You are on page 1of 5

HAI

I. MỞ
ĐỨA BÀI

TRẺ
Giữa dòng chảy xô bồ của cuộc sống, đôi khi chỉ là 1 điều nhỏ nhoi, giản
dị thôi nhưng lại ẩn chứa biết bao tâm tình, chất đọng những điều thiêng liêng,
những tình cảm thiết tha, chân thành nhất. Và hình ảnh đoàn tàu vội vụt qua con
phố huyện nghèo nàn giữa đêm khuya trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của
Thạch Lam cũng có ý nghĩa như thế. Bằng tài năng cảm nhận và bút pháp tả thực tinh tế, TLam đã đưa người đọc đến
với những góc khuất bình dị trong xã hội, nơi mà đoàn tàu lại trở thành tia sáng, niềm hy vọng cuối cùng của những
mảnh đời bất hhanjh nơi đây. Đặc biệt là khi được cảm nhận qua tâm trạng của Liên và An – những nhân vật bé nhỏ
làm điểm sáng cho tác phẩm. / Và bức tranh về kiếp người tàn trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng có
ý nghĩa như thế. Bằng những xúc cảm nhạy bén cùng ngòi bút lãng mạn, Tlam đã đưa người đọc đến với những góc
khuất u tối của 1 con phố huyện nghèo nàn, bóng tối bao trùm lên mọi cảnh vật xung quanh và cả những mảnh đời bất
hạnh đang khao khát 1 cuộc sống tốt đẹp nơi đây.
Giữa dòng chảy xô bồ của nền văn học hiện thực phê phán trước CMT8, khuynh hướng lãng mạn bùng lên như
1 đóa hoa nở rộ trên nền văn xuôi VN hiện đại. Mà nổi bật hơn cả là Thạch Lam – cây bút trầm lắng lại rất đỗi tinh tế.
Bằng xúc cảm nhạy bén cùng ngòi bút lãng mạn , TLam đã đưa người đọc đênns với những góc khuất u tối của kiếp
người tàn, bóng tối như bao trùm lên mọi cảnh vật xung quanh và cả những mảnh đời bất hạnh đang khao khát 1 cuộc
sống tốt đẹp nơi đây. Tiêu biểu trong phong cách sáng tác ấy là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với nhân vật chính là cô bé
Liên – 1 cô bé khoảng chừng 14, 15 tuổi nhưng cái nhìn lại tinh tế, nhạy cảm đến lạ. Dường như những cảnh vật được
cảm nhận qua đôi mắt Liên đều trở nên có hồn, sâu lắng hơn cả.

II. THÂN BÀI


1. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Thạch Lam ( 1910 – 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân) sinh tại HN
nhưng tuổi thơ ông lại gắn liền với quê ngoại ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đây cũng là nơi để lại nhiều xúc
cảm nhất trong lòng Thạch Lam để ông đưa vào trong các tác phẩm sau này của mình. Ông là nguwofi đôn hậu và rất
đỗi tinh tế. Thạch Lam tuy là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, thuộc nhóm Tự lực văn đoàn nhưng truyện của ông
lại mang khuynh hướng như 1 bài thơ trữ tình , giọng điệu chân thành, nhạy cảm trước những cảm xúc, biến thái của
cảnh vật và cuộc sống cơ cực của những người dân nghèo khổ trong xã hội đương thời.
Hai Đứa Trẻ là 1 trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của Tlam, in ở tập Nắng trong vườn (1938). Tác phẩm
không có cốt truyện, xoay quanh cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt, đầy quẩn quanh của những người dân nghèo trong góc
phố huyện từ lúc chiều tối đến đêm. Nhân vật chính của truyện là cô bé Liên. Liên cũng như bao người dân sống ở đây,
mẹ con chị Tí bán hàng nước , gánh phở của Bác Siêu, sập hát của bác xẩm... ngày ngày họ vừa bán hàng vừa trông
chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về. Chuyến tàu mang 1 chút ánh sáng của Hà Nội, của những giấc mơ, khát vọng cs tốt
đẹp vội vụt qua trong màn đêm sâu thẳm. Phố huyện và chị em Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh.
2. CẢNH ĐỢI TÀU
Có thể nói, 1 trong những nét bút đặc sắc nhất của TLam khi sáng tác truyện ngắn này là phác họa thành công
cảnh đợi tàu qua đôi mắt cảm nhận của 2 chị em Liên. Đoạn trích nằm ở gần cuối tác phẩm – là lúc bóng tối như dần
nhấn chìm tất cả mọi thứ và dư âm cuối cùng của ngày tàn sắp đến - đoàn tàu đêm từ HN về.
Càng về khuya, ánh sáng càng yếu ớt, nhường chỗ cho màn đêm bao trùm cả phố huyện: “Tối hết cả, con
đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối dày đặc
như khiến cảnh sống của con người thêm thê lương, gợi cho ta hình dung bóng tối đang đổ ập về phía số phận những
con người bé nhỏ trong xã hội. Điểm trên btranh tù đọng ấy là những nguồn sáng mà TLam mang tới, những nguồn
sáng từ kiếp người tàn vô cùng leo lắt. Đó là ngọn đèn hoa kì ở hàng nước nhà chị Tí, chấm lửa nhỏ từ bếp phở của bác
Siêu, ngọn đèn vặn thưa thớt lọt qua phên nứa trong sập hàng nhỏ của Liên. Ngửi thấy mùi thơm của “món quà xa xỉ”
từ gánh hàng của bác Siêu, Liên lại nhớ tới những kỉ niệm đẹp hồi gđ em còn ở HN “ được hưởng những thức quà ngon
lạ, ..được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ..” Nhưng bây giờ, thầy Lien mất việc, cả gđ đành về quê
buôn bán với tiệm tạp hóa nhỏ tồi tàn, chẳng khá khẩm là bao. Từ cuộc sống thành thị ngập tràn ánh sáng, náo nhiệt
sang cái phố huyện tù túng, ngột ngạt, tất cả như muốn nhấn chìm đi những ước mơ, hoài bão vừa chớm nở của cô bé
mới 14 tuổi. Không chỉ có gđ Liên mà cả phố huyện cũng sống mòn mỏi, xơ xác trong cái nghèo khổ như thế. Nhưng ở
họ vẫn mơ hồ chờ đợi một điều gì đó tốt đẹp hơn, dẫu cho sự chờ đợi thật xa xôi và vô vọng: “chừng ấy con người
trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự chờ đợi ấy được thể
hiện qua lời bâng quơ của chị Tí về những người khách chưa ra quán chị, hay cái “nghển cổ” trông ngóng của bác Siêu
khi hướng về phía ga đợi đoàn tàu và đặc biệt là tâm trạng khắc khoải của chị em Liên hàng đêm chờ đoàn tàu đi từ
Hà Nội qua ga xép nhỏ phố huyện. Đoàn tàu mang theo bao nhiêu ước mơ cùng những mộng tưởng tươi đẹp, làm
sáng rực cả góc phố, khác hẳn ánh đèn leo lắt của những kiếp người tàn nơi đây, một “Hà Nội sáng rực và lấp lánh..HN
nhiều đèn quá!” . Có lẽ đó cũng chính là lý do chị em Liên dù buồn ngủ ríu cả mắt cũng cố thức đợi đoàn tàu đến chứ
không chỉ đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để bán thêm 1 ít hàng, bởi vs Liên “Họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là
cùng”.
Dưới ngòi bút của Thạch Lam, hình ảnh đoàn tàu hiện lên thật sinh động và rực rỡ, từ những âm thanh xa xôi
lại gần đến từng ngóc ngách. Mở đầu là ngọn lửa màu xanh biếc của chiếc đèn ghi báo hiệu và đằng xa, Liên đã nghe
thấy tiếng còi xe lửa dồn dập rồi to dần, to dần, kéo dài theo ngọn gió làm trống cầm canh "đánh tung lên một tiếng
ngắn khô khan", "tiếng xe rít mạnh vào ghi". Cả phố huyện như bừng tỉnh, náo nức, sôi nổi một niềm vui đón đợi
“những hành khách ồn ào khe khẽ” và "tiếng coi rít lên, tàu rầm rộ đi tới..." Đoàn tàu vụt qua với những "đèn sáng
trưng" , "những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người", "đồng và kền lấp lánh..." , "những đốm than đỏ bay
tung". . 2 chị em Liên hồi hộp, chờ đợi đến từng âm thanh rất nhỏ đọng lại qua từng thời khắc. Chuyến tàu chỉ dừng lại
trong giây lát rồi vụt qua, đi vào đêm tối nhanh như một ngôi sao băng bất chợt vội bya rồi vụt tắt, mang theo những
ước mơ, hoài bão của con người. Tàu đã đi xa, hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo
trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi
ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem
một thếgiới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa
của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em
Liên vẫn tha thiết nhớ về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”.
Thế là chuyến tàu cuối cùng đã đi qua, thoáng chốc lát ngắn ngủi rồi lại trở về cuộc sống phố huyện yên ắng,
đầy bóng tối như ban đầu. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi
trong mắt chị”. Ấy cũng là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi
thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng
đất nhỏ”.
Từ bức tranh tăm tối nơi phố huyện, trang văn của TLam đã điểm xuyết trên nền yên ắng ấy 1 tia sáng sống
động – chuyến tàu đêm HN về. Chuyến tàu ấy là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn toàn đối
lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân nơi đây. Nhanh và vội vụt chớp qua như ngôi sao
băng trên nền trời đêm nhưng rực rỡ, chói lọi, đủ sức để đánh thức những mảnh đời u tối, những khát vọng tươi sáng
trong lòng họ. Chuyến tàu ấy không chỉ chất chứa những mộng tưởng của 2 chị em Liên về HN sung túc, náo nhiệt, về
những kỉ niệm đẹp đẽ của gđ khi còn ở thành phố mà còn mang thoe bao hoài bão, ước mơ về thế giới mới của cả
những con người nơi đây, những khao khát thoát khỏi sự tù túng của cái nghèo. Và có lẽ vì thế mà mỗi đêm, đợi tàu
như 1 thói quen trong cuộc sống của họ, 1 thứ gì đó kì diệu hơn để kết thúc 1 ngày dài đầy u tối.

2. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LIÊN


Nổi bật trên bức tranh của kiếp người tàn ấy là những suy nghĩ, tâm sự thầm kín mà nhà văn đã kí gửi trong
tác phẩm thông qua nhân vật Liên – 1 cô bé khoảng chừng 14, 15 tuổi với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và giàu lòng yêu
thương. Liên được tác giả gọi dưới cách xưng “chị”, “cô” hoặc bằng tên riêng. Lúc trước gia đình Liên cũng từng được
sống ở HN, được “hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ..” Nhưng
sau đó, thầy Lien mất việc, cả gđ đành về quê buôn bán với tiệm tạp hóa nhỏ tồi tàn, chẳng khá khẩm là bao. Hằng
ngày, mẹ Liên bận làm hàng xáo, 2 chị em Liên phải nghe lời mẹ trông cái tiệm nhỏ ấy cho tới tối muộn mới được dọn.
Từ cuộc sống thành thị ngập tràn ánh sáng, náo nhiệt sang cái phố huyện tù túng, ngột ngạt, tất cả như muốn nhấn
chìm đi những ước mơ, hoài bão vừa chớm nở của cô bé mới 14 tuổi. Nhưng biết làn sao được, cái nghèo luôn bủa vây
lấy những con người nơi đây, nhấn chìm và đè nén họ.
Nét tính cách đầu tiên mà TLam khắc họa cho nhân vật này là 1 tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. Qua ánh mắt của
Liên, cảnh vật và cuộc sống nơi phố huyện nghèo cứ dần dần sống dậy, gợi lên trong người đọc một nỗi buồn sâu lắng.
Liên để ý tới từng chi tiết xung quanh và khung cảnh nơi phố huyện, chân thật sinh động đến nỗi ngửi được “mùi riêng
của đất, của quê hương này”. Từ cái màu đỏ rực như lửa cháy của phương Tây, cái ánh hồng như hòn than sắp tàn của
những đám mây đến cái le lói, thưa thớt của những vệt sáng, quầng sáng nơi góc phố. Từ cái âm thanh vang xa của
tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, tiếng vo ve của muỗi kêu trong gian hàng tạp hóa, tiếng râm ran
ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào của ếch nhái… đến cái vui vẻ, huyên náo của chuyến tàu vụt qua phố huyện lúc
đêm khuya. Cái nhìn của Liên bao quát cả khung trời và khoảnh khắc ngày tàn còn gợi lên trong cô bé một nỗi buồn
man mác mơ hồ “ đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ
của chị...”
Qua cái nhìn sâu sắc ấy, người đọc còn cảm nhận được Liên là 1 cô bé rất nhân hậu và giàu lòng yêu thương.
Không chỉ để ý tới những góc khuất của cảnh chợ tàn quê mình mà Liên còn hướng người đọc đến với những mảnh đời
bất hạnh nơi đây, những con người vừa đáng thương vừa đnág trọng. “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom
khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các
người bán hàng để lại... Chị trông thấy mà động lòng thương nhưng chính chị cũng không cso tiền để mà cho chúng”
Nghe mà xót xa làm sao khi cái nghèo cứ bủa lấy, dính chặt cuộc đời họ đến nỗi chỉ có thể tự đồng cảm, xót thương
cho nhau chứ chẳng làm gì hơn được nữa. Với mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm là những người hàng xóm
thân quen nen khi màn đêm buông xuống ánh nhìn của Liên cũng dồn nhiều hơn vào họ. Liên quan sát họ từ khi họ dọn
hàng ra cho đến lúc tối muộn..: chị Tí khi kê xong chõng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại để ngồi têm trầu, còn thằng cu
thì loay hoay nhóm lửa để nấu nồi nước chè. Liên thấy bác Siêu từ “chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm
tối, mất đi, rồi lại hiện ra” cho đến khi đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường “Bóng bác mênh mang ngả xuống đất
một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”. Liên nhìn gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu “góp chuyện
bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. Cả cụ Thi điên tới uống rượu như thường lệ... Tất cả mọi hành động,
lời nói của những con người ấy Liên đều quen thuộc, tới nỗi chính chị cũng nhận ra cái khát khao kiếm tiền trong nghề
mưu sinh vất vả của họ và cả gđ chị nữa.
Không chỉ có một tâm hồn đầy những lắng đọng, ở Liên còn hiện hữu 1 nét trưởng thành sớm của cô bé 14
tuổi. khi cái nghèo đến quá nhanh cũng khiến Liên muốn tỏ ra mình là người con gái đã lớn, tảo tần và đảm đang:
“chiếc khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc ở thắt lưng, chiếc xà tích và cái khóa chị quý mến và hãnh diện”. Trong gia
đình, Liên đã có thể thay mẹ quán xuyến gian hàng và trông em. Hình ảnh cô bé Liên như một trái non chín sớm do
mưa nắng của cuộc đời… Đây cũng chính là hình ảnh tiêu biểu của những người con gái trong gđ xưa – cần cù, chịu
thương chịu khó.
Nhưng thật đáng thương thay. 1 cô bé đang trong độ tuổi trưởng thành, trong lòng đang ấp ủ biết bao ước
mơ, hoài bão và những khát vọng về tương lai, lại từng sống ở HN vui tươi, náo nhiệt mà giờ đây, Liên lại phải quanh
quẩn trong cai tù túng, ngột ngạt của con phố huyện nghèo nàn. Cuộc sống cứ tưởng chừng như đơn điệu, tẻ nhạt cho
đến khi chuyến tàu đêm từ HN về kéo theo những kỉ niệm đẹp đẽ của tuoir thơ, Liên như háo hức chờ đợi 1 điều gì đó
tươi sáng tốt đẹp hơn, cũng như những người dân nơi đây, chờ đợi đoàn tàu đêm như 1 thói quen, 1 dư âm cuối cùng
kết thúc 1 ngày dài tối tăm của họ.
Đi sâu vào mỗi nhân vật, đặc biệt là cô bé Liên mới 14, 15 tuổi có thể thấy, ở họ không hẳn là đang cam chịu,
chấp nhận cuộc sống tù túng thực tại mà sâu thẳm trong lòng, họ luôn khao khát mãnh liệt 1 thế giới mới tươi sáng,
sung túc và hạnh phúc hơn, lấp lánh, náo nhiệt như những ánh đèn ngoài HN. Trang văn của TLam khép lại nhưng ta
vẫn nghe thấy tiếng thổn thức của trái tim giàu nhân đạo ấy. Ông đã khắc họa chân thực btranh tồi tàn của góc khuất
u tối nơi phố huyện nghèo, đồng thời nói lên tiếng lòng xót thương những mảnh đời bất hạnh, quẩn quanh trong xh cũ.
3. NGHỆ THUẬT
Ngòi bút của TLam đã rất thành công trong việc xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật. Truyện không có 1 chi
tiết éo le, không phóng đại hay cụ thể hóa 1 chi tiết nào cũng không đi sâu phân biệt 1 giai cấp, tầng lớp cụ thể nhưng
ông đã đem đến cho độc giả những xúc cảm lắng đọng khi đến với tác phẩm. Truyện ngắn Hai đứa trẻ như một bài thơ
trữ tình, từ giọng điệu, cấu tứ, ngôn ngữ đều nhẹ nhàng, chân thực, gần gũi với đời sống người dân và đặc biệt, ông đi
sâu vào tâm hồn của nhân vật Liên như thể là chính cuộc sống của ông vậy.

III. KẾT BÀI


Như vậy, trong btranh u tối của kiếp người tàn, hình ảnh đoàn tàu hiện lên như 1 nét chấm phá rực rỡ hắt ra
từ giữa đêm khuya như muốn xé toạc cái đói khổ nơi đây, dù chỉ là vụt qua ,lóe lên trong phút chốc. Qua tác phẩm,
TLam đã thể hiện 1 cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh
ở góc phố huyện nghèo trước cách mạng. Đồng thời ông cũng thể hiện sự trân trọng khát vọng, ước mong hướng tới
cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp của họ.
Như vậy, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” TLam đã tô đậm những suy nghĩ, tâm sự thầm kín của nhân vật Liên
để cô trở thành cầu nối tâm hồn người đọc đến với btranh u tối của kiếp ngươi tàn góc phố huyện. Đồng thời còn thể
hiện niềm xót thương, trân trọng những khát khao nhỏ bé của họ về 1 tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

BỨC TRANH CHIỀU GÓC PHỐ HUYỆN


Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống
thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của
Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên
nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than
sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong
những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo
vào phố huyện. Hòa vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn.Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều
xuống càng trở nên ám ảnh khi“mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị
em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc.Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và
mờnhạthơn đến mức Liên chỉcòn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố
huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả
điểm vào đónhững điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng
nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của
nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cảnhư
được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên:“Chiều, chiều rồi”.Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn,
cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị.
Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trởlại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm
nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển
chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thếgiới thiên nhiên của phốhuyện nghèo lúc chiều tối. Nó không
những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ởhọnhững tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi
dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao
Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những
“rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để
cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật
nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình
ảnh bà cụThi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống,
phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những
chập chờn, có lẽđây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ếẩm.Khép lại
những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người
nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chịem Liên. Cha của hai em mất việc phải
rời Hà Nội vềquê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹbán hàng và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏxíu nghèo nàn. Nhớlại
cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờđây mùi
phởbác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thểnào mơ tưởng
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả cuộc sống phố huyện trong Hai đứa trẻ gắn với ba thời điểm nối
tiếp: chiều buông- đêm xuống- khuya về. Có thể thấy rõ ở đây có sự xung đột giữa bóng tối và ánh sáng: bóng tối hay
nghèo nàn và cô đơn- ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua.Nếu ví màn đêm lạnh lẽo là mảnh đời quẩn quanh, cùng cực
của người dân nơi phố huyejn nghèo thì ánh sáng mờ ảo, yếu ớt lúc chiều tàn chính là mong ước, khát khao ấp ủ bấy
lâu của những con người bất hạnh ấy. Và mãnh liệt hơn cả chính là thứ ánh sáng chói chang hắt ra từ đoàn tàu giữa
đêm khuya như muốn xé toạc cái đói khổ nơi đây, dù chỉ là vụt qua ,lóe lên trong phút chốc.
Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của
buổi hoàng hôn “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”dẫu đẹp nhưng
lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn dư
vị của bóng tối. Trong không gian “bóng tối ngập đầy dần”, Liên đã chứng kiến những con người “đi lần vào bóng tối”,
“từ từ đi vào bóng đêm”. Và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng đời chập chờn ánh sáng lay lắt với
ngọn đèn, bếp lửa.
Đêm xuống, cả phố huyện chìm trong bóng tối: “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Càng
về khuya, bóng tối càng đậm đặc hơn: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ
vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê lương, gợi cho ta hình
dung bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé bỏng đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo
âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất lấp của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống
phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quãng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố
huyện le lói ánh đèn dầu.
Trong bóng tối tràn lan, dày đặc ấy, ánh sáng thật nhỏ nhoi, leo lét. Đó là cái ánh sáng yếu ớt hắt ra từ khe
cửa; đó là cái quầng sáng từ chiếc đèn con của chị Tí và lò lửa của bác Siêu; đó là “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn
nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”; đó là cái ánh sáng nhợt nhạt của “những con đom đóm bay là là trên
mặt đất”; đó là ánh sáng xa vời vợi của các vì sao trên giải ngân hà. Ánh sáng được miêu tả bằng những danh từ định
lượng rất nhỏ: khe sáng, hột sáng, vệt sáng, quầng sáng, chấm lửa nhỏ. Bấy nhiêu thứ ánh sáng ít ỏi ấy như đối lập với
bóng tối mênh mông, dày đặc. Chính trên cái nền tối ấy, tồn tại chông chênh những thân phận con người. Sự đối lập
giữa bóng tối mênh mông và ánh sáng leo lét, ít ỏi đã làm nổi bật lên hiện thực cuộc sống nơi phố huyện: lay lắt, lụi
tàn, tối tăm, tù đọng.
Bóng tối và ánh sáng ở đây vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Phải chăng cuộc sống
nghèo nàn, tù túng ở phố huyện cũng là một thứ bóng tối. Những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn
dùng được trong ngôi chợ vãn. Hai mẹ con chị Tí ban ngày mò cua bắt ốc, ban đêm dọn hàng nước dưới gốc cây bàng,
buôn bán ế ẩm. Bóng bác Siêu bán phở mênh mang ngả xuống đất, kéo dài đến tận hàng rào; món hàng của bác là
một thứ quà xa xỉ nên cũng chẳng mấy người mua. Bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách đi lần vào bóng tối. Gia
đình bác xẩm trên manh chiếu rách với mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất nhặt rác bẩn. Và hai
đứa trẻ với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, lời lãi chẳng là bao, ngồi nhìn cảnh chiều xuống, đêm về với những nỗi buồn mơ
hồ, thấm thía. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí cứ trở đi trở lại như một biểu tượng cho
những kiếp sống mù tối, lay lắt trong bóng đêm mênh mang của cuộc đời.
Con người luôn hướng về phía ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Đó là thực tế
đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của những người dân nghèo. Nhưng dường như ông không muốn
để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ. Bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng
đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc mong manh nhất:
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Dù đấy là
niềm mong đợi hết sức mơ hồ và cũng không biết bao giờ mới trở thành hiện thực.
Không gian chứa đầy bóng tối xuất hiện hầu hết trong các truyện của Thạch Lam. Nhưng đối lập với bóng tối là
ánh sáng, không chỉ là ánh sáng le lói của những ngọn đèn mà quan trọng hơn là ánh sáng của những tâm hồn luôn
muốn vươn tới một thế giới tinh thần lành mạnh, giàu tính thiện.

You might also like