You are on page 1of 5

PHÂN TÍCH ĐỜI THỪA

I. Tìm hiểu chung:


1. Hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm Đời thừa được tác giả Nam Cao sáng tác vào năm 1943 đồng thời cũng là
một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách văn chương của ông. Truyện
ngắn Đời thừa được viết trước cách mạng tháng Tám, khi chính nhà văn phải chịu
cảnh cơm áo gạo tiền trên sự nghiệp viết văn nên ông thấy được tấn bi kịch của người
tri thức. Thông qua tác phẩm, người đọc có thể thấy rõ hình ảnh của những người tri
thức nghèo, khi cái nghèo ấy cứ lẩn quẩn và đeo bám và nhấn chìm những hoài bảo,
những ước mong lớn lao.
2. Đề tài:
Là truyện ngắn tiêu biểu của mảng sáng tác về đời sống trí thức nghèo của Nam Cao
trước Cách mạng.
3. Vị trí, giá trị:
- Là truyện ngắn thể hiện rõ nét sở trường của nhà văn trong nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật, nghệ thuật tạo lời văn triết lý. Thông qua bi kịch của Hộ, tác phẩm thể hiện
lời tố cáo gay gắt với xã hội phi nhân tính, bóp chết mọi ước mơ, tước bỏ mọi ý nghĩa
cuộc sống chân chính của con người.
- Có rất nhiều nhà văn viết về đề tài hiện thực, về người nông dân hay trí thức, tuy
nhiên sang đến Nam Cao người đọc mới cảm nhận được sâu sắc nhất giữa hiện thực đi
kèm giá trị trong tâm hồn con người - đó là những phút giây rằng xé đau đáu khi
không được sống trọn vẹn cả hai, chẳng ai muốn có cuộc đời như vậy. “Đời thừa”
xứng đáng là áng văn chương bất hủ về bi kịch cuộc đời cùng khổ của người trí thức
và cũng là khúc ru bất hủ của lương tri con người.
4. Tóm tắt cốt truyện:
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người
trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm
bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng được một
tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể
được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực
nhục trong cuộc sống.
Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy
chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một
người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng
thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người
tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng,
khổ tâm vì chuyện gia đình.
Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều
mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một
cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại
đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn
nạn”.
Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn,
sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng
biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu
liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con
và tự trách mình.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Hình tượng nhân vật Hộ:
a. Bi kịch tình thương:
*Khi còn trẻ (trước khi xảy ra bi kịch):
- Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Lúc mẹ
Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho
đứa con thơ... Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là
ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm: Kẻ
mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.
-Khi bị áo cơm ghì sát đất, cảm nhận được gánh nặng áo cơm đang bóp nghẹt lý tưởng
văn chương của mình, Hộ đã không ít lần điên lên, cũng có lúc nghĩ tới việc ruồng rẫy
vợ con, đã có lúc nghĩ rằng vợ con làm anh khổ sở,... Nhưng cuối cùng anh vẫn không
thể hy sinh tình thương, dù là vì nghệ thuật anh mê đắm, tôn thờ, dù là là vì hoài bão
anh đeo đuổi. Với Hộ, tình thương, lòng bác ái là vẻ đẹp cao cả của những tâm hồn
khổng lồ, của kẻ mạnh - điều đã từng cho anh niềm kiêu hãnh. Tình thương chính là
tiêu chí xác định nhân cách con người, nếu không có tình thương, con người chỉ là một
thứ quái vật.
- Hơn nữa, nghệ thuật mà Hộ tôn thờ, khao khát phải là thứ nghệ thuật thấm đẫm giá
trị nhân đạo, là tác phẩm ca ngợi tình thương, lòng bác ái.
*Khi nguyên tắc sống cao quý bị chà đạp (bi kịch diễn ra):
- Cái giá phải trả cho tình thương của Hộ chính là sự huỷ hoại hoàn toàn lý tưởng, hoài
bão, là sự từ bỏ lương tri nghề nghiệp, là phải chấp nhận cách viết cẩu thả, nhạt nhẽo,
hời hợt. Dù đã qua bao nhiêu thời gian, Hộ vẫn không thế chấp nhận. Chính vì thế mà
anh luôn u uất, buồn bã. Lúc đầu, Hộ bấu víu vào hy vọng là tạm chấp nhận sự hy sinh
ấy trong vài năm, đợi khi Từ đã có 1 vốn con con để làm ăn thì anh sẽ trở lại với hoài
bão lớn trong sự nghiệp. Nhưng cuộc sống áo cơm ngày càng khó khăn, những bận rộn
tẹp nhẹp vô nghĩa lý đã ngốn phần lớn thời giờ, đẩy anh vào cái guồng quay nghiệt
ngã, không lối thoát của cuộc sống mưu sinh, anh buộc anh phải viết nhiều, viết nhanh,
viết âủ để kiếm tiền và hy vọng trở lại với hoài bão văn chương càng trở nên hão
huyền, xa xôi, vô vọng.
- Đau khổ khiến Hộ tìm rượu giải sầu, gặp bạn bè nói chuyện văn chương, gợi ra
những chương trình mà ngay khi nói đã biết là chẳng bao giờ thực hiện được. Giấc
mộng văn chương xa xôi cùng hình ảnh ''một con người rất đáng yêu đã chẳng còn là
mình nữa'' khiến Hộ nhớ nhung, tiếc nuối, phẫn uất, đau đớn, khổ sở, bi phẫn.
- Tất cả những nguyên tắc tình thương bỗng chốc sụp đổ trong men rượu. Rượu làm
cho Hộ càng thấm thía nỗi khổ sở cay đắng của mình, lấy đi của Hộ lý trí tỉnh táo, anh
trút nỗi uất hận lên đầu những người mà trong lúc phẫn chí anh đã coi là nguồn gốc
trực tiếp gây ra bi kịch cuộc đời mình.
*Khi tỉnh rượu (nhận ra bị kịch):
- Khi tỉnh rượu, Hộ đã nhận thức một bi kịch đau đớn thứ hai trong đời: một con người
coi tình thương là nguyên tắc sống nay đã vi phạm lẽ sống tình thương, một con người
coi tình thương là tiêu chí làm người nay đã chà đạp lên những người mà anh yêu
thương đến mức hy sinh của nghệ thuật vì họ. Anh xót thương cho người vợ của mình,
hối hận đau đớn khi nhìn thấy vợ.
- Nếu trong bi kịch văn chương, Hộ đã hy sinh lương tri nghề nghiệp để giữ lấy lương
tri của con người vì thế dù không còn hy vọng gì về một tác phẩm để đời nhưng Hộ
vẫn còn được làm người chứ không phải quái vật thì trong bi kịch thứ hai, khi hủy hoại
tiêu chí làm người, Hộ đã thấy mình đánh mất hết lương tri, không thể biện hộ hay tha
thứ cho mình. Hơn thế nữa, Hộ hy sinh nghệ thuật vì tình thương, nay khi anh chà đạp
lên nguyên tắc sống của tình thương thì sự hy sinh nghệ thuật của anh cũng trở thành
vô nghĩa. Bi kịch thứ hai vì thế mà đau đớn, chua xót hơn rất nhiều vì nó không thể an
ủi, không thể biện hộ.
Tiểu kết: Cứ như thế, cuộc đời Hộ chìm trong những bế tắc luẩn quẩn của bi kịch mà
tới kết thúc truyện anh vẫn chưa có gì đảm bảo là sẽ thoát ra được. Một vòng tròn quẩn
quanh, bế tắc trong bi kịch của một nhà văn tự thấy mình đã hỏng và đang sống kiếp
đời thừa trong văn chương, của một con người tự coi mình là thằng khốn nạn, khi Hộ
tự kết án mình thì Từ phủ nhận lời kết ấy và nói: ''Anh chỉ là người khổ sở''. Lời kết án
hướng tới nhân cách còn lời bào chữa thì là sự xót thương, cảm thông cho số phận. Tất
cả mở ra một lời kết án phẫn uất hơn với xã hội đương thời, một xã hội không dung
nạp tài năng và tâm huyết, đẩy con người tới bước đường cùng của tha hoá.
=> Từ một con người luôn xem trọng tình thương nhưng cuộc sống đã khiến cho Hộ
thay đổi thành một con người khác, trở thành con sâu rượu, trở thành một kẻ vũ phu.
Xã hội bất công có sức tàn phá con người vô cùng lớn, qua đây cũng thấy giữa lý
tưởng và cuộc sống hiện thực rất xa vời.
b. Bi kịch văn chương:
*Hộ có phẩm chất của một nhà văn chân chính:
- Đam mê mãnh liệt với văn chương:
+ Trước khi lấy Từ, Hộ quan niệm anh phải viết một tác phẩm vượt lên mọi giá trị bờ
cõi, phải đạt giải thường Noben. Một tác phẩm mà chưa có ai viết về vấn đề mà anh
viết, đặc biệt nó còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
+ Đọc sách chăm chú.
+ ''Nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa''
- Coi văn chương là lẽ sống, hoài bão cao đẹp, lý tưởng sống của cuộc đời. Hộ không
phải là một kẻ háo danh tầm thường mà ngược lại là biểu hiện mạnh mẽ của một con
người có ý thức cá nhân sâu sắc, không chấp nhận cuộc sống vô danh, vô nghĩa, muốn
nâng cao giá trị đời sống bằng một sự nghiệp văn chương có giá trị, được mọi người
thừa nhận.
- Hộ đồng thời là một nhà văn có lương tri:
+ Cho rằng sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện, có thái độ nghiêm túc và cao
quý về nghề văn, vì lương tri mà anh viết thận trọng dù cuộc sống eo hẹp, khổ sở.
+ Xác định rõ ràng và có ý thức thường trực về tư cách nghệ sĩ của mình. Anh đề cao
sáng tạo: ''Văn chương không cần những người thợ khéo tay.... những gì chưa có'', Hộ
khát khao sáng tạo và cống hiến.
=> Hộ hiện lên là một nghệ sĩ thực sự vừa quyết liệt vừa cực đoan, ở anh hội tụ đầy đủ
những phẩm chất, phẩm cách để có thể theo đuổi giấc mộng văn chương, tạo dựng sự
nghiệp có giá trị.
*Tất cả những phẩm chất đẹp đẽ của một nhà văn chân chính, tất cả những lý
tưởng, khát vọng cao cả của Hộ bỗng chốc bị đổ vỡ tan tành, bị hủy hoại đau đớn,
bị nghiền nát phũ phàng trước thực tế cuộc sống:
- Khi có gia đình, Hộ hiểu giá trị của đồng tiền, hiểu những đau khổ của một gã đàn
ông khi nhìn vợ con mình đói rách. Hộ phải ra sức kiếm tiền nuôi vợ con và cách duy
nhất là phải lấy văn chương làm phương tiện, đồng nghĩa với việc Hộ đã đi ngược với
lý tưởng của mình. Nghệ thuật của Hộ bây giờ không nhằm tạo ra những tác phẩm thật
giá trị, thoả mãn những khoái cảm tinh thần đẹp đẽ mà chỉ nhằm đổi lấy tiền nhuận bút
để trang trải cuộc sống. Khi ấy đam mê, khát vọng không còn nơi chốn để thăng hoa
và Hộ bị tha hoá dần trong văn chương.
- Vốn là người thận trọng mà nay Hộ phải in ra những cuốn viết vội vàng mà với Hộ
nó cho thấy sự cẩu thả, bất lương, đê tiện. Khao khát 1 tác phẩm ăn giải Nobel được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên toàn cầu mà nay Hộ phải viết những bài báo khiến người ta
đọc rồi quên ngay, Hộ muốn ''đào sâu, tìm tòi, sáng tạo'' thì bây giờ anh phải viết
''những cái vô vị, nhạt nhẽo,... quá ư dễ dãi'' (phản ứng của Hộ: ''đỏ mặt'', ''cau mày,
nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn)
Tiểu kết: bằng nửa ngôn ngữ nửa trực tiếp, Nam Cao đã giúp người đọc hiểu sâu hơn
những đau đớn giằng xé của Hộ trong bi kịch văn chương: phải từ bỏ vai trò của một
nhà văn chân chính, làm một người thợ viết tầm thường là sự thay đổi mục đích văn
chương. Hay nói cách khác đó là bi kịch của con người không chấp nhận sự tha hoá, là
bi kịch của một trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị cuộc sống, khao khát sống có ý
nghĩa, luôn ấp ủ hoài bão nâng cao giá trị đời sống bằng một sự nghiệp lớn lao, hữu
ích nhưng cuối cùng lại phải chấp nhận cuộc sống vô ích trong kiếp đời thừa. Cũng
qua những day dứt đau khổ của Hộ, Nam Cao khẳng định niềm tin yêu sâu sắc vào bản
chất đẹp đẽ của người tri thức trung thực với những nỗi buồn vui, yêu ghét bởi chónh
những quằn quại đau đớn của Hộ cho thấy trước sau Hộ vẫn là người có lương tri, vẫn
không nguôi trăn trở.
=> Người trí thức trẻ cùng một lúc mắc phải hai bi kịch lớn, một nhà văn chân chính
làm sao chịu nổi cú sốc này, Nên việc anh tìm đến rượu để giải sầu là một chuyện hết
sức tự nhiên và hợp lẽ.
*Note:
-Hộ là nhân vật bi kịch bởi mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng thực hiện khát
vọng, giữa phẩm chất tốt đẹp và sự tha hoá tầm thường.
-> Đó là tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng, thầm lặng của một nhà văn nghèo,
khao khát sống một cách có ý nghĩa, ôm ấp một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương
hữu ích nhưng đã bị ''áo cơm ghì sát đất'' mà phải sống một cuộc sống vô nghĩa, một
kiếp ''đời thừa''. Cũng vì những đau khổ, bế tắc trong bi kịch văn chương, con người
nhân hậu ấy còn rơi vào bi kịch thứ hai khi có thái độ phũ phàng, thô bạo với vợ con,
vi phạm vào lẽ sống tình thương của mình.
- Trong ''Đời thừa'', thông qua dòng suy nghĩ của nhân vật Hộ, Nam Cao cũng trực tiếp
đưa ra những ý kiến tiến bộ, sâu sắc, mới mẻ về quan điểm nghệ thuật khi đề cao giá
trị nhân đạo của văn chương, đưa ra chuẩn mực về tác phẩm giá trị, chuẩn mực về
phẩm chất của nhà văn.

2. Đặc sắc nghệ thuật:


- Lối viết tự nhiên, dung dị không có dáng vẻ tân kì, nhưng đó là sự dung dị của cây
bút già dặn.
- Cốt truyện đơn giản, khung cảnh hẹp, nhân vật ít hành động. Tác giả khai thác những
chi tiết bình dị của cuộc sống để khái quát thành những vấn đề có tính nhân sinh sâu
sắc.
- Truyện có sắc thái chân thật, đậm triết lí trong cuộc sống.
- Qua nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện quan điểm tiến bộ về nghệ thuật. Quan điểm ấy
có tầm vóc và chiều sâu của một nhà văn tự giác về những nguyên tắc sáng tác hiện
thực và nhân đạo.

You might also like