửi giữ di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi chết. Di chúc phải được lập thành văn bản;
nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Khi người lập di chúc muốn cho bản di chúc của mình được bảo
quản an toàn thì có thể gửi giữ di chúc. Việc gửi giữ được quy định tại
điều 641 BLDS 2015.
Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công
chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc
thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật này và
pháp luật về công chứng.
Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ sau đây:
14
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc,
hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm
quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao
lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của
người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai
người làm chứng.
Yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ di chúc. Cần lưu ý rằng,
cơ quan công chứng, chứng thực di chúc có thể là cơ quan
công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn,
nhưng Bộ luật dân sự cũng như pháp luật về công chứng,
chứng thực đều quy định chỉ có cơ quan công chứng mới thực
hiện việc lưu giữ di chúc.
Gửi người khác lưu giữ bản di chúc. Để bảo đảm cho việc
phân chia di sản sau khi người lập di chúc chết đúng với
mong muốn của mình, người lập di chúc thường gửi di chúc
cho một người mà mình có quan hệ chặt chẽ khi còn sống và
có thể đặt niềm tin vào người này. Người lập di chúc nên biết
rõ một số thông tin cơ bản về người gửi giữ bản di chúc trong
bản di chúc.
Tự mình giữ di chúc. Việc người lập di chúc tự mình lưu giữ
di chúc sẽ bảo đảm cho việc giữ gìn bí mật của bản di chúc,
chỉ một mình người lập di chúc biết được toàn bộ nội dung di
chúc cho đến khi người đó chết.
Khi gửi giữ di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng thì tuân
thủ hợp đồng gửi giữ. về việc thanh toán tiền cho bên giữ tài
sản.
Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công
chứng nhận lưu giữ di chúc của mình. Khi nhận lưu giữ di
chúc, công chứng viên phải niêm phong bản di chúc trước mặt
người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ và giao cho người lập
di chúc.
15
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Đối với di chúc đã được tổ chức hành nghề công chứng nhận
lưu giữ nhưng sau đó tổ chức này chấm dứt hoạt động, chuyển
đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì trước khi chấm dứt hoạt
động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể, tổ chức hành
nghề công chứng phải thỏa thuận với người lập di chúc về việc
chuyển cho tổ chức hành nghề công chứng khác lưu giữ di
chúc. Trường hợp không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận
được thì di chúc và phí lưu giữ di chúc phải được trả lại cho
người lập di chúc.
Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công
chứng được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
Điều kiện của lưu giữ đơn hợp pháp:
Phải niêm phong bản di chúc trước mặt người lập di chúc,
ghi giấy nhận lưu giữ
Khi tổ chức không tồn tại thì trả lại di chúc, phí lưu giữ cho
người lập di chúc.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi chết.
Định nghĩa này được nêu tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo đó, di chúc phải được lập di người để lại di sản đang còn sống,
tỉnh táo, sáng suốt, minh mẫn và không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép
lại di chúc.
Di chúc có thể do người để lại di sản tự lập bằng văn bản hoặc có
người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo quy định. Tuy
nhiên, di chúc được lập phải là di chúc hợp pháp khi đáp ứng các điều
kiện tại Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm:
Người lập di chúc lập theo ý chí của mình, có trạng thái tinh
thần minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc.
Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội…
Đồng thời, khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự nêu rõ: Di chúc có
hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế
16
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Trong đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản
chết. Như vậy, khi người có tài sản chết thì di chúc của người đó sẽ có
hiệu lực. Và để người thừa kế có thể làm thủ tục nhận di sản thì bản di
chúc này phải được công bố trước những người thừa kế.
Về thời điểm có hiệu lực của di chúc, khoản 1 Điều 643 Bộ luật
Dân sự nêu rõ: Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế
Và theo điểm c khoản 3 Điều 641 Bộ luật Dân sự: Giao lại bản
di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc,
khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập
thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có
mặt của ít nhất hai người làm chứng.
Như vậy, sau khi người lập di chúc chết, người đang giữ di chúc
phải giao di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố
di chúc. Tuy nhiên, việc công bố này không bắt buộc phải cùng thời
điểm với thời điểm mở thừa kế.
Theo khoản 1, khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự, người công bố
di chúc được quy định như sau:
Di chúc bằng văn bản lưu giữ tại tổ chức hành nghề công
chứng: Công chứng viên là người công bố di chúc.
Người lập di chúc chỉ định người công bố di chúc: Người
được chỉ định có nghĩa vụ công bố di chúc.
Người lập di chúc không chỉ định hoặc có nhưng người được
chỉ định từ chối công bố di chúc: Những người thừa kế thỏa
thuận để cử một người đứng ra công bố di chúc.
Như vậy, tùy vào việc di chúc có cử người công bố không hoặc
người lập di chúc gửi di chúc tại đâu để xác định người công bố di chúc.
Khoản 2 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về địa
điểm mở thừa kế như sau: Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng
của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng
thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di
sản.
Do đó, nếu người lập di chúc chết, địa điểm mở thừa kế là nơi cư
trú cuối cùng của người để lại di sản. Trong trường hợp nơi cư trú cuối
17
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
cùng của người lập di chúc không xác định được thì nơi mở thừa kế là
nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.
Theo phân tích ở trên, di chúc sẽ có hiệu lực tại thời điểm mở
thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) và pháp luật chỉ yêu cầu công
bố di chúc sau khi mở thừa kế. Do đó, sẽ xuất hiện hai tình huống:
Khi thực hiện thủ tục công bố di chúc, người công bố cũng như
người thừa kế theo di chúc cần lưu ý những quy định nêu tại Bộ luật
Dân sự sau đây:
Sau khi người lập di chúc chết, người được người lập di chúc
yêu cầu giữ di chúc giao cho các thừa kế hoặc người công bố
di chúc bằng văn bản, có chữ ký của bên giao, bên nhận và ít
nhất 02 người làm chứng.
Người công bố di chúc được người lập di chúc chỉ định có thể
từ chối thực hiện việc công bố.
Những người thừa kế có thể thỏa thuận cử người công bố di
chúc nếu trong di chúc không chỉ định hoặc người được chỉ
định công bố di chúc từ chối.
Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải gửi
bản sao di chúc đến tất cả những người có liên quan đến di
chúc.
Người thừa kế theo di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu bản
gốc di chúc.
Di chúc lập bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng
Việt và có công chứng hoặc chứng thực.
18
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Theo quy định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự: “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác.”
Di sản thừa kế có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản thuộc sở
hữu của người để lại di sản.
Tuy nhiên, trong thực tế nhiều vụ án, xác định đâu là di sản thừa kế
cũng khá khó khăn. Đơn cử vụ án sau đây:
Nguyên đơn bà Đỗ Thị T, Đỗ Thị N khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Văn H
phải chia thừa kế là quyền sử dụng đất do mẹ (cụ Phạn Thị M sinh năm 1925,
chết năm 2014) để lại, tổng diện tích đất yêu cầu chia thừa kế là 27.305m2.
Khi còn sống cụ M có tất cả 9 người con, ngoài các đương sự nêu trên
thì những người con còn lại được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Họ đều không tranh chấp, không yêu
cầu Tòa án chia phần thừa kế cho họ, thống nhất giao di sản cho Đỗ Văn H
quản lý để thờ cúng.
Đối với phần đất mà các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ cụ Phạm Thị M vào năm 2006 (Hộ
thời điểm được cấp giấy gồm cụ M và ông Đỗ Văn H). Thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì cụ Đỗ Văn R (cha của các đương sự đã chết
năm 1982). Cả cụ R và cụ M đều không để lại di chúc.
19
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Với bản chất này của đại diện, nếu chúng ta đưa vào áp dụng trong di chúc sẽ
không thể phù hợp ở chỗ:
Việc nhân danh và vì lợi ích của cá nhân - người để lại di sản rất
khó xác định trên thực tế. Bởi vì, hoạt động lập di chúc chỉ mang lại
lợi ích tinh thần cho người để lại di sản. Nên chỉ bản thân cá nhân
đó mới có thể hiểu được một cách rõ ràng, những lợi ích tinh thần
mà mình cần hoặc mong muốn đạt được;
Di chúc là loại giao dịch đặc thù, chỉ có hiệu lực khi người lập di
chúc chết đi.
Do đó, khi cá nhân lập di chúc chết, việc nhân danh và vì lợi ích
của họ cũng không còn ý nghĩa trên thực tế. Vì vậy, pháp luật
không thừa nhận cơ chế đại diện trong hoạt động lập di chúc.
Điều 625 BLDS năm 2015 quy định về người lập di chúc như sau:
Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di
chúc”.
Theo quy định này, hai nhóm cá nhân được luật cho phép thực hiện
quyền lập di chúc bao gồm:
Người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không
bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi nếu được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Rõ ràng theo sự ghi nhận này, người lập di chúc và người xác lập giao
dịch nói chung đã được khoanh vùng và xác định theo phạm vi khác nhau.
1.3. Di chúc miệng
Theo quy định của Điều 629 BLDS năm 2015 “Di chúc miệng được coi
là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký
tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng
viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc
điểm chỉ của người làm chứng”. Thực tế, việc sử dụng di chúc miệng có
rất nhiều hạn chế:
Thứ nhất vốn dĩ thông thường khi người ta lập di chúc bằng miệng
đều trong những tình huống đặc biệt, mang tính cấp bách nên ít khi
nào có thể thỏa mãn tất cả các điều kiện trên. Ví dụ trong hoàn
cảnh khi có người nhà gặp tai nạn sắp mất muốn dặn dò con cháu
trong gia đình bằng lời là phổ biến, thì đó chúng ta khó mà quan
tâm đến vấn đề di chú có đáp ứng đủ điều kiện hay không hay có
thực hiện nhưng không đủ thủ tục. Vì thế, trong những phiên tòa
xử tranh chấp di sản thì thường di chúc bằng miệng bị hủy bỏ.
20
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Thứ hai nằm trong việc pháp luật hiện nay không có những điều
khoản cụ thể quy định việc thực hiện công chứng hoặc chứng thực
di chúc miệng là do người nào thực hiện (người thừa kế được
hưởng di sản hay những người làm chứng). Dẫn đến người hưởng
di sản và người làm chứng trông chờ nhau, dẫn đến quá thời hạn
“05 ngày làm việc”.
Thứ ba trong trường hợp di chúc miệng được lập trong tình trạng
đặc biệt “tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập
di chúc bằng văn bản”. Như vậy việc đáp ứng “người làm chứng
ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ; công chứng/chứng thực
trong thời hạn 05 ngày làm việc” là điều tương đối khó khăn.
Kiến nghị sửa đổi
2.1. Kiến nghị sửa đổi về vấn đề xác định di sản
Ý kiến về di chúc chung của vợ chồng:
Di chúc của vợ chồng được quy định tại Điều 663 và Điều 664
BLDS. Theo Điều 663 BLDS, vợ chồng có thể lập di chúc để định
đoạt tài sản chung. Theo Điều 664 BLDS Khoản 1, sau khi lập di
chúc chung, vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung. Và theo quy định tại Điều 644 Khoản 2 BLDS, vợ
hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung
thì phải được sự đồng ý của người kia. Vì quy định này, nên sau khi
lập di chúc chung xảy ra vấn đề thực tế là di chúc chung chỉ được
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ khi vợ chồng cùng thống nhất.
Do đó, nếu chỉ có vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ mà người kia không đồng ý thì không thể thực hiện được.
Vấn đề này đã xâm phạm quyền tự định đoạt của người có sở hữu
tài sản đối với người đã có vợ hoặc có chồng. Quy định này trái với
Điều 648 BLDS về quyền của người lập di chúc và trái với Điều
662 Khoản 1 BLDS quy định về quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ di chúc của người lập di chúc.
Theo quy định tại Điều 664 Khoản 2 BLDS, sau khi lập di chúc
chung của vợ chồng, nếu một người đã chết thì một người chỉ có
quyền sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Thực tế xảy ra trường hợp người vợ hoặc người chồng còn sống
muốn thay thế, hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình thì
không thể thực hiện được vì theo Điều 664 Khoản 2 BLDS, người
vợ hoặc người chồng còn sống chỉ có quyền được sửa đổi, bổ sung
không được quyền thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng.
21
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Theo quy định tại Điều 668 BLDS, di chúc chung của vợ chồng có
hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ
chồng cùng chết. Vì vậy, sau khi người vợ hoặc người chồng qua
đời, di chúc chung của vợ chồng chưa có hiệu lực vì còn một người
còn sống. Trong thực tế, quy định này gây khó khăn cho nhiều
trường hợp sau khi người vợ hoặc người chồng qua đời, các người
thừa kế (cha, mẹ, vợ hoặc chồng còn sống, các con, …) muốn thực
hiện di chúc đối với phần tài sản của người đã qua đời (vì hoàn
cảnh kinh tế khó khăn) nhưng không thể thực hiện được. Do đó, có
khó khăn của gia đình không thể giải quyết được, phát sinh ra nhiều
mâu thuẫn do di chúc không được thực hiện. Hơn nữa, quy định tại
Điều 668 BLDS mâu thuẫn với Điều 663 Khoản 1 và Điều 667
Khoản 1 BLDS. Theo quy định tại Điều 667 khoản 1 BLDS, di
chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định
tại Điều 663 Khoản 1 BLDS, thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Nhưng đối với di chúc chung của vợ chồng,
vì quy định của Điều 668 BLDS nên Điều 667 Khoản và Điều 663
khoản 1 không thể thực hiện.
Chúng tôi đề nghị, đối với trường hợp di chúc chung của vợ chồng
thì mọi quy định khác của BLDS về di chúc đều được áp dụng như
đối với trường hợp di chúc riêng.
Ý kiến đối với các quy định về thời hiệu liên quan đến thừa kế:
Theo quy định tại Điều 645 BLDS, thời hiệu để người thừa kế khởi
kiện yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế. Quy định này trái với truyền thống của người Việt Nam.
Vì từ lâu đời nay, sau khi cha mẹ qua đời, ai đang quản lý, trông
coi, sử dụng … di sản thì người có tiếp tục thực hiện, anh chị em rất
ít khi tranh chấp. Vì quy định của Điều 645 BLDS nên thực tế xảy
ra tranh chấp đối với người biết quy định về thời hiệu 10 năm. Đối
với người không biết thời hiệu là 10 năm thì sau đó bị mất quyền
tranh chấp di sản thừa kế. (Việc tranh chấp tài sản chung theo Nghị
quyết 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, sau
khi hết thời hiệu thừa kế, là cực kỳ khó khăn vì phải có đủ 02 điều
kiện : không tranh chấp về hàng thừa kế, thừa nhận là di sản chung
chưa chia).
22
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Theo quy định tại Điều 645 BLDS, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là
03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thực tế, vì sự khác nhau về
thời hiệu tranh chấp thừa kế và thời hiệu khởi kiện yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết nên nhiều chủ nợ của người
để lại di sản đã mất quyền khởi kiện.
Hiện nay, từ ngày 01-01-2012 (sau khi BLTTDS được sửa đổi bổ
sung có hiệu lực) quy định tại Điều 645 BLDS đã mâu thuẫn với
Điều 159 Khoản 3 mục a BLTTDS. Vì theo Điều 159 Khoản 3 mục
a BLTTDS, tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi
lại tài sản cho người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp
dụng thời hiệu khởi kiện.
Chúng tôi đề nghị không quy định thời hiệu tranh chấp thừa kế.
Việc khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người chết để lại phải phù hợp với Điều 159 Khoản 3 mục a
BLTTDS, ngoài ra, đối với các trường hợp khác thì thời hiệu khởi
kiện áp dụng theo Điều 159 Khoản 3 mục b BLTTDS (thời hiệu
khởi kiện là 02 năm kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Ý kiến về xác định phần di sản thờ cúng:
Theo quy định tại Điều 670 BLDS, di sản dùng vào việc thờ cúng
là một phần di sản của người đã qua đời. Điều 670 BLDS không
xác định phần di sản này là bao nhiêu. Do đó, trong thực tế, người
lập di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà của mình làm di sản thờ cúng
(dù người này chỉ có 01 căn nhà) thì di chúc vẫn có hiệu lực thi
hành. Việc xác định phần di sản thờ cúng bằng một điều luật sẽ rất
khó khăn, hơn nữa, xâm phạm quyền tự định đoạt của người có tài
sản.
Theo chúng tôi, đối với di sản thờ cúng dành cho người lập di chúc
quyền định đoạt của mình.
Ý kiến đối với di sản đã hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế mà không có
người nhận thừa kế:
Theo chúng tôi, trong trường hợp có quy định thời hiệu thừa kế, sau
khi hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế mà không có người nhận thừa
kế thì di sản đó thuộc về quyền quản lý của nhà nước.
23
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Nhưng nếu áp dụng Điều 159 Khoản 3 mục a BLTTDS thì nhà
nước chỉ tạm thời quản lý đối với di sản đã hết thời hiệu yêu cầu
chia thừa kế. Sau đó, nếu có khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu
tài sản, tranh chấp về quyền sử dụng đất,… theo như quy định tại
Điều 159 Khoản 3 mục a BLTTDS thì Tòa án sẽ xem xét.
Ý kiến đối với thừa kế thế vị:
Theo chúng tôi, Điều 677 BLDS quy định về thừa kế thế vị cần xác
định rõ trường hợp con đẻ của người chết để di sản chết trước hoặc
cùng thời điểm với người để lại di sản. Vì Điều 677 BLDS chỉ quy
định trường hợp con của người chết để lại di sản chết trước hoặc
cùng thời điểm với người để lại di sản. Do đó, thực tế việc áp dụng
Điều 677 BLDS có nhiều trường hợp rất khác nhau, nơi thì thừa
nhận con nuôi được thừa kế thế vị, nơi thì không. Điều 676 Khoản
1 mục a BLDS ghi hàng thừa kế thứ nhất là con đẻ, con nuôi của
người chết. Theo quy định tại Điều 2 Khoản 5 LHNGĐ, nhà nước
và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con (con đẻ
và con nuôi).
Ý kiến đối với quan hệ thừa kế giữa con riêng, và bố dượng, mẹ kế:
Theo quy định tại Điều 679 BLDS, con riêng và bố dượng, mẹ kế
nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì
được thừa kế di sản của nhau. Quy định này rất chung chung nên
thực tế việc quyết định được thừa kế hay không thừa kế.
Chúng tôi đề nghị cần quy định rõ các điều kiện về con riêng và bố
dượng, mẹ kế được hưởng thừa kế di sản của nhau (như bắt đầu từ
bao nhiêu tuổi, cùng cư ngụ…)
2.2. Kiến nghị sửa đổi về vấn đề năng lực người lập di chúc
Thứ nhất, về năng lực chủ thể lập di chúc:
Quy định của BLDS năm 2015 ghi nhận điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự và di chúc có phần khác nhau về năng lực chủ thể.
Trong khi khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định một trong
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch là: “Chủ thể có năng lực
pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch
dân sự được xác lập”. Theo quy định này, năng lực chủ thể xác lập
giao dịch bao gồm năng lực pháp luật và hành vi đều được đề cập
với tư cách là điều kiện bắt buộc để xác định hiệu lực của giao dịch,
nhưng khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới năng lực
hành vi và sự tự nguyện của người lập di chúc: “Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
doạ, cưỡng ép”. Sự thiếu sót tại Điều 630 BLDS năm 2015 khi quy
24
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
định về điều kiện để di chúc hợp pháp hoàn toàn có thể lý giải theo
hướng, di chúc là một loại giao dịch nên khi không quy định cụ thể
sẽ được áp dụng quy định chung về giao dịch để xem xét. Tuy
nhiên, vấn đề cần đặt ra là cả quy định phần chung và phần cụ thể
đều không ghi nhận hậu quả pháp lý cụ thể khi giao dịch nói chung
hoặc di chúc nói riêng vi phạm quy định về năng lực chủ thể xác
lập.
Khoản 2 Điều 218 BLDS năm 2015 quy định: “Việc định đoạt tài
sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ
sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi
định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung thông qua các loại giao dịch
có thể xảy ra hai trường hợp: Một là, người định đoạt chỉ được
định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Hai là, việc định đoạt tài
sản thuộc sở hữu chung có thể dựa trên thoả thuận hoặc pháp luật
quy định. Tức là, xác lập các giao dịch định đoạt tài sản chung
vẫn được chấp nhận khi có sự đồng ý của các đồng sở hữu. Điều
này sẽ không có vấn đề gì bất cập nếu các chủ thể thực hiện đúng
theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không ghi nhận
hậu quả pháp lý để xử lý triệt để quy định về các trường hợp sau:
(i) Người xác lập giao dịch nói chung định đoạt tài chung hoặc cả
tài sản của người khác không dựa trên thoả thuận hoặc quy định
của pháp luật. Giao dịch được xác lập sẽ vô hiệu toàn bộ hay một
phần? Chúng tôi cho rằng, cần thiết phải có quy định bổ sung cho
phần nội dung này; (ii) Người lập di chúc định đoạt tài sản chung
hoặc của người khác, thậm chí định đoạt tài sản thuộc sở hữu
chung được sự đồng ý của các đồng sở hữu chủ. Về giao dịch
thông thường, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung mà có sự
đồng ý của các đồng sở hữu thì vẫn được ghi nhận giá trị pháp lý,
nhưng đối với di chúc, hiện tại quy định này chưa được ghi nhận.
Bởi vì, di chúc vẫn chỉ được định nghĩa là ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Rõ ràng,
đây là những hạn chế cần phải được hoàn thiện để cá nhân xác lập
giao dịch nói chung và lập di chúc nói riêng.
Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 630
như sau: Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; thực hiện quyền lập di chúc trong phạm vi giới hạn luật
định; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”.
25
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Về nội dung này, BLDS năm 2015 đã có những quy định thay đổi
để đảm bảo tính phù hợp hơn so với các BLDS trước đó. Thay vì
chỉ cần sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho đối tượng từ
đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám như các văn bản quy phạm
pháp luật trước, khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015 quy định
“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di
chúc”. Điều này khẳng định một cách rõ ràng hơn, là cha, mẹ hoặc
người giám hộ không được can thiệp vào nội dung di chúc của
người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Quy định này thể
hiện được sự phù hợp khi xét về bản chất của di chúc. Vì nội dung
của di chúc phải là sự thể hiện ý chí của người thiết lập ra nó, cho
nên quy định mới này là phù hợp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng,
quy định về sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám
đối với loại di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười
tám là hợp lý nhưng vẫn chưa thuyết phục, vì:
Một là, di chúc là một loại giao dịch trọng hình thức. Tức pháp
luật đề cao phương tiện ghi nhận sự thể hiện ra bên ngoài của ý
chí hơn là những yếu tố mang tính ý niệm ở bên trong. Theo đó,
việc lập di chúc của nhóm cá nhân này cần thiết phải ghi nhận
một cách rõ ràng hơn sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám
hộ về việc lập di chúc bằng hình thức cụ thể mà qua đó, có thể
chứng minh được sự tồn tại của nó một cách đơn giản nhất. Vì
di chúc có hiệu lực ở thời điểm người lập di chúc chết, nếu việc
đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc
không rõ ràng thì có thể dẫn tới “sự không tồn tại bản di chúc”
trong kết luận chứng minh. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm
trọng tới quyền của người lập di chúc và đồng thời ảnh hưởng
tới quyền, lợi ích của những người thừa kế được chỉ định trong
di chúc. Họ sẽ phải vất vả rất nhiều trong việc chứng minh sự
tồn tại sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người
này.
Hai là, việc xác định phạm vi chủ thể đồng ý cho lập di chúc
chưa bao quát được các trường hợp khác trong đời sống dân sự.
Thực tế cho thấy, có trường hợp tại thời điểm người từ đủ 15
26
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
đến dưới 18 tuổi lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân hay
cha hoặc mẹ biết việc lập di chúc của con và chỉ có một người
đồng ý. Người còn lại có thể biết hoặc không biết về việc lập di
chúc và chưa thể hiện sự đồng ý, và khi có tranh chấp, họ hoàn
toàn có thể thể hiện ý chí mình về việc chưa đồng ý. Rõ ràng,
với quy định hiện tại, người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười
tám tuổi chỉ có thể lập di chúc khi người này rơi vào một trong
hai trạng thái: (i) phải có cả cha, mẹ và cả cha, mẹ phải đồng ý
cho lập di chúc; (ii) có người giám hộ. Sự ghi nhận này hoàn
toàn chưa đảm bảo được yếu tố khách quan và toàn diện vì nó
có thể xâm phạm với quyền, lợi ích của một nhóm người trong
xã hội.
Do đó, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi khoản 2 Điều 625 như
sau: “Người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có quyền lập di chúc,
nhưng chỉ được lập di chúc bằng văn bản khi có sự đồng ý bằng
văn bảnvề việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc người giám hộ.
Trường hợp, người lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm
lập di chúc chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản của một người
nhưng người còn lại phải ở trạng thái không thể biết việc lập di
chúc đó không do lỗi của mình”.
Ngoài những độ tuổi về người lập di chúc được BLDS năm 2015
quy định rõ ràng, điều dễ nhận thấy là người dưới mười lăm tuổi
không được lập di chúc. Tuy nhiên, cách thể hiện của quy định
này chưa thật rõ vì BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới hai chủ thể là
người trên 18 tuổi và người từ đủ 15 đến chưa đủ mười tám.
Trong khi đó, những vấn đề liên quan đến các chủ thể có độ tuổi
dưới mười lăm lại được quy định rải rác ở các điều luật khác. Ví
dụ: người dưới 6 tuổi, hoặc từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi không
được lập di chúc nhưng không được quy định cụ thể là suy luận
từ khoản 2, 3 Điều 21 BLDS năm 2015 hay trường hợp người bị
hạn chế về mặt thể chất, họ không xuất hiện trong Điều 625
BLDS năm 2015 nhưng lại xuất tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm
2015 với địa vị pháp lý giống chủ thể được quy định tại Điều 625
BLDS năm 2015. Vì vậy, cần sửa đổi nội dung của Điều 625 về
người lập di chúc dưới 15 tuổi theo hướng xác định rõ giá trị pháp
27
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
lý của hành vi này (như kinh nghiệm của Thái Lan, tại Điều 1703
BLDS Thái Lan quy định rõ: “Di chúc do một người chưa đủ
mười lăm tuổi lập thì không có giá trị”).
Thứ tư, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt đối với người lập di
chúc là chưa thực sự logic và khoa học:
BLDS năm 2015 dành cả Điều 625 để ghi nhận về cá nhân được
lập di chúc. Nhưng quy định tại khoản 1 điều này lại kết nối với
Điều 630 để ràng buộc điều kiện cũng như khoanh vùng loại bỏ
tư cách chủ thể lập di chúc. Sự kết nối hay dẫn chiếu này không
sai phạm về mặt lập pháp nhưng lại trở thành thiếu sót khi kết
hợp với quy định khoản 2. Với sự xuất hiện của hai khoản này,
người đọc sẽ hiểu rằng điều kiện về sự minh mẫn, sáng suốt chỉ
cần đặt ra đối với người thành niên, còn người từ đủ mười lăm
đến chưa đủ mười tám tuổi vì có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc
người giám hộ nên sẽ không cần đến điều kiện này nữa. Nhưng
khi nghiên cứu Điều 630 một cách độc lập, chúng tôi nhận thấy,
quy định tại khoản 1 Điều này là bắt buộc áp dụng đối với tất cả
mọi chủ thể lập di chúc. Và như vậy, di chúc do người thành niên
hay người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi lập cũng
phải thỏa mãn điều kiện về người lập di chúc phải minh mẫn,
sáng suốt. Cho nên, cách dẫn nhập tại khoản 1 Điều 625 tới Điều
630 là không cần thiết. Thậm chí, quy định liên quan tới người từ
đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi tại khoản 2 Điều 625
gần như được nhắc lại y nguyên quy định tại khoản 2 Điều 630.
Điều này cho thấy sự không cần thiết trong cách thức viện dẫn về
người có quyền lập di chúc và điều kiện về người lập di chúc khi
xác định tính hợp pháp của di chúc.
Thứ năm, cách thức sử dụng từ ngữ thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm
lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật:
Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực”. Quy định này có một số vấn đề cần được làm rõ
như sau:
28
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Một là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này có hàm ý chỉ
những cá nhân có trạng thái thể chất khác nhau thì điểm khác
nhau ở đây là gì? Hay đơn thuần, người có khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi là người bị Tòa án tuyên còn
người có khiếm khuyết về mặt thể chất chưa bị Tòa án tuyên.
Cách hiểu này chưa đưa tới câu trả lời thỏa đáng cho quy định
tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015. Vì trong quy định về
thừa kế theo di chúc, người có khó khăn trong nhận thức và
làm chủ hành vi không được đề cập tới một cách cụ thể. Còn
người khiếm khuyết về mặt thể chất lại được thực hiện quyền
lập di chúc. Quy định như vậy dễ dẫn tới sự hiểu lầm, người
có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không được
quyền lập di chúc.
Hai là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này đang có hàm ý chỉ
những cá nhân có trạng thái thể chất giống nhau lại càng
không phù hợp khi không sử dụng chung một cụm từ để đảm
bảo tính thống nhất. Cho nên, nếu đã bổ sung quy định về
người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì nên
đồng nhất cách sử dụng ở từng điều luật, văn bản quy phạm
pháp luật.
Về nội dung này, chúng tôi cho rằng, việc kế thừa quy định cho
người hạn chế về mặt thể chất, người không biết chữ được quyền
lập di chúc, đồng thời xác định người này khác người khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi ở chỗ chưa bị Tòa án tuyên
thì nên ghi nhận thêm cả điều kiện để di chúc của người khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi hợp pháp. Có như vậy, quy
định xét tính hợp pháp đối với người lập di chúc ở trường hợp
này mới đầy đủ và toàn diện.
Hơn nữa, để đảm bảo quyền lập di chúc của mọi cá nhân, quy
định về người hạn chế về mặt thể chất nên định hướng rõ điều
kiện để di chúc họ lập sẽ phát sinh hiệu lực. Theo đó, quy định tại
hoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 cần sửa lại theo hướng: “Di
chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết chữ
hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi do người
được người này chỉ định lập thành văn bản trước mặt ít nhất hai
người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng thực”.
29
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Tóm lại, chúng tôi kiến nghị hai quy định độc lập sau:
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên không bị mất năng lực hành
vi dân sự có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập
di chúc.
Người dưới mười lăm tuổi không được quyền lập di chúc.
Quy định về tính hợp pháp đối với người lập di chúc.
“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc;
thực hiện quyền lập di chúc trong phạm vi giới hạn luật
định; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”.
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi phải được lập bằng văn bản khi có sự đồng ý bằng văn
bảnvề việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc người giám hộ.
Trường hợp người lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm
lập di chúc thì chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản của một
người nhưng người còn lại phải rơi vào trạng thái không thể
biết việc lập di chúc đó không do lỗi của mình.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết
chữ hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
do người được người này chỉ định lập thành văn bản trước mặt
ít nhất hai người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng
thực”
30
Đề tài: Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Dân sự Việt Nam-Lý luận và thực tiễn
Thứ hai người hưởng di sản là người trực tiếp có quyền lợi, nghĩa vụ
đối với di sản được hưởng thế nên cũng cần phải là người có trách
nhiệm đảm bảo hiệu lực của di chúc, vì vậy, cần sửa đổi khoản 5 Điều
630 BLDS năm 2015 theo hướng bổ sung quy định rõ trách nhiệm
công chứng, chứng thực di chúc miệng là của người hưởng di sản.
Thứ ba,sửa đổi Điều 629 BLDS năm 2015 theo hướng bổ sung quy
định lại thời điểm bắt đầu tính thời hạn, hoặc kéo dài thời hạn mà
những người làm chứng có thể ghi chép lại, ký tên hoặc điểm chỉ và
công chứng hoặc chứng thực di chúc trong những trường hợp đặc
biệt, không đủ điều kiện để thực hiện theo đúng thời hạn thông
thường.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Sau quá trình nghiên cứu ta nhận thấy thừa kế theo di chúc là một chế
định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam.
Quyền để lại thừa kế và quyền được thừa kế là những quyền cơ bản của công
dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và
bảo hộ.Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa
với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do
đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,
tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn…đã khiến cho không ít
người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một
bản di chúc. Bên cạnh đó có những ngƣời đã lập di chúc nhƣng lại chưa hiểu
rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho
những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút
đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Do đó,việc nghiên cứu về thừa kế
theo di chúc nhằm nắm bắt được thực trạng của chế định này trong xã hội đồng
thời có các biện pháp hoàn thiện là rất cần thiết, để mọi công dân đều đƣợc
đảm bảo quyền lợi công bằng trong các mối quan hệ về tài sản nói chung và
quyền thừa kế nói riêng....hướng đến công bằng ổn định xã hội...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng môn pháp luật đại cương của giảng viên Võ Thị Mỹ Hương
2. Bộ Luật Dân sự 2015
3. Website:
[1] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-
296215.aspx
[2] https://trungtamdichuc.com/giai-thich-noi-dung-di-chuc.html
[3] congchungthinhtri.com
[4] luat247.vn
31