You are on page 1of 25

HÀ NỘI,

ĐỀ TÀI: 2
BÀI
hiện thực
quan. Ý n
1
LỜI CẢM ƠN
LỜI CẢM ƠN

Nhóm 1 lớp K59AA3 xin trân trọng cảm ơn cô Tạ Thị Vân Hà đã tận tình giúp đỡ nhóm
trong quá trình học tập cũng như thực hiện báo cáo thảo luận .
Do nhóm còn nhiều hạn chế về kiến thức nên bài trình bày chắc chắn không thể tránh khỏi
còn nhiều thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành từ phía cô và các
bạn.

2
LỜI CAM ĐOAN

Trong quá trình được cô giáo truyền đạt kiến thức và thực hiện đề tài thảo luận, nhóm 1 đã
tham khảo một số giáo trình, tài liệu có liên quan trong phạm vi nội dung Triết học. Tuy
nhiên, nhóm xin cam đoan bài trình bày của nhím không trùng lặp với bất kì bài báo cáo
nghiên cứu nào thực hiện trước đó mà nhóm được biết.

3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 2
LỜI CAM ĐOAN 3
I. Cơ sở lí luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan”. 5
1.1. Vật chất 5
1.2. Ý thức 6
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức 8
II. Ý nghĩa phương pháp luận 10
III. Sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. 12
1. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt
Nam giai đoạn trước năm 1986 12
2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt
Nam hiện nay. 13
2.1. Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính
năng động chủ quan 13
2.2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên
lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay 17
2.3. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên
lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nay 21
2.4. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên
lĩnh vực văn hóa, xã hội ở Việt Nam hiện nay 23
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

4
I. Cơ sở lí luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan”.
- Cơ sở lí luận chung của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan” là quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức.
1.1. Vật chất
1.1.1. Khái niệm
- Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, tổng kết những thành tựu khoa học tự
nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩ duy
tâm, V.I Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đã
định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
không lệ thuộc vào cảm giác”.
+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng để chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô
tận, không sinh ra, không mất đi.
+ Trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc
tính khách quan,tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc và ý thức.
+ Nhấn mạnh con người có thể nhận thức được thế giới vật chất bằng những phương thức
khác nhau ( “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh” ).
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm,
bác bỏ thuyết không biết, khắc phục hạn chế trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất.
1.1.2. Những phương thức tồn tại của vật chất
a. Vận động
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi
vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà với tư cách là
một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung.
• Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
- Vật chất tồn tại bằng cách vận động, biểu hiện sự tồn tại của mình trong và qua vận
động. Tức là vật chất dưới các dạng thức của nó luôn luôn trong quá trình biến đổi không
ngừng.
- Vận động của vật chất là sự vận động tự thân và mang tính phổ biến.
- Con người chỉ có thể nhận thức được sự vật và hiện tượng bằng cách xem xét chúng
trong quá trình vận động
5
• Vận động là “thuộc tính cỗ hữu của vật chất”; do đó, nó tồn tại vĩnh viễn gắn liền với
bản thân vật chất, không thể tạo ra và không thể bị mất đi được chứng minh bằng quy luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
b. Vận động và đứng im
- Sự vận động không ngừng của vật chất còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: “đứng im là trạng thái ổn định về
vật chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể; là hình thức
bểu hiện sự tồn tại thực sự của sự vật, hiện tượng; là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa
của vật chất. Hiểu đơn giản là:
+ Đứng im chỉ có tính tạm thời, xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, với một hình
thức vận động nào đó, ở một thời điểm nào đó. Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái
vận động – vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
+ Mang tính chất tạm thời, nhưng đứng im lại “chứng thực” cho hình thức tồn tại thực sự
của vật chất, không có đứng im thì không có sự ổn định của sự vật và con người cũng không
thể nhận thức được chúng.
+ Đứng im là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất, không có đứng im thì
sự vật, hiện tượng không thể thực hiện được sự vận động chuyển hóa tiếp theo.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Trạng thái cân bằng của sự vật là tạm thời
trong quá trình vận động của nó.
Như vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong
quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.
1.2. Ý thức
1.2.1. Khái niệm
- Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư
duy lí luận mà phương tiện tồn tại của nó là tri thức. Ý thức vừa là hình thức phản ánh đặc
trưng chỉ có ở con người, vừa là hình thức phản ánh cao nhất và phản ánh sáng tạo thế giới
hiện thực khách quan vào bộ não con người thông qua lao động và ngôn ngữ.
1.2.2. Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh
của vật chất.Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người và
thế giới khách quan tác động vào bộ óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao
động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.

6
 Lao động: là quá trình con người tác động và giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản
phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, trong quá trình đó con người tác động vào
các đối tượng, buộc chúng bộ lộ đặc điểm, tính chất của nó, sau đó các đặc điểm, tính
chất đó lại tác động vào bộ óc con người. Từ đó, con người nhận thức được quy luật,
hiện tượng của sự vật trong thế giới.
Như vậy, ý thức chủ yếu hình thành do hoạt động cải tạo, biến đổi thế giới khách quan
của con người. Có thể khái quát rằng nguồn gốc cơ bản của ý thức, tư tưởng là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người thông qua quá trình lao động.
 Ngôn ngữ : vì lao động mang tính tập thể xã hội nên nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông
tin, kinh nghiệm, tư tưởng giữa người với người xuất hiện. Điều này đòi hỏi sự xuất
hiện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ hình thành do nhu cầu của lao động, nó là hệ thống tín
hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội, nếu không có ngôn ngữ làm công
cụ khái quát hóa, trừu tượng hóa thì ý thức không thể tồn tại, phát triển và được thể hiện,
truyền tải ra bên ngoài được.
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội.
1.2.3. Bản chất của ý thức
- Khái niệm: bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
• Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
+ Bản chất ý thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ
óc con người.
+ Ý thức cả vật chất đều là hiện thực nhưng giữa chúng có sự đối lập về bản chất: vật
chất là hiện thực khách quan, ý thức là hiện thực chủ quan.
+ Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là bản sao, là “hình
ảnh” về thế giới đó, là tính thứ hai.
 Ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan
+ Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều
kiện lịch sử- xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một
đối tượng phản ánh nhưng với chủ thể phản ánh khác nhau có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh
nghiệm, thể chất khác nhau, trong hoàn cảnh lịch sử khác nhau… thì kết quả phản ánh đối
tượng trong ý thức rất khác nhau.

7
 Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật,
điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn.
+ Bằng những thao tác của tư duy trừu tượng đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt
động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo “thiên nhiên thứ hai” in
đậm dấu ấn của con người.
 Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội
+ Ý thức là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ rệt.
+ Tính tích cực sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: trên cơ sở cái đã có,ý thức có thể tạo
ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không thể có trong thực tế, có thể
dự đoán về hiện tượng trong tương lai hoặc tạo ra những ảo tưởng, những giả thuyết, những
lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng khái quát… Tuy nhiên những sáng tạo của ý thức
không đối lập, không khai trừ và không tách rời sự phản ánh. Ngược lại, phản ánh và sáng
tạo thống nhất với nhau và là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối
quan hệ vật chất và ý thức là “vấn đề cơ bản lớn của triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại”.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
 Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
 Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, được thể hiện ở những mặt ở sau đây:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Con người do thế giới vật chất sinh ra, ý thức – một
thuộc tính của bộ óc con người nên cũng sinh ra từ vật chất. Vậy vật chất tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức và quyết định sự hình thành của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản
ánh hiện thực khách quan. Hay nói theo cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển
theo những quy luật khách quan của nó, được phản vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không
thể tách rời trong bản chất của ý thức. Đó là sự phản ánh tích cực, tự giác và sự sáng tạo
thông qua thực tiễn. Chính hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở để hình thành, phát
triển ý thức. Trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo; phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo trong phản ánh.

8
+ Vật chất quyết định sự biến đổi, sự phát triển của ý thức: Bản chất của ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong điều kiện tự nhiên thay đổi, quan hệ vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo.
+ Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức: Mỗi một cá nhân, mỗi một tổ chức đều
có những ý niệm và mục đích riêng, do đó phải có vật chất thì những ý nguyện đó mới thành
hiện thực.
 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
- Thứ nhất, ý thức có tính độc lập tương đối: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, do
vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời ý thức có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ
thuộc một cách máy móc vào thế giới. Ý thức đã ra đời có tính độc lập tương đối, tác động
trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi, nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với
sự thay đổi của thế giới vật chất.
- Thứ hai, ý thức tác động trở lại đối với vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt động thực
tiễn của con người: Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể biến đổi điều kiện, hoàn cảnh vật
chất. Còn bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người;
nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người diễn ra theo hai hướng đúng hoặc
sai:
+ Hướng thứ nhất: Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, trên cơ sở đó chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người và đưa hoạt động thực tiễn của con người đi đến
thành công.
+ Ngược lại, nếu ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan mà dựa vào đó để
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người thì sẽ làm cho hoạt động thực tiễn của con người
mang tính chủ quan, duy ý chí, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến mù quáng.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời
đại ngày nay khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
II. Ý nghĩa phương pháp luận
Tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng không thể vượt quá tính
quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
1. Tôn trọng hiện thực khách quan
- Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự
nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi con người trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ

9
những điều kiện tiền đề vật chất hiện có, phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động của mình.
- Nhìn chung nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự
vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó Từ đó rút ra
kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra phương hướng và các giải pháp tác
động cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi ích của con người, không được áp đặt ý
muốn chủ quan của chủ thể nhận thức vào sự vật.
- Tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
a. Trong hoạt động nhận thức
- Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối
tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
- Ý thức là ý thức của con người nhưng bản thân ý thức nó không trực tiếp thay đổi
được hiện thực. Vì vậy muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn; ý thức tư
tưởng có thể quyết định đến tính đúng hay sai, thành công hay thất bại trong hoạt động của
con người dựa trên cơ sở những điều kiện cụ thể, điều kiện khách quan nhất định.
- Ý thức không tách rời điều kiện vật chất, con người phải biết dựa vào những điều kiện
vật chất đã có và phản ánh đúng quy luật khách quan một cách chủ động sáng tạo với ý chí
và nhận định cao.
b. Trong hoạt động thực tiễn
- Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hoạt
động của mình. Không được lấy ý kiến chủ quan làm quan điểm xuất phát.
- Trong mọi hoạt động thực tiễn, con người phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan,
phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ bên
trong vốn có của nó. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện, các giải pháp tác động cải
biến sự vật và thế giới tự nhiên để phục vụ lợi ích của con người.
- Tôn trọng, hành động theo quy luật khách quan và không áp đặt ý muốn chủ quan của
chủ thể nhận thức vào sự vật để tránh các hậu quả khôn lường.
2. Phát huy tính năng động chủ quan
- Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn nhất định Bởi vậy
con người cần phải phát huy tính năng động chủ quan của mình. Đồng thời, phát huy vai trò
tích cực của nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động sáng tạo ấy.

10
- Phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng
để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề ra đường lối, biện pháp cải biến, phục vụ lợi ích cho
con người.
- Không thụ động ngồi chờ điều kiện chín muồi mới hành động mà trái lại phải biết tạo
ra những điều kiện thích hợp, làm cho điều kiện này tác động vào điều kiện khác để nảy sinh
ra điều kiện cần thiết cho hoạt động của con người.
- Ý thức của con người không tách rời điều kiện vật chất, con người phải biết dựa vào
những điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng
tạo với ý chí và nhận định cao. Một mặt chống chủ quan duy ý chí, mặt khác phải chống
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp tính năng động chủ quan,
còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách
quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
III. Sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
1. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt
Nam giai đoạn trước năm 1986
Nhìn chung tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã có nhiều diễn biến phức tạp với
những biểu hiện cụ thể sau:
Đất nước ta vừa trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính,
mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người, tư tưởng và phương thức lãnh đạo của
Đảng chưa được đặt ra một cách đúng đắn.
Bên cạnh những mặt tích cực của thắng lợi từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng đã sai lầm do tâm lý chủ quan duy ý chí cản
trở sự phát triển nhận thức của đảng. Tình trạng bao biện làm thay trên nhiều lĩnh vực, vấn
đề gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng là hệ thống chính trị trở nên xơ cứng, kém hiệu quả.
Hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng vẫn còn mang tính hình thức, tính
độc lập và tự chủ của nhà nước bị vi phạm, hiệu lực quản lí của bộ máy nhà nước bị hạn
chế.
Kinh tế - xã hội thiểu năng, mô hình kinh tế của nước ta trong giai đoạn này có nét đặc trưng
là mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp tạo ra những tác động sâu sắc đối với
nền kinh tế và xã hội:
- Nền kinh tế phi thị trường, lấy thành phần kinh tế XHCN ( hình thức kinh tế quốc
doanh và hình thức kinh tế tập thể) đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế cả nước. Hai hình
thức trên đảm bảo sản xuất, cung ứng hàng hóa và dịch vụ quan trọng cho nền kinh tế, đặc
11
biệt trong các lĩnh vực quan trọng như năng lượng và giao thông. Kết quả của mô hình này
là các thành phần kinh tế XHCN chỉ gia tăng về số lượng, quy mô và phạm vi hoạt động mở
rộng mà hiệu quả kinh doanh lại thấp và ngày càng suy giảm.
- Quá trình công nghiệp hóa diễn ra theo mô hình nền kinh tế khép kín, tập trung vào
phát triển công nghiệp nặng và hướng nội. Điều này thể hiện sự tập trung vào việc sản xuất
các sản phẩm cơ bản và nhu cầu trong nước. Hậu quả là mô hình này đã khiến cho nền kinh
tế trở nên phụ thuộc vào những nguồn lực cụ thể và dễ bị tác động bởi biến đổi trên thị
trường quốc tế
- Nền kinh tế của chúng ta phụ thuộc chủ yếu vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai
và sự viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa. Sự phân bổ nguồn lực được thực hiện thông qua
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường. Điều này đặt ra một
loạt các thách thức trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, cũng như
trong việc duy trì sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Chính phủ áp đặt các chính sách và biện pháp hành chính để thúc đẩy cải tổ nền kinh
tế XHCN với mục tiêu không chỉ là để phát triển mà còn để hạn chế, thu hẹp và thậm chí
loại bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN. Điều này tạo ra tình trạng chủ quan trong quyết
định chính sách, trong đó mục tiêu phát triển nhanh chóng có thể đẩy hiệu quả kinh tế xã hội
vào vị trí không quan trọng. Điều này cần sự cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo rằng các quyết
định chính sách đáp ứng được cả mục tiêu phát triển và mục tiêu bền vững.
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lí kinh tế, tình
hình kinh tế - xã hội nên đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, lạm
phát hoành hành, phi mã, hiệu suất hạn chế. Đồng thời đời sống nhân dân khốn khổ, không
được cải thiện mà chỉ sa sút thêm... Đất nước lúc này thực sự đã lâm vào một cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt Nam
hiện nay.
2.1. Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan
Trong khoảng thời gian 10 năm sau cuộc thống nhất đất nước tại Việt Nam, chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình này, chúng ta đã mắc phải
nhiều sai lầm và vi phạm nhiều quy luật khách quan quan trọng, trong đó, việc vi phạm quy
luật về mối quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là điển hình. Nối
tiếp đó là sai lầm trong việc xác định mục tiêu, các bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Từ đó nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng mà nguyên nhân chủ yếu là do quyết định chủ quan, đặc
biệt là sai lầm trong chủ trương, chính sách lớn, quyết định chiến lược và tổ chức thực hiện.

12
Đánh giá về mức độ sai lầm này do chủ quan duy ý chí của Đảng, Đại hội Đảng lần thứ
VI đã chỉ rõ rằng Đảng đã “nóng vội theo đuổi những nguyện vọng chủ quan,” và “cứng đầu
trong việc thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc gia mới chỉ
mới bước vào con đường đổi mới”. Chúng ta “chưa thực sự thừa nhận đúng mức độ cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần tồn tại trong một thời gian dài”, muốn xóa bỏ một cách nóng vội
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng thiếu sự thấu hiểu và vận dụng
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển sản xuất, dẫn
đến việc tập trung quá mạnh vào phát triển công nghiệp nặng mà bỏ qua phát triển công
nghiệp nhẹ.
Đảng ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp gắn liền với
tư duy kinh tế đơn giản về chủ nghĩa xã hội mang nặng tính chất chủ quan duy ý chí. Thêm
vào đó, những sai lầm trong việc cải cách giá cả tiền lương và tiền tệ, mạnh mẽ xây dựng cơ
cấu kinh tế xuất phát từ mong muốn đi nhanh mà không tính đến khả năng thực tế đã dẫn
đến việc sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu trở nên gay gắt. Việc áp dụng
những chính sách vi phạm quy luật khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hóa đã dẫn đến
sự trì trệ và khủng hoảng nghiêm trọng trong nền kinh tế của nước ta.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm từ chủ quan duy ý chí Đại hội Đảng lần thứ V đã
đánh giá: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều
kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn kiện Đại hội Đảng lần V). Điều này đồng nghĩa
với việc thừa nhận vai trò quan trọng của vật chất và các quy luật khách quan trong việc đưa
ra các chính sách và quyết định trong thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta.
Sau Đại hội Đảng lần VI, quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
đã trở thành tiêu chí quan trọng trong việc điều hành đất nước. Đại hội VI đã đề ra một
đường lối đổi mới toàn diện.
Đại hội VI đã xác định rằng xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một
nhiệm vụ lớn và cần thời gian dài để hoàn thành. Việc này không thể thực hiện nhanh chóng
và nói không với việc nóng vội. Văn kiện của Đại hội nêu rõ: “Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ liên tục và thường xuyên trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần
sử dụng các hình thức và bước đi phù hợp để quan hệ sản xuất phù hợp với tiến bộ và trình
độ của lực lượng sản xuất, và luôn đóng góp vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.”
Đại hội cũng nhận thấy rằng việc lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và
mất cân đối, với nhiều yếu tố phát triển quá nhanh so với lực lượng sản xuất. Dựa trên điều
này, Đại hội đã xác định rằng “Nền kinh tế đa dạng là đặc trưng của thời kỳ quá độ.”. Do
vậy,Đại hội VI xác định điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư sao cho nguyên tắc quan hệ
sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất theo hướng “ không bố trí xây dựng công
nghiệp năng vượt quá điều kiện thực tế. Bên cạnh đó, cần tập trung nguồn lực vào thực hiện
13
ba chương trình mục tiêu quan trọng: sản xuất thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu. Những chương trình này không chỉ đáp ứng nhu cầu quan trọng mà còn
thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và thương mại hàng hóa.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI đã chỉ rõ nhiệm vụ “phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hoạt động dưới cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội) là mục tiêu quan trọng. Đại hội đã nêu rõ 2 đặc trưng của cơ chế quản lý kinh
tế bao gồm tính kế hoạch và sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Qua đó thống nhất phấn đấu
thi hành chính sách một giá và hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.
Vấn đề phân phối được chú trọng hơn trong quan hệ sản xuất bằng cách áp dụng nhiều
hình thức phân phối, chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Bên
cạnh đó, dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và
quá trình phát triển. Trong đó, Đảng cần đổi mới tư duy lý luận và nâng cao trình độ lý luận
để nhận thức và hành động đúng với quy luật khách quan. Cần tăng cường dân chủ, phát huy
năng lực cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn,
không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới, cải thiện
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị để khắc phục những sai lầm và
khuyết điểm của chủ quan duy ý chí.
Từ sau Đại hội X, Việt Nam phát triển thuận lợi và trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống
gặp nhiều khó khăn do gặp phải khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những hành động chống
phá của các thế lực thù địch. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu
để giải quyết khó khăn, vượt qua thách thức và đạt được những thành tựu quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức
cần khắc phục.
Giáo dục, khoa học – công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội đã có tiến bộ. Vấn đề
tài nguyên và môi trường được chú trọng, đời sống nhân dân được cải thiện những vẫn tồn
tại những yếu kém faay bức xúc xã hội.
Việc tăng cường quốc phòng, an ninh, và đối ngoại đã được thực hiện, nhưng vẫn tồn
tại nhiều hạn chế. Mặc dù đã có sự tiến bộ trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đoàn
kết của dân tộc, nhưng chưa được phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh, tuy nhiên vẫn cần nâng cao hiệu quả và hiệu lực.
Công tác xây dựng và điều hành Đảng đã được tăng cường, nhưng vẫn tồn tại nhiều
khuyết điểm và yếu kém chưa được khắc phục.

14
Qua quá trình lãnh đạo Đảng và thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng đã rút ra một
số kinh nghiệm quan trọng:
 Kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới.
 Chăm sóc chất lượng và hiệu suất tăng trưởng.
 Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
 Củng cố và xây dựng Đảng chính trị.
 Lãnh đạo và chỉ đạo phải nhạy bén, kiên quyết, và kịp thời.
Việt Nam hiện nay đã thực hiện thành công chặng đường đầu tiên của công cuộc đổi
mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân đã có nhiều thay đổi
tích cực tuy vẫn còn nhiều thách thức lớn. Đất nước đang trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, Đảng chủ trương sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài
nước, phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất và tăng cường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2020, “nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại”, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Xuất phát từ thực tế trên, Đảng ta cần tôn trọng quy luật khách quan và phát huy tính
năng động chủ quan của mình. Cần xuất phát từ thực tế khách quan trong việc ban hành các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các chương trình, kế
hoạch, tránh lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực sẽ mắc phải chứng chủ
quan duy ý chí.
2.2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh
vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Trước năm 1986, mô hình kinh tế của Việt Nam chịu sự chi phối của mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp với bốn đặc điểm quan trọng:
- Về hình thức sở hữu, nền kinh tế của Việt Nam trước năm 1986 dựa vào chế độ sở
hữu thuần nhất, tập trung vào việc quản lý tài sản sản xuất. Hệ thống sở hữu bao gồm kinh tế
nhà nước (quốc doanh) và kinh tế tập thể, trong khi các hình thức sở hữu khác không được
chấp nhận.
- Về cơ chế vận hành, mô hình kinh tế này hoạt động dưới cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, mà tất cả các hoạt động từ sản xuất đến tiêu dùng đều do chính phủ quyết định và theo
dõi. Kế hoạch hóa đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành nền kinh tế, và các quyết
định kế hoạch phải tuân theo một cách tối thiểu.
- Về quản lý nhà nước, nhà nước kiểm soát trực tiếp mọi khía cạnh của thị trường, từ
giá cả đến quản lý hàng hóa. Giá cả hàng hóa cũng như việc mua bán hàng hóa được quy

15
định một cách chi tiết bởi nhà nước. Đất đai, vốn, và lao động không được coi là các loại
hàng hóa thương mại và không được phép giao dịch trên thị trường.
Nền kinh tế của Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế khép kín, hầu như không tham
gia vào hoạt động thương mại quốc tế và chỉ giao lưu buôn bán với các nước xã hội chủ
nghĩa.
Sự tồn tại của mô hình kinh tế với những đặc điểm này phần lớn bắt nguồn từ bối cảnh lịch
sử đặc biệt của Việt Nam trước năm 1975: thực hiện cùng lúc nhiệm vụ xây dựng chế độ xã
hội chủ nghĩa và kháng chiến thống nhất đất nước, giành độc lập dân tộc. Trong tình cảnh
đó, nền hình kinh tế nước ta đã đóng góp một cách tích cực cho cuộc kháng chiến, trong đó
lợi ích cá nhân đặt sau mục tiêu giành độc lập, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, sau năm 1975, khi nhiệm vụ thống nhất đất nước đã hoàn thành, mô hình
kinh tế này đã trở nên không còn phù hợp với tình hình mới. Hệ thống quản lý tập trung thể
hiện rõ sự không hiệu quả và thiếu tính nhất quán về nhiều mặt. Cơ chế hành chính thái quá
dẫn đến căn bệnh quan liêu bao cấp kéo dài mà đến tận bây giờ, sau hơn 20 năm chúng ta
vẫn cần nỗ lực lớn để khắc phục. Đồng thời, cơ chế này cũng làm hạn chế khả năng nắm bắt
và vận dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế. Như vậy, thị trường –
động cơ quan trong của sản xuất kinh doanh bị xóa bỏ bởi nền kinh tế.
Những vấn đề này, cộng với nền kinh tế trì trệ sau chiến tranh đã khiến nền kinh tế
của Việt Nam vào tình trạng khủng hoảng với những hạn chế ở mọi mặt. Điẻn hình như, tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm từ 1976 đến 1980 rất thấp
(chỉ đạt 0,4% mỗi năm so với mục tiêu kế hoạch là 13-14%), có sự khan hiếm lương thực
(nguồn lương thực đã giảm từ 274kg/người vào năm 1976 xuống còn 268kg/người vào năm
1980) và phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực mỗi năm. Hãng xuất khẩu cũng chỉ bằng
1/5 của lượng hàng hóa nhập khẩu. Cải cách giá cả và hệ thống tiền tệ đã tạo ra sự biến động
mạnh mẽ, với mức tăng trưởng giá tiêu dùng đạt đến hàng trăm phần trăm.
Cùng với đó, các chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới lúc bấy giờ cũng đang phải đối
mặt với nguy cơ sụp đổ của Liên Xô và các quốc gia Xã hội chủ nghĩa ở Đông u. Đồng thời,
xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập và mở cửa đang lan rộng trên toàn cầu, tạo ra những thách
thức và cơ hội mới.
Thực tế khách quan đó chỉ rõ rằng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung không còn
phù hợp với tình hình mới và đòi hỏi sự thay đổi. Việc đánh giá và xác định các vấn đề cốt
lõi về hiệu suất kém của nền kinh tế trước năm 1986 đòi hỏi vihc nắm bắt các tình huống
kinh tế thực tế trong quá trình phát triển xã hội và đổi mới cách tiếp cận về mô hình kinh tế.
Điều này cũng bao gồm việc thiết lập các giải pháp khả thi và toàn diện, tuân theo nguyên
tắc tôn trọng tính khách quan và kích thích tính năng động chủ quan. Trước đổi mới, chúng
ta quá nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau Đại hội Đảng năm 1986, vấn đề này đã được xem xét một cách
16
toàn diện để thực hiện các sự thay đổi cả trong tư duy và thực tế xây dựng mô hình kinh tế
xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang hướng đến.
Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu và bao cấp sang mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết định quan trọng. Đảng đã
xác định kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá phát triển ở giai đoạn cao, trong đó
các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều phải thông qua thị trường. Tất cả các thực thể kinh tế
đều phải đối mặt với quy tắc của thị trường và các quyết định của họ đều là kết quả của sự
điều tiết của giá cả. Để áp dụng cách tiếp cận mới này và thực hiện tư duy đổi mới, chúng ta
phải sử dụng cả hai khía cạnh, tôn trọng tính khách quan và kích thích tính động chủ quan.
Để đạt được điều này, cần phải tổ chức các tài nguyên vật chất cần thiết.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một loại tổ chức kinh
tế không chỉ tuân theo các quy tắc của thị trường mà còn dựa trên các nguyên tắc và bản chất
của xã hội. Nó được thể hiện thông qua ba khía cạnh quan trọng: sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối. Điều này có nghĩa rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hệ
thống kinh tế đa dạng trong nhiều khía cạnh, chạy theo cơ chế thị trường, nhưng lại được
điều hành bởi Nhà nước theo các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Nó cũng thể hiện thông
qua việc sở hữu, quản lý và phân phối. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có thể được coi là một loại tổ chức kinh tế của một xã hội đang chuyển đổi từ một tình
trạng kinh tế thấp sang một tình trạng cao hơn, hướng tới xã hội mới, mục tiêu là xã hội chủ
nghĩa. Đây là một hệ thống kinh tế thị trường được điều hành bởi Đảng Cộng sản và được
quản lý bởi Nhà nước xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu cao cả về phương diện xã hội và mục
tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Tôn trọng tính khách quan luôn đi đôi với việc kích thích tính động chủ quan. Việc
chuyển đổi từ kinh tế thế chế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
dưới một bối cảnh khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình này, không thể áp dụng cứng nhắc
mô hình của bất kỳ quốc gia nào khác (như việc chúng ta từng dựa trên mô hình của Liên Xô
một thời gian) mà cần điều chỉnh để phù hợp với bản sắc riêng của Việt Nam.
Đảng đã thúc đẩy sự đa dạng hóa của nền kinh tế, chia thành năm loại: kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư nhân do nhà nước đầu tư, kinh tế tư nhân và kinh tế cộng
đồng. Nhà nước đã tạo môi trường pháp lý cho tất cả loại hình kinh doanh và mở cửa cho
các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư từ nước ngoài, tham gia kinh doanh xuất
khẩu và nhập khẩu. Cơ chế vận hành chuyển từ quản lý tập trung và quan liêu sang mô hình
thị trường dưới sự điều hành của Nhà nước. Người kinh doanh và người tiêu dùng có quyền
tự chọn mặt hàng và quyết định mua bán theo nhu cầu và khả năng tài chính của họ. Hoạt
động kinh doanh tập trung vào hiệu quả và lợi nhuận, và giá cả hàng hóa do thị trường xác
định. Điều này đang được thực hiện dưới một bối cảnh khách quan và tuân theo nguyên tắc
tôn trọng tính khách quan.

17
Ngoài ra, kinh tế của Việt Nam đã trải qua một quá trình quan trọng chuyển từ mô
hình kinh tế khép kín sang mô hình kinh tế mở cửa và hội nhập quốc tế. Việc thiết lập quan
hệ kinh tế không chỉ với các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn được mở rộng để
hợp tác và cùng có lợi với các quốc gia trên toàn cầu, dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn
nhau.
Thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện cho nền kinh tế đã giúp Việt Nam đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Sự tham gia của nhiều phần tử kinh
tế đã giúp chúng ta tận dụng hiệu quả các nguồn lực từ trong và ngoài nước, thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp nhà nước cũng hoạt động
hiệu quả hơn.
Các mối quan hệ thương mại của Việt Nam cũng đã được mở rộng đáng kể, từng
bước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế tại cấp khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã có vị
trí ngày càng quan trọng trên sân khấu quốc tế. Từ năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu bước tiến quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau có sự biến đổi
như sau:
 Trong giai đoạn từ 1986 đến 1990, tốc độ tăng trưởng GDP tăng trung bình chỉ đạt
4,4% mỗi năm.
 Trong giai đoạn từ 1996 đến 2000, tốc độ tăng trưởng GDP tăng lên đến 7% mỗi
năm.
 Năm 2016 và 2019, dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, tốc độ tăng
trưởng GDP vẫn đạt mức 6,8%.

BẢNG TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN 2011-2022


Nguồn: Tổng cục thống kê
GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2011 là 1.375 USD và năm 2022 là 4.162,94
USD

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022

18
Tốc độ
tang 5,89 5,03 5,42 5,98 6,68 6,21 6,81 7,08 7,02 2,91 2,58 8,02
GDP
(%)

Cơ cấu thành phần kinh tế của Việt Nam vào năm 2022 có sự phân chia như sau:
• Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỉ trọng 11,88 % GDP
• Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26 % GDP
• Khu vực dịch vụ chiếm 41,33 % GDP
• Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53 % GDP
Như vậy, việc phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
chỉ là sự sáng tạo lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là việc lựa chọn và xác định hướng
phát triển trong thực tế, đánh dấu sự đổi mới của Việt Nam. Mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình này là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, cần thời gian để vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm vì nó hoàn toàn mới mẻ,
đòi hỏi nghiên cứu sâu, tổng kết và làm sáng tỏ những lí luận phức tạp.
Do vậy, Đảng và nhà nước ta cần cố gắng hơn nữa nhìn vào thực tế khách quan đồng
thời phát huy tính năng động chủ quan của mình để làm rõ các vấn đề nêu trên và làm phong
phú hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt
Nam hiện nay.
2.3. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh
vực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Chính trị là một lĩnh vực rộng lớn đóng vai trò quan trọng, quyết định đến vận mệnh
quốc gia và sự phát triển của xã hội và con người. Việc xử lý các vấn đề chính trị một cách
khoa học và tinh tế không chỉ đảm bảo ổn định chính trị mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế, văn hóa và xã hội, cũng như sự tiến bộ của con người và quốc gia. Chính trị lý tưởng
hướng đến xây dựng một xã hội nhân đạo và tiến bộ, với văn hóa chính trị đúng nghĩa.
Xác định “ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, nhà nước ta coi việc xây dựng
Đảng là ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo lãnh đạo quốc gia và đối mặt với các thách thức,
Đảng cần có đội ngũ cán bộ chất lượng, có văn hóa chính trị cao và khả năng thực hiện
nhiệm vụ chính trị một cách có trách nhiệm. Chính vì thế, Đảng luôn tiến hành đổi mới
chính mình, thực hiện các biện pháp để chỉnh đốn và cải cách tổ chức Đảng, xây dựng một
19
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sáng, duy trì đoàn kết và uy tín của Đảng trong tâm hồn của
nhân dân. Văn hóa chính trị tiến bộ đã bám trụ và giúp loại bỏ quan liêu, tham nhũng, xa hoa
và lãng phí.
Trong những năm đổi mới gần đây, Đảng đã từng bước thực hiện được các điều nêu
trên trong công tác xây dựng Đảng lành mạnh, vững chắc và được niềm tin về Đảng trong
nhân dân như văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự
chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong
công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm,
nhiệm vụ cách mạng”
Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được đánh giá, tổng kết trong Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán
triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương; chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc
sống, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân
làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, chế độ XHCN. Nhờ đó, mở rộng và nâng cao hệ thống chính trị và xã hội; tiếp tục
phát huy dân chủ XHCN, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong
việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước.
Tôn trọng ý kiến của nhân dân, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, mở
rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa... Để nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn, Đảng,
Nhà nước và các cơ quan chức năng từ trung ương đến địa phương hoạch định đúng đắn
đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh nhằm bảo
vệ vững chắc thành quả cách mạng, phát triển đất nước đúng hướng, hoàn thành thắng lợi
các mục tiêu; giữ vững những thành tựu đã đạt được, vượt qua khó khăn và thách thức, thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở ra con đường bước vào kỷ nguyên toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Tất cả đã tạo nên những tiền đề, động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng mạnh mẽ.
Hiện nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức
đã và đang làm cho các quốc gia, dân tộc vận động, biến đổi. Các thành tựu và nỗ lực trong
hội nhập quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển của nước ta. Thời cơ, vận hội đã và đang đến với
từng quốc gia, dân tộc và đang mở ra cho quốc gia, dân tộc đi tới và phát triển. Đảng cần
tiếp tục phát huy những thành tựu này để xây dựng một xã hội đạo đức và văn minh.

20
2.4. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh
vực văn hóa, xã hội ở Việt Nam hiện nay
Phát triển lĩnh vực văn hóa-xã hội luôn giữ một vị trí quan trọng trong đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc phát triển lĩnh vực văn
hóa-xã hội ở nước ta dựa trên việc tôn trọng khách quan và khai thác tính năng động chủ
quan. Xem xét áp dụng nguyên tắc này vào nhiều khía cạnh, ta có thể nhấn mạnh một số
trọng điểm sau:
- Thứ nhất, về khía cạnh tôn trọng khách quan, vật chất quyết định ý thức, chúng ta
thấy rằng sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế đã ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội. Điều này đã tạo
điều kiện cho sự phát triển của các tầng lớp xã hội và tạo ra các biến đổi xã hội đáng kể tại
Việt Nam sau đổi mới.
Trước năm 1986, do chủ chương đẩy mạnh cải tạo tất cả các thành phần kinh tế gọi là
xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xây dựng nền kinh tế “thuần nhất” dựa trên chế độ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, kéo theo sự ra đời
của cơ cấu xã hội đơn giản, gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, và tầng lớp trí thức
xuất thân từ công nông. Giản lược trong thành phần, cơ cấu dẫn tới sự thiếu hụt trong chính
sách hưởng lợi ích và thực hiện nghĩa vụ trong xã hội. Do đó, cơ cấu xã hội được hình thành
dựa trên một lối tư duy chủ quan, không phản ánh đúng thực tế xã hội và làm hạn chế trong
việc thực hiện chính sách xã hội.
Khi chuyển sang thời kỳ mới, cùng với quá trình nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức thì cơ
cấu xã hội đã biến đổi theo hướng ngày càng phong phú hơn. Việc này phản ánh sự nhận
thức đúng đắn của Đảng và nhà nước về sự đa dạng của tầng lớp xã hội. Cơ cấu xã hội
không chỉ bao gồm các giai tầng xã hội, mà còn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như cơ
cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – tôn giáo, cơ cấu xã hội – lao động – nghề nghiệp, cơ
cấu xã hội – nhân khẩu. Ngay trong từng giai tầng xã hội cũng diễn ra sự phân tầng về nghề
nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn và thu nhập. Có cả những nhóm vượt trội và nhóm
yếu thế.
Thực tế đã chứng minh, sự biến đối của cơ cấu giai tầng xã hội đã có tác dụng cho
từng người, từng gia đình phải khai thác mọi tiềm năng kinh tế, lao động, kỹ thuật, kinh
nghiệm để lo cho cuộc sống bản thân, gia đình và góp phần xây dựng đất nước. Theo kết quả
điều tra của Tổng cục Thống kê, đã có khoảng 80 – 85% gia đình tự đánh giá có mức sống
khá lên so với trước. Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người đã tăng từ 200 USD
năm 1990 lên 835 USD năm 2007. Đặc biệt, khi xét về các giai cấp, giai tầng trong nền kinh
tế thị trường, sự hình thành tầng lớp (hay đội ngũ) doanh nhân là một tất yếu tự nhiên và là
một xu hướng tích cực đối với phát triển, tôn trọng yêu cầu khách quan của thực tế. Đại hội
lần thứ X đã ghi nhận các doanh nhân được phép phát triển kinh doanh “không hạn chế quy
21
mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của
nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng cả về kinh
tế và xã hội, và tăng lên một cách nhanh chóng. Năm 2011, Việt Nam có trên 600.000 doanh
nghiệp, 1 triệu hộ kinh doanh cá thể, 133.000 hợp tác xã và trang trại, có tới khoảng 3 triệu
hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong khu vực không chính thức không đăng ký kinh doanh
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế theo quy định. Cơ cấu kinh tế thị trường định hướng cơ cấu
xã hội đã góp phần giải phóng sức sản xuất, đẩy mạnh lao động, vị thế và vai trò của người
lao động, doanh nghiệp và doanh nhân… Đồng thời, các chính sách xã hội được mở rộng và
cải thiện dựa trên sự thay đổi về cơ cấu xã hội, tăng quyền tự chủ, đảm bảo quyền lợi cho
các thành phần xã hội như: có các chính sách quan tâm tới các đối tượng yếu thế, thua thiệt;
các thể chế pháp lý đảm bảo cho sự phát triển kinh tế định hướng vào phát triển một xã hội
có tăng trưởng cao đi liền với công bằng xã hội: Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Đầu tư,
Luật thuế… Chính sách kinh tế và chính sách xã hội gắn liền với nhau, tạo ra sự thống nhất
giữa kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
Việc đổi mới cơ cấu xã hội ở Việt Nam cũng thể hiện tính năng động chủ quan khi các
doanh nhân trở nên quan trọng hơn trong tình hình hội nhập quốc tế. Sự tham gia tích cực
của các thành phần xã hội trong phát triển kinh tế cũng là một ví dụ cho sự khai thác đầy đủ
và chủ quan trong quá trình đổi mới xã hội.
- Thứ hai, Đảng và nhà nước đã thừa nhận vai trò quan trọng của giáo dục trong quá
trình đổi mới đất nước. Các biện pháp đổi mới giáo dục đã đạt được những thành tựu bước
đầu. Kinh phí ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo đã tăng lên trên 20% tổng ngân sách,
và đã có sự huy động nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục. Quy mô giáo dục tiếp tục mở
rộng và đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn về phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Tỉ lệ người lao động qua đào tạo đã tăng lên, đạt 40% tổng số lao động đang làm
việc. Hiện tại, có hơn 1,8 triệu người sở hữu trình độ đại học và cao đẳng, với số lượng tiến
sĩ và thạc sĩ đang tăng lên. Quản lý khoa học và công nghệ có sự đổi mới, và thị trường khoa
học và công nghệ bắt đầu hình thành. Đầu tư vào lĩnh vực này cũng được tăng cường.
Giáo dục đóng góp quan trọng vào việc xây dựng con người theo hướng xã hội chủ
nghĩa và tạo điều kiện cho sự phát huy tính năng động chủ quan của con người. Quan điểm
đề cao con người là trung tâm và chủ thể phát triển đã được Đảng khẳng định tại Đại hội XI
(tháng 1-2011). Con người trong xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động chủ quan cùng
với tôn trọng khách quan mở khóa cho sự thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

22
23
KẾT LUẬN

Trong thời kì đổi mới cũng như trong tình hình hội nhập toàn cầu của nước ta hiện
nay, khi chuyển từ một nền kinh tế tập trung quan liêu với nhiều hạn chế sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt
Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Đồng thời, nhân dân ta đã cùng nhau vận dụng đúng đắn các quy luật thông quan các
chủ trương chính sách do Đảng và Nhà nước ta đưa ra nên đời sống vật chất, tinh thần đã
dần được ổn định và nâng cao. Nhờ đó chế độ XHCN được củng cố thêm, đất nước dần
thoát khỏi cảnh khủng hoảng kinh tế kéo dài và đang có những bước chuyển mình tích cực
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài Học Tôn Trọng khách quan phát Huy Tính Năng động Chủ Quan và Sự Vận Dụng ở
Việt Nam Hiện Nay - Mẫu 2417098. Tài liệu đại học. (n.d.).
https://www.tailieudaihoc.com/3doc/2417098.html
Kinh tế Việt Nam - Nhìn Lại Sau 35 năm đổi mới 14/01/2021. (n.d.)
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM194860
Báo Cáo Tình Hình Kinh tế - Xã hội Quý IV và Năm 2022. General Statistics Office of
Vietnam. (n.d.).
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-
hoi-quy-iv-va-nam-2022/
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan
Các bài viết, bài báo của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về vấn đề này
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII
Báo tạp chí Cộng Sản
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
năm 2021
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội

25

You might also like