Professional Documents
Culture Documents
BÀI TẬP TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT
BÀI TẬP TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT
Câu 3.1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất
tích và tuyên bố một người là đã chết.
Giống nhau:
Chủ thể yêu cầu xem xét: Người có quyền, lợi ích liên quan.
Thời hạn: Tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng của người đó. Nếu
không xác định được ngày thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên
của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được
ngày, tháng thì thời hạn được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo
năm có tin tức cuối cùng.
Người bị tuyên bố trở về hay có tin tức xác thực là người đó còn sống
thì theo yêu cầu của người bị tuyên bố hoặc người có quyền, lợi ích liên
quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó mất
tích hoặc đã chết.
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích
hoặc đã chết phải được gửi cho cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố
để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Khác nhau:
Câu 3.2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong
thời hạn bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết
định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có
hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết
thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn
hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật
này.”
→ Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành: Sau 3 năm kể từ ngày Tòa
án tuyên bố mất tích; biệt tích trong chiến tranh sau 5 năm; bị tai nạn hoặc
thảm họa hay thiên tai sau 2 năm; biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin
tức xác thực là còn sống trong các khoảng thời gian trên thì Tòa án có thể tuyên
là đã chết theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Câu 3.3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị
tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
Trong các vụ việc trên, cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích tính từ thời
điểm 5 năm kể từ ngày biệt tích mà không có thông tin xác thực là còn
sống.
“Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn
sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan,
Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.”
Do vậy, trường hợp này không thể xác định theo điểm a khoản 1 Điều
71 BLDS 2015 được. Trong các vụ việc trên tòa căn cứ theo điểm d
khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 để tuyên bố chết: “Biệt tích 05 năm liền
trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính
theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.”
Câu 3.4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá
nhân? Nêu cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.
Theo khoản 3 Điều 16 BLDS 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Do đó
việc xác định ngày chết của một cá nhân làm thay đổi, phát sinh, chấm
dứt các quan hệ dân sự khác. Ngày mà cá nhân đó chết cũng chính là
ngày năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đó bị chấm dứt đồng thời
làm thay đổi, chấm dứt, phát sinh các quan hệ về quyền tài sản, quyền
nhân thân đối với người có quyền và lợi ích liên quan theo Điều 72
BLDS 2015: “1. Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã
chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan
hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã
chết; 2. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được
giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải
quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.”
Ngoài ra theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 về thời điểm, địa điểm mở
thừa kế: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa
kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Đây là
cơ sở để xác định thời điểm mở thừa kế từ ngày tòa ra tuyên bố quyết
định một người đã chết. Từ những cơ sở pháp lý được đưa ra cho thấy
việc xác định ngày chết của một cá nhân là vô cùng quan trọng.
Ví dụ minh họa: “Anh A là một công nhân làm ở công trường X, anh có
một vợ và hai con nhỏ, không có cha mẹ hay anh chị em. Anh A có tài
sản là một mảnh đất rộng 10 héc-ta. Một ngày anh A không may mắn bị
tai nạn lao động trong quá trình làm việc dẫn đến tử vong. Gia đình anh
A đã làm giấy chứng tử cho anh A. Việc anh A mất đi đã làm chấm dứt
mối quan hệ hôn nhân giữa anh A và vợ của anh ấy, đồng thời tài sản
của anh A cũng được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Cụ thể vợ con anh A thuộc hàng thừa kế thứ nhất, người vợ có trách
nhiệm quản lý tài sản anh A đề lại là mảnh đất rộng 10 héc-ta cho đến
khi các con trưởng thành và tiến hành phân chia theo quy định của pháp
luật.”
Bình Nguyên
Câu 3.5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là
ngày nào? Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và
2019) cho câu trả lời?
…
Chấp nhận đơn yêu cầu của anh Quản Bá Đ;
Tuyên bố chị Quản Thị K - sinh 1969 đã chết ngày 19/11/2018;
Ngày 19/11/2018 là ngày làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quan hệ về nhân thân, về tài sản, về hôn nhân gia đình, về thừa kế của
chị Quản Thị K.”
Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 thì Tòa
án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp “Biệt
tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời
hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.
Khoản 1 Điều 68 BLDS 2015 quy định: “...nếu không xác định được
ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên
của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được
ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng".
Căn cứ vào quy định nêu trên, có cơ sở xác định cụ Phạm Văn C đã chết
kể từ ngày 01/5/1997.”
Câu 3.6. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định
năm 2018 và 2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào?
Vì vậy trong Quyết định số 272, ông Trần Văn C bị tuyên bố chết vào
ngày 27/4/2018; trong Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày
19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, chị
Quản Thị K bị tuyên bố là đã chết vào ngày 19/11/2018; và trong Quyết
định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP.
Hà Nội, cụ Phạm Văn C bị tuyên bố là đã chết vào ngày 15/11/2019.
Hải Anh