Professional Documents
Culture Documents
Triết học
Triết học
Lớ p: Xâ y dự ng Đả ng K26 hệ tậ p trung
Sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội có thể xảy ra
theo hai hướng: Nếu ý thức xã hội xuất phát từ sự phân tích chính xác hiện thực từ
đó nắm bắt được logic vận động của hiện thực thì nó sẽ phản ánh đúng đắn tương
lai của hiện thực. Tuy nhiên cũng cần chú ý, khi nói ý thức xã hội, nhất là các tư
tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội không có nghĩa là trong trường hợp
này, ý thức xã hội đã thoát khỏi sự ràng buộc, chi phối của tồn tại xã hội mà càng
cho thấy rõ tính tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội trong sự phản ánh tồn tại xã
hội.
Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa
nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định
nữa. Tư tưởng khoa học không thoát ly khỏi tồn tại xã hội mà phản ánh chính xác,
sâu sắc tồn tại xã hội.
1.2.3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Kế thừa là quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển của mọi sự
vật, hiện tượng. Xem xét tiến trình phát triển của ý thức xã hội có thể thấy, những
quan điểm, tư tưởng…thường có sự kế thừa lẫn nhau. Đó là sự kế thừa giữa các tư
tưởng, quan điểm ở trong cùng một giai đoạn; hoặc là sự kế thừa của các tư tưởng,
quan điểm ra đời sau đối với các quan điểm, tư tưởng có từ trước. Chẳng hạn, chủ
nghĩa Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của nhân
loại mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp. Quan hệ kế thừa đã làm cho sự phát triển của ý thức xã hội
diễn ra như một quá trình mang tính tự nhiên, một quá trình tiếp nối liên tục của tư
duy giữa các thế hệ.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được
một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có mà không chú
ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng
cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy yếu của triết học, nghệ thuật…
nhiều khi không phù hợp với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.
C.Mác đã từng nhận xét “Đối với nghệ thuật, ngưới ta biết rằng những thời kỳ
hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật
chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã
hội”.
Quá trình kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội là sự thống nhất giữ
giữ gìn và loại bỏ. Các tư tưởng, quan điểm ra đời sau thường giữ lại những yếu tố
tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực của cái cũ. Do đó, trong thực tế, khi thực
hiện sự kế thừa cần chống lại khuynh hướng sai lầm là khuynh hướng bảo thủ và
khuynh hướng phủ định sạch trơn.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội thường gắn với
tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức
khác nhau của các thời đại trước đó. Các giai cấp tiên tiến tiếp cận những di sản tư
tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ví dụ: Khi làm cách mạng chống phong kiến,
các nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật
và nhân bản của thời cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng
của nó tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của
những thời kỳ lịch sử trước.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ thì
không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào
lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn
gốc lý luận của chúng trong lịch sử. Quán triệt quan điểm của triết học Mác về tính
kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Đảng ta khẳng
định, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn
hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc
phục và loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu. Đồng thời, phải đẩy mạnh việc
tiếp thu những giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại nhằm làm phong phú thêm
nền văn hóa dân tộc.
1.2.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của chúng
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội còn được biểu
hiện thông qua sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
trong quá trình phát triển của chúng. Mỗi hình thái ý thức như ý thức chính trị, ý
thức pháp quyền, ý thức tôn giáo, ý thức đạo đức…phản ánh một khía cạnh của
tồn tại xã hội với những cách thức, phương pháp riêng và không thể thay thế nhau
nhưng giữa chúng luôn có sự thâm nhập, ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Sự
tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn
tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Ví dụ: Triết học phản ánh tồn tại xã hội bằng hệ thống phạm trù, nguyên lý,
quy luật triết học; nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội bằng hình tượng nghệ thuật…
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại,
tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên
hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
Nhận thức rõ sự tương tác lẫn nhau giữa các hình thức xã hội có ý nghĩa rất
lớn trong thực tế, nhất là đối với công tác tư tưởng. Nhờ mối quan hệ tương tác
này, trong công tác tư tưởng, chúng ta có thể sử dụng hình thái ý thức này để
chuyển tải nội dung của hình thái ý thức khác, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
cho công tác quan trọng này.
1.2.4. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong mối quan hệ tồn tại xã
hội và ý thức xã hội thì tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định, ý thức xã hội chỉ là sự
phản ánh tồn tại xã hội. Tuy nhiên, khác với quan điểm duy vật tầm thường và
quan điểm của chủ nghĩa duy vật kinh tế, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định
vai trò to lớn của ý thức xã hội thông qua sự tác động mạnh mẽ trở lại của ý thức
xã hội tới tồn tại xã hội. Ph. Ăng ghen đã nhấn mạnh: “Sự phát triển của chính trị,
pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật…đều dựa trên cơ sở sự phát triển
kinh tế. Vấn đề hoàn toàn không phải chỉ là có hoàn cảnh kinh tế mới là nguyên
nhân, chỉ có nó là tích cực, còn tất cả những cái còn lại đều chỉ là hậu quả thụ
động. Không, ở đây tác động qua lại trên cơ sở tất yếu kinh tế, xét cho cùng bao
giờ cũng mở đường đi cho mình”.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội có thể diễn ra theo hai
khuynh hướng. Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật khách quan của xã hội
thì nó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản
động thì nó tác động làm kìm hãm sự tồn tại của ý thức xã hội. Trong thực tế, cả
hai khuynh hướng này được thể hiện rõ khi nhà nước ban hành các đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nếu các đường lối, chính sách đó là đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ, có thể tạo nên bước ngoặt
cho sự phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại, các đường lối, chính sách sai lầm,
không phù hợp với hiện thực sẽ đẩy đời sống kinh tế - xã hội lâm vào khủng
hoảng, trì trệ.
Tính chất và hiệu quả tác động trở lại của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: vào mức độ phản ánh đúng đắn và sự
phù hợp của ý thức xã hội đối với nhu cầu phát triển xã hội; vào vai trò lịch sử của
giai cấp chủ thể của tư tưởng và năng lực hiện thực hóa, khả năng vận dụng hệ tư
tưởng vào thực tiễn của giai cấp đó; vào mức độ thâm nhập, ảnh hưởng của tư
tưởng trong quần chúng nhân dân.
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã trình bày sâu sắc mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó, khẳng định vai trò quyết định
của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Nhận thức và nắm vững được những nội
dung này có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước,
nhất là đối với nhiemejh vụ xây dựng nền tảng tinh thần ở xã hội nước ta hiện nay.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng
của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải
được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt: tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Muốn
khắc phục các hiện tượng ý thức cũ và xây dựng ý thức mới phải chú ý tất cả các
lĩnh vực, nhưng về cơ bản, lâu dài, triệt để, phải chú ý tạo lập được một hiện thực
cuộc sống để nó là mảnh đất tốt nảy sinh, tồn tại và phát triển của ý thức tốt đẹp.
Do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên để tìm hiểu hiện tượng, ý
thức, tư tưởng nào đó thì trước hết chúng ta phải phân tích, tìm hiểu những điều
kiện kinh tế - xã hội mà hiện tương, ý thức, tư tưởng đó nảy sinh phát triển.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tôn ftaij xã hội, do
đó để xây dựng và phát triển nền văn hóa mới và hệ ý thức xã hội mới thì trước hết
cần tập trung xây dựng, phát triển kinh tế để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự hình
thành và phát triển nền văn hóa mới và hệ ý thức xã hội mới (có thực mới vựt được
đạo).
Bởi vì ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại sự vận
động của tồn tại xã hội. Do đó, cùng với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thì
đồng thời phải xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, xây dựng đời sống tinh
thần của xã hội.
+ Đấu tranh khắc phục tàn dư tư tưởng, phong tục tập quán lạc hậu.
+ Tạo điều kiện cho sự hình thành, phát triển những thói quen, tập quán
mới.
+ Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chú Minh để nó trở thành nền tảng đời sống tinh thần.
+ Tiếp tục đẩy mạnh quá trình mở cửa, giao lưu, tiếp thu những thành tựu
của nền văn minh nhân loại.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, do đó những ý thức
lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư
tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
Nắm vững quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức
xã hội, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế
thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt
Nam.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự
phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức. Vì vậy, trong điều
kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học, nghệ
thuật,…nếu tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi
vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách
mạng của nhân dân.
Vận dụng mối quan hệ này trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò
tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặt khác, phải tránh tái phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần
thấy rằng, chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông
truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CHƯƠNG 2
NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
2.1. Khái niệm văn hoá và tính cần thiết kế thừa trong xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
1.3.1. Khái niệm văn hóa
Trong tiếng Việt, “theo nghĩa thô ng dụ ng thì vă n hó a chính là họ c
thứ c(trình độ vă n hó a), lố i số ng (nếp số ng vă n hó a) hoặ c theo nghĩa chuyên
biệt để chỉ trình độ phá t triển củ a mộ t giai đoạ n (như vă n hó a Đô ng Sơn…)
Theo nghĩa rộ ng thì vă n hó a gồ m tấ t cả nhữ ng sả n phẩ m tinh vi hiện đạ i
cho đến tín ngưỡ ng, phong tụ c, lố i số ng, lao độ ng” .
Có thể nó i cá ch hiểu thứ nhấ t chưa phả n á nh đầ y đủ bả n chấ t củ a vă n
hó a. Nếu hiểu vă n hó a theo nghĩa rộ ng thì vă n hó a mớ i là đố i tượ ng đích thự c
củ a vă n hó a họ c.
Có thể nó i vă n hó a bao hà m phạ m vi rộ ng như vậ y ta có thể thấ y đã tồ n
tạ i rấ t nhiều định nghĩa vă n hó a củ a cá c nhà nghiên cứ u vă n hó a trên thế giớ i
từ nhiều gó c độ khá c nhau khi nghiên cứ u về vă n hó a.
Nhà nghiên cứ u E.B. Tylor nă m 1871 lầ n đầ u tiên đưa ra định nghĩa về
vă n hó a trong tá c phẩ m “Vă n hó a nguyên thuỷ” xuấ t bả n ở Luâ n Đô n: “vă n hó a
hiểu theo nghĩa rộ ng nhấ t củ a nó là toà n bộ phứ c thể bao gồ m hiểu biết, tín
ngưỡ ng, nghệ thuậ t, đạ o đứ c, luậ t phá p, phong tụ c và nhữ ng khả nă ng và tậ p
quá n khá c mà con ngườ i có đượ c vớ i tư cá ch là mộ t thà nh viên củ a xã hộ i”.
Tuy vậ y để vă n hó a trở thà nh đố i tượ ng củ a mộ t khoa họ c độ c lậ p thì
đến nă m 1885 mớ i có tá c phẩ m “Khoa họ c chung về vă n hó a” củ a Klemm
(Đứ c) đã trình bà y sự phá t sinh phá t triển toà n diện củ a loà i ngườ i như mộ t
lịch sử vă n hó a. Thuậ t ngữ “vă n hó a họ c” xuấ t hiện nă m 1898 tạ i Đạ i hộ i giá o
viên sinh ngữ họ p ở Viên (Á o)
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đả ng cộ ng sả n Việt Nam, Văn hóa soi đường cho quốc dân đi (Văn kiện của
Đảng về văn hóa), NXB Chính trị Quố c gia – Sự thậ t, Hà Nộ i, 2015.
2. Đả ng Cộ ng sả n Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quố c gia, Hà Nộ i, 1998.
3. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm, NXB Chính trị Quố c gia,
Hà Nộ i, 2004.
4. TS. Nguyễn Huy Hoà ng, Mấy vấn đề về triết học văn hóa, Viện vă n hó a và
NXB Vă n hó a – Thô ng tin, Hà Nộ i, 2002.
5. V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ , Má txcơva, 1981.
6. Lịch sử triết học, NXB Chính trị quố c gia, Hà Nộ i, 2006.
7. PGS.TS Nguyễn Đình Minh, Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 giá trị lịch
sử và hiện thực, NXB Quâ n độ i nhâ n dâ n, Hà Nộ i, 2016.
8. PGS. Trườ ng Lưu, Văn hóa một số vấn đề lý luận, NXB Chính trị Quố c gia, Hà
Nộ i, 1999.
9. GS.TS Trầ n Vă n Phò ng (CB), Giáo trình Triết học, NXB Lý luậ n chính trị, Hà
Nộ i, 2019.
10. GS.TS Phù ng Hữ u Phú (CB), Phát triển văn hóa sức mạnh nội sinh của dân
tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quố c
gia – Sự thậ t, Hà Nộ i, 2016.
11. Bà i đă ng trên Tạ p chí Lý luậ n chính trị số 7-2011