You are on page 1of 21

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

1 BLDS Bộ luật Dân sự

Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018


2 Quyết định số 272
của Tòa án nhân dân Quận 9 TP. Hồ Chí Minh

Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018


3 Quyết định số 04
của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa

Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019


4 Quyết định số 94
của Toà án nhân dân TP. Hà Nội

Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020


5 Quyết định số 02 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh A (huyện Cần
Đước, tỉnh Long An)

Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án


6 Bản án số 02
nhân dân tỉnh Đắk Nông

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ. .1
1.1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?.........1
1.2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao.....................................................................................1
VẤN ĐỀ 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT..........................................3
Tóm tắt Quyết định số 272...................................................................................3
Tóm tắt Quyết định số 04.....................................................................................3
Tóm tắt quyết định số 94......................................................................................3
Tóm tắt Quyết định số 02.....................................................................................4
2.1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên
bố một người là đã chết..........................................................................................4
2.2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn
bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?..................................................6
2.3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố
chết từ thời điểm nào? Vì sao?...............................................................................6
2.4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu
cơ sở pháp lý và ví dụ minh họa.............................................................................8
2.5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả
lời?..........................................................................................................................8
2.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định
trên (quyết định năm 2018 và 2019)......................................................................9
2.7. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa
án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có
phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................................10
2.8. Cho biết kinh nghiệm nước ngoài (ít nhất một hệ thống) điều chỉnh hệ quả về
tài sản và nhân thân khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân
đã chết..................................................................................................................10
2.9. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có
còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...................11
2.10. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......11
VẤN ĐỀ 3: TỔ HỢP TÁC..........................................................................12
Tóm tắt Bản án số 02..........................................................................................12
3.1. Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 về tổ hợp tác
và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này..................................................12
3.2. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?.............14
3.3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời............................................................................................14
3.4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết
phục không ? Vì sao.............................................................................................15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

1.1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?
Căn cứ vào Điều 1 BLDS năm 2015, những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật dân sự bao gồm: “... quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp
nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập
về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.
Quan hệ nhân thân: Căn cứ vào khoản 1 Điều 17 BLDS năm 2015, có thể chia
thành 2 loại quan hệ nhân thân, đó là quan hệ nhân thân gắn với tài sản và quan hệ
nhân thân không gắn với tài sản.
Quan hệ tài sản: Là quan hệ xã hội phát sinh giữa người với người thông qua
tài sản. Quan hệ tài sản mà BLDS điều chỉnh là quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể thông
qua việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một tài sản nhất định theo nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, tuân thủ theo luật giá trị.
Tuy nhiên, không phải quan hệ nào cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự. Thực tế “BLDS không điều chỉnh mọi quan hệ tài sản cũng như không
điều chỉnh mọi quan hệ nhân thân” như không điều chỉnh quan hệ nhân thân như
tình bạn, tình yêu, tình thương.1

1.2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao.
Quan hệ dân sự của A và B nêu trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS năm
2005 và BLDS năm 2015:
Căn cứ pháp lý: Điều 1 BLDS năm 2005 và Điều 1 BLDS năm 2015
Điều 1 BLDS năm 2005 có quy định như sau:
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng
xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ
dân sự). Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự (tái bản
lần 1, có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 6.
2

cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự
bình đẳng

và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Điều 1 BLDS năm 2015 quy định:
Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử
của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá
nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình
đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi
chung là quan hệ dân sự).
Cả hai BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015, đều quy định phạm vi điều chỉnh bao
gồm nhóm các quan hệ xã hội liên quan đến tài sản và nhân thân của cá nhân, pháp
nhân và các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của họ.
Bên cạnh đó, căn cứ theo Điều 127 BLDS năm 2015 (Điều 132 BLDS năm 2005)
quy định: “Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của
mình hoặc của người thân thích của mình”. Dù giao dịch dân sự giữa A và B có
thành hay không thì việc A cưỡng ép B xác lập một giao dịch đã nằm trong phạm vi
điều chỉnh của
BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015.
3

VẤN ĐỀ 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT

Tóm tắt Quyết định số 272


Người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự: Bà Bùi Thị T
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Minh T
Nội dung: Bà Bùi Thị T yêu cầu Toà án tuyên bố ông Trần Văn C đã chết. Do cuối
năm 1985, ông C bỏ nhà đi biệt tích, gia đình bà T (vợ ông C) đã tổ chức tìm kiếm
bằng các biện pháp như đăng tin lên báo, đài phát thanh,…nhưng vẫn không có tin
tức về ông C.
Quyết định của Tòa án: Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà T tuyên bố ông C đã chết
theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015. Ngày chết của ông C được tính là
ngày đầu tiên của năm tiếp theo của năm có tin tức cuối cùng tức là ngày
01/01/1986.

Tóm tắt Quyết định số 04


Người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự: Anh Quản Bá Đ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Quản Thị K
Nội dung: Anh Quản Bá Đ yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Quản Thị K (chị gái anh Đ)
là đã chết.Vì chị K đã bỏ nhà ra đi khỏi địa phương từ năm 1992, gia đình đã tìm
kiếm, thông báo nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Sau khi thụ lý vụ việc, Toà
án nhân dân huyện Đông Sơn đã ra quyết định thông báo tìm kiếm chị K trên Cổng
thông tin điện tử. Thời hạn thông báo 04 tháng kể từ ngày đăng thông báo lần đầu
tiên (06/7/2018) đến khi hết thời hạn thông báo theo quy định nhưng chị K vẫn
không về và không có tin tức gì.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận đơn yêu cầu của anh Quản Bá Đ.

Tóm tắt quyết định số 94


Người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự: Bà Phạm Thị K
4

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Ngọc C, Bà Phạm Thị P, Bà
Phạm Thị M, Ông Phạm Ngọc L, Ông Phạm Ngọc L1, Ông Phạm Đức S, Bà Phạm
Thị Mai H.
Nội dung: Bà Phạm Thị K yêu cầu tòa tuyên bố cụ Phạm Văn C đã chết. Cụ C đã
bỏ nhà đi từ tháng 1 năm 1997, từ đó đến nay không quay về nhà, gia đình đã tìm
kiếm rất nhiều lần và đăng tin lên báo, đài truyền hình Trung ương nhưng vẫn
không có kết quả. Sau đó, Toà án đã ra quyết định Thông báo tìm kiếm thông tin về
người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân tối cao
Báo nhân dân. nhưng đến vẫn không có thông tin xác thực việc cụ C còn sống hay
đã chết. Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của Phạm Thị K, về việc yêu
cầu tuyên bố ông Phạm Văn C đã chết. Đồng thời, tuyên bố cụ Phạm Văn C chết từ
ngày 01/5/1997.

Tóm tắt Quyết định số 02


Người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự: Ông Đ H
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà N T
Nội dung: Ông Đ H yêu cầu Toà huỷ quyết định tuyên bố ông đã chết. Cụ thể, từ
năm 2008 do vợ chồng có mâu thuẫn nên ông đến tỉnh Lâm Đồng sinh sống không
liên lạc về gia đình. Tại Quyết định số 01/2011/QĐ-MPH ngày 02/3/2011 Toà án
nhân dân huyện C đã tuyên bố ông mất tích. Sau đó, tại Quyết định số
01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố ông đã
chết và tại bản án số 28/2011/HNST ngày 14/6/2011 Toà án đã cho ly hôn giữa bà
N T và ông Đ H. Tuy nhiên, ngày 20/11/2019 ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã
L, huyện C và có đơn yêu cầu huỷ quyết định tuyên bố ông đã chết. Bà N T (vợ ông
Đ H) cũng thừa nhận ông Đ H vẫn còn sống và đồng ý với yêu cầu huỷ quyết định
tuyên bố ông đã chết.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận đơn yêu cầu cầu của Ông Đ H về việc yêu cầu
hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.

2.1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên
bố một người là đã chết.
Giống nhau:
- Đều là theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
5

- Đều phải được tòa án có thể tuyên bố là người đó mất tích hoặc chết.
Khác nhau:

Tiêu
Tuyên bố mất tích Tuyên bố chết
chí

Cơ sở
pháp Điều 68, 69, 70 BLDS năm 2015. Điều 71, 72, 73 BLDS năm 2015.

Căn cứ: Điều 68 BLDS năm 2015 Căn cứ: Điều 71 BLDS năm 2015
- Một người biệt tích 2 năm liền Đáp ứng đủ 1 trong 4 trường hợp
trở lên. Đã áp dụng đầy đủ các sau:
biện pháp tìm kiếm, thông báo - Sau 03 năm, kể từ ngày
theo quy định.Vẫn không có tin quyết định tuyên bố mất tích của
tức về người này còn sống hay đã Tòa án có hiệu lực pháp luật mà
chết. vẫn không có tin tức xác thực là
* Lưu ý: Thời hạn 2 năm được còn sống.
hiểu là: - Biệt tích trong chiến tranh
- Ngày biết được tin tức cuối sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh
Điều kết thúc mà vẫn không có tin tức
cùng về người đó.
kiện xác thực là còn sống.
- Không xác định được thì
tuyên - Bị tai nạn hoặc thảm họa,
thời hạn này được tính từ ngày
bố thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày
đầu tiên của tháng tiếp theo của
tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó
tháng của tin tức cuối cùng.
chấm dứt vẫn không có tin tức xác
- Không xác định được
ngày, tháng thì thời hạn được tính thực là còn sống, trừ trường hợp
từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo pháp luật có quy định khác.
của năm không có tin tức cuối
- Biệt tích 05 liền trở lên và
cùng.
không có tin tức xác thực là còn
sống; thời
hạn này được tính theo quy định
tuyên bố mất tích.
6

- Tạm đình chỉ tư cách chủ - Chấm dứt tư cách chủ thể
thể của người bị tuyên bố mất tích của người chết đối với mọi quan hệ
(không làm chấm dứt tư cách chủ pháp luật mà người đó tham gia với
thể của họ). tư cách chủ thể.
- Tài sản người bị tuyên bố - Tài sản của người tuyên bố
Hệ quả mất tích sẽ được chuyển sang chết được giải quyết theo pháp luật
pháp lý về thừa kế (Điều 72 BLDS năm
quản lý tài sản của người bị tuyên 2015).
bố mất tích (Điều 65, 66, 67, 69
BLDS năm 2015).
- Vợ/chồng của người bị
tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn
thì Tòa án

cho phép họ ly hôn (khoản 2 Điều


8 BLDS năm 2015).

- Theo Điều 70 BLDS năm 2015


- Theo Điều 73 BLDS năm 2015 thì
thì người mất tích quay trở lại thì
người bị tuyên bố chết nhưng thật
phải có quyết định hủy tuyên bố
ra không chết thì phải hủy quyết
của toà.
Hủy bỏ + Về nhân thân: chưa quyết định định đó đi.
quyết ly hôn thì họ vẫn là vợ chồng. + Về nhân thân: nếu vợ/chồng của
định Nếu có quyết định rồi thì không người đó không ly hôn thì giấy kết
hôn vẫn còn nguyên giá trị. Nhưng
và hậu còn là vợ chồng. nếu họ đã ly hôn thì quan hệ giữa
quả người trở lại và vợ/chồng của họ
+ Về tài sản: Người đó được nhận
như thế nào thì pháp luật chưa quy
lại tài sản. Nhưng nhận lại khi
định. + Về tài sản: yêu cầu người
thanh toán chi phí quản lý.
nhận tài sản thừa kế trả lại giá trị tài
sản.

2.2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn
bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
Theo khoản 1 Điều 71 BLDS 2015:
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định
tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
7

a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có
hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết
thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn
hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật
này.

2.3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố
chết từ thời điểm nào? Vì sao?
Trong các vụ việc trên, căn cứ theo khoản 1 Điều 68 BLDS năm quy định:
1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn
sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan,
Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người
đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này
được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối
cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời
hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức
cuối cùng.
và điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015 quy định: “...Biệt tích 05 năm liền
trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy
định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.”
Vì vậy, các cá nhân trong các quyết định dưới đây đều bị tuyên bố chết với lý
do biệt tích không có thông tin xác thực, cụ thể:
Trong quyết định số 272, ông Trần Văn C được bà Bùi Thị T (vợ ông C) yêu cầu
8

Tòa án tuyên bố chết với lý do ông C đã bỏ nhà đi biệt tích từ cuối năm 1985, không
để lại tin tức. Gia đình bà T đã tổ chức tìm kiếm kết hợp với thông báo tìm kiếm của
Tòa án vẫn không có tin tức gì của ông C. Ngoài ra, Công an Quận 9 không xác
định được ngày tháng có tin tức cuối cùng của ông C nên quyết định ngày chết của
ông C là ngày đầu của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng, cụ thể là ngày
01/01/1986.
Trong quyết định số 04, chị Quản Thị K được em trai là anh Quản Bá Đ tuyên
bố chết với lý do chị K bỏ nhà đi khỏi địa phương năm 1992 đến nay không có tin
tức gì. Gia đình anh ĐĐ đã tổ chức tìm kiếm kết hợp với thông báo tìm kiếm của
Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn vẫn không có tin tức gì của chị K.
Trong quyết định số 94, cụ Phạm Văn đi khỏi nhà từ tháng 1/1997, đến năm
2008 gia đình cụ C có đăng tìm cụ trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng
không có tin tức gì. Theo văn bản trả lời của cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố
Hà Nội vào ngày 13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ C chỉ được thực hiện
đến hết tháng 4/1997. Do đó, có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng
4/1997 và quyết định ngày chết của cụ C là ngày đầu của tháng tiếp theo tháng có
tin tức cuối cùng, cụ thể là ngày 01/05/1997.
2.4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu
cơ sở pháp lý và ví dụ minh họa.
Việc xác định ngày chết của một cá nhân có vai trò quan trọng vì nó làm phát
sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý hay các quan hệ pháp luật dân sự đối với
người đó. Từ đấy, các chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện quyền và nghĩa vụ phát
sinh.
Có thể nhận thấy tại khoản 1, Điều 611 BLDS 2015, việc xác định ngày cá nhân
chết giúp nhận biết được thời điểm mở thừa kế, cụ thể: “1. Thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết
thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật
này.” Thông qua đó, trường hợp Tòa án giải quyết tranh chấp về thừa kế thì Tòa án
sẽ căn cứ những vấn đề liên quan như người thừa kế, di sản, thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế,... Vì vậy, việc xác định ngày chết của một cá
nhân giúp Tòa án có thể giải quyết vụ án một cách thuận lợi hơn.
Ví dụ minh họa:
9

1. A bị Tòa án tuyên bố chết, di sản thừa kế để lại là một ngôi nhà trị giá 1 tỷ
đồng Việt Nam. B là người thừa kế duy nhất, sau khi đã làm các thủ tục pháp lý
nhận di sản thừa kế, đã bán ngôi nhà được thừa kế từ A và đầu tư vào mua bán
chứng chứng khoán này vẫn được xem là tài sản hiện còn.2
2. Ông A bị Tòa án tuyên bố chết. B, C, D là các con có quyền thừa kế tài sản
của ông A. Nhưng khi Tòa án tuyên bố ông A chết, anh D biết ông A vẫn còn sống
nhưng cố tình giấu giếm để hưởng di sản thừa kế. Do đó, khi ông A trở về, anh D
phải trả lại toàn bộ tài sản, kể cả hoa lợi và lợi tức, nếu đã sử dụng thì phải hoàn trả,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.3

2.5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả
lời?
Trong Quyết định số 272, Toà án tuyên bố ngày chết của ông Trần Văn C là ngày
01/01/1986. Điều này được nêu trong phần quyết định của Tòa án như sau: “Tuyên
bố Trần Văn C; nơi cư trú cuối cùng: phường Phước Bình, Quận 9, Thành phố Hồ
Chí Minh là đã chết. Ngày chết của ông Trần Văn C là ngày 01/01/1986”.

Trong Quyết định số 04, Toà án tuyên bố ngày chết của Chị Quản Thị K là ngày
19/11/2018. Điều này được nêu trong phần quyết định của Tòa án như sau: “Chấp
nhận đơn yêu cầu của anh Quản Bá Đ; Tuyên bố chi Quản Thị K - sinh 1969 đã
chết ngày 19/11/2018”.
Trong Quyết định số 94, Toà án tuyên bố ngày chết của cụ Phạm Văn C là ngày
01/5/1997. Điều này được nêu trong phần quyết định của Tòa án: “1. Chấp nhận
đơn yêu cầu của bà Phạm Thị K, về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã
chết đối với cụ Phạm Văn C. 2. Tuyên bố cụ Phạm Văn C, sinh năm 1927; Hộ khẩu
thường trú: phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, đã chết kể
từ ngày 01/5/1997.”

2 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd, tr. 127.
3 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd, tr. 129.
10

2.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định
trên (quyết định năm 2018 và 2019).
Hiện nay, các tòa chưa có sự thống nhất trong việc xác định thời điểm cá nhân
chết từ đó dẫn đến cùng một sự kiện pháp lý như nhau nhưng cách giải quyết khác
nhau, gây khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các quan hệ pháp luật dân sự.
Do quy định tại Điều 68, 71 BLDS năm 2015 còn chưa được rõ ràng nên trong thực
tế hiện nay việc áp dụng quy định pháp luật để giải quyết các yêu cầu về tuyên bố
một người là đã chết còn có nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về việc xác
định ngày chết của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, về vấn đề này hiện còn có
03 quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất, ngày chết của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết là ngày
mà quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là đã chết có hiệu lực pháp luật. Cụ thể
trong Quyết định số 04.
Quan điểm thứ hai, ngày chết của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết là ngày
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo không có được tin tức cuối cùng. Cụ thể Quyết
định số 272.
Quan điểm thứ ba, ngày chết của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết là ngày
đầu tiên của tháng tiếp theo khi không xác định được ngày không có tin tức cuối
cùng.
Cụ thể trong quyết định số 94.
2.7. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa
án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có
phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tuyên bố của tòa là phù hợp với quy định. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 73
BLDS năm 2015: “Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác
thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền,
lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã
chết.” Chính vì vậy, Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong
quyết định năm 2020 phù hợp với quy định vì ông Đ H đã cung cấp đơn xin xác
nhận còn sống và bà N T cũng thừa nhận là ông còn sống, qua đối chiếu kết quả tra
cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân đã có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu
của ông Đ H về việc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
11

2.8. Cho biết kinh nghiệm nước ngoài (ít nhất một hệ thống) điều chỉnh hệ quả
về tài sản và nhân thân khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá
nhân đã chết.
Đối với hệ thống luật Trung Quốc thì hệ quả về tài sản và nhân thân khi có
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân đã chết như sau:
Về quan hệ nhân thân, Điều 51 BLDS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa/ Quyển 1
quy định:
Quan hệ hôn nhân với người bị tuyên bố là đã chết chấm dứt kể từ ngày
người đó được tuyên bố là đã chết. Trong trường hợp tuyên bố chết bị
hủy bỏ thì quan hệ hôn nhân nói trên đương nhiên được nối lại kể từ
ngày tuyên bố chết được hủy bỏ, trừ trường hợp vợ, chồng đã kết hôn với
người khác hoặc có văn bản trình bày với cơ quan đăng ký kết hôn về
việc không muốn nối lại kết hôn.
Về quan hệ tài sản, Điều 53 BLDS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa/Quyển 1 quy
định:
Trường hợp tuyên bố một người đã chết bị hủy bỏ thì người đó có quyền
yêu cầu những người đã lấy được tài sản của mình theo quy định tại
Quyển VI của Bộ luật này trả lại tài sản hoặc nếu không trả được tài sản
thì phải bồi thường thiệt hại một cách thích đáng. Trong trường hợp
người có lợi ích che giấu thông tin sai sự thật, làm cho thể nhân bị tuyên
bố là đã chết để lấy tài sản của người đó thì người có lợi ích ngoài việc
trả lại tài sản chiếm đoạt sai trái còn phải bồi thường thiệt hại do hành
vi đó gây ra.

2.9. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có
còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H
không còn được coi là vợ chồng nữa. Căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 73 BLDS
năm 2015 quy định: “Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa
án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho
ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật”.
12

2.10. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 73 BLDS năm 2015 quy định:
Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người
đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Trường
hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn
sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn
trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường.
Qua đó, ông H sẽ nhận lại được tài sản của mình.

VẤN ĐỀ 3: TỔ HỢP TÁC

Tóm tắt Bản án số 02


Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th.
Bị đơn: Tổ trưởng Tổ hợp tác xã X - ông Nguyễn Thăng L
Nội dung: Tổ hợp tác xã X ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với ông Nguyễn
Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m đất. Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại
2

Ủy ban nhân dân xã, ông Th đã tiến hành phá bỏ diện tích cây cối nhất định nhằm
mục đích giải phóng mặt bằng trước khi cho thuê quyền sử dụng đất. Sau đó, ông
Th nhận được thông báo của Tổ hợp tác về việc chấm dứt hợp đồng nhưng ông Th
13

không đồng ý nên đã yêu cầu Tổ hợp tác bồi thường thiệt hại về cây cối đã phá bỏ.
Tòa án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th. Ngày
29/07/2020, ông Th kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại.
Quyết định của Tòa án: Tòa án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Th, hủy bản
án dân sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông giải
quyết.

3.1. Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 về tổ hợp tác
và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Đặc
điểm BLDS năm 2015 BLDS năm 2005

BLDS năm 2015 không quy định BLDS năm 2005 quy định từ 3 cá
tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ nhân trở lên và hình thành trên cơ
pháp luật dân sự, chỉ cá nhân và
pháp nhân mới là chủ thể, vì sở hợp đồng hợp tác có chứng thực
không là chủ thể nên cũng không của
có tư cách pháp nhân. Do đó việc
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
xác lập giao dịch dân sự phải do
trấn.
Về chủ người đại diện theo ủy quyền thực
thể hiện. Trường hợp thành viên của
tổ hợp tác không có tư cách pháp
nhân tham gia giao dịch dân sự
không được các thành viên khác
ủy quyền làm người đại diện thì
thành viên

đó là chủ thể tham gia giao dịch,


xác lập
Ở BLDS năm 2005 thì tổ hợp tác
được xem là có tư cách pháp nhân
nếu có đủ điều kiện và đăng ký
pháp lý theo quy định của pháp
luật
BLDS năm 2015 không quy định
số thành viên tối thiểu của tổ hợp
tác
14

Người đại diện là người được các Người đại diện là tổ trưởng do các
thành viên khác ủy quyền, người tổ viên cử ra, tổ trưởng có thể ủy
đại diện chỉ có quyền thực hiện quyền cho tổ viên thực hiện một số
giao dịch khi được các thành viên công việc nhất định cần thiết cho tổ
Về đại khác ủy quyền. Việc ủy quyền
diện phải lập thành văn bản, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác khoản 1
Điều 101

Những điểm mới về tổ hợp tác trong BLDS năm 2015 đã thể hiện được sự tiến
bộ và khắc phục được những hạn chế, tiêu cực ở BLDS năm 2005.
Thứ nhất, loại bỏ tư cách chủ thể của tổ hợp tác, điều này đã giảm được nhiều
bất cập trong thực tiễn xét xử vì tổ hợp tác là một tập hợp các cá nhân có quan hệ
với nhau về tài sản, số lượng cá thể không phải dừng lại mà là bất biến, có thể xảy
ra thêm bớt thành viên, ý chí có thể không đồng nhất.
Thứ hai, khi tham gia giao dịch dân sự nếu coi tổ hợp tác là chủ thể có tư cách
pháp nhân thì sẽ gây khó khăn cho việc chủ thể tham gia giao dịch với tư cách cá
nhân, như vậy vấn đề tài sản chung hay riêng cũng dễ xảy ra tranh chấp
Thứ ba, trên thực tế xét xử chưa có vụ kiện nào có nguyên đơn hoặc bị đơn là tổ
hợp tác. Hơn nữa, Khoản 1 Điều 56 BLTTDS chỉ quy định, đương sự trong vụ án
dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan (tổ hợp tác không được xác định là đương sự trong vụ án dân
sự). Vì vậy việc loại bỏ tư cách là chủ thể của tổ hợp tác là hợp lý.
3.2. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
Đoạn cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử dụng đất) được xác lập giữa
ông Th và bà H với Tổ hợp tác:
Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê
500m2 đất tọa lạc tại thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích
xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một
phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m2 theo Giấy
15

chứng nhận quyền sử dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp
ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị trí
đất cho thuê có tứ cận: Phía Đông giáp đường bê tông; phía Tây giáp
đất ông Nguyễn Thế Th; phía Nam giáp đường đất; phía Bắc giáp đất
ông Nguyễn Hữu H.
Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất
của ông Th để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số:
61/SCT/HĐ-GD.

3.3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)?
Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo nhận định của Tòa án: “…bị đơn phải bổ sung thêm ông Bùi Vĩnh H, chứ
không phải là Tổ hợp tác, bởi vì ông H là người trực tiếp ký kết hợp đồng là bị đơn
trong vụ án, còn các thành viên trong Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên
ông H không phải là người đại diện cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.” hướng xác
định là hoàn toàn hợp lý và thỏa đáng.
Bởi vì căn cứ theo Điều 101 BLDS năm 2015 chúng ta sẽ thấy rõ:
Trường hợp hộ gia đình,tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham
gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập
thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi
người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành
viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của
quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Như vậy, theo Tòa án Tổ hợp tác trên thực tế không có ai bên trong giao dịch
với ông Th và bà H, chỉ có ông H trực tiếp ký hợp đồng vì Tổ hợp tác không có tư
cách pháp nhân (Điều 101 BLDS năm 2015) nên ông H không phải người đại diện
Tổ hợp tác để ký hợp đồng.
16

3.4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết
phục không ? Vì sao.
Theo Tòa án thì bị đơn là ông Bùi Vĩnh H. Hướng xác định hoàn toàn đúng đắn
và hợp lý. Vì ông H (tổ trưởng tổ hợp tác) là người trực tiếp ký kết hợp đồng thuê
sử dụng đất với ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Theo quy định tại Điều 101
BLDS năm 2015 thì chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các
thành viên của Tổ hợp tác hoặc các thành viên ủy quyền cho người đại diện tham
gia xác lập, thực hiện giao dịch và việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh rõ việc ông H ký kết hợp đồng thuê đất có
được các thành viên của tổ hợp tác ủy quyền hay không và trong hồ sơ cũng không
có văn bản chứng thực ủy quyền. Do đó, bị đơn là ông H còn các thành viên khác
của tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên ông H không phải là người đại
diện của tổ hợp tác.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản quy phạm pháp luật


1. Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.

B. Tài liệu tham khảo B1. Sách, giáo trình


1. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình những quy định
chung về luật dân sự (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức - Hội luật
gia Việt Nam.
2. Lê Minh Hùng (2020), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa
kế, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
3. Đỗ Văn Đại (2020), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ tám), NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt
Nam.
B2. Các tài liệu khác
1. Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9
TP. Hồ Chí Minh.
2. Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.
3. Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP.
Hà Nội.
4. Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện
C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).
5. Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

You might also like