You are on page 1of 3

 Bản thể

Bản thể là một khái niệm quan trọng trong triết học, nói đến bản chất hoặc thực thể
của một sự vật. Các triết gia khác nhau đã đưa ra những quan điểm riêng về bản thể.
Dưới đây là một vài định nghĩa về bản thể để chúng ta có nhìn chung về nó.
Trước hết là từ điển công giáo có định nghĩa về bản thể như sau: Bản thể dịch theo
dịch theo tiếng Hy lạp “ausia” (nghĩa là hữu thể), theo tiếng La tinh “Substantia” (bởi
động từ Sub- Stare có nghĩa là “ trụ ở dưới” làm nền tảng cho cái khác xuất hiện). Bản
thể chỉ cái mà một vật là, cái làm cho một vật là chính nó. Nói cách khác, bản thể chỉ
thực tại cơ bản nòng cốt, bất biến của hữu thể. Bản thể hiện hữu độc lập, tự mình có
thể đứng trụ ( esse in se, non in alio) không như tuỳ thể (accidensi in alio) vốn cần dựa
vào cái gì khác. Nếu mất đi bản thể hữu thể không thể hiện hữu, hay không còn là
chính mình. Chúng ta không thể nhìn thấy bản thể nhưng trí khôn lãnh hội được qua
các tuỳ thể. Qua đây thấp thoáng đâu đó chúng ta cũng thấy được khái niệm về bản
thể của triết gia Aristotle. Vì thần học hay triết học Ki-tô giáo cũng ảnh hưởng không
ít tư tưởng của các triết gia thời thượng cổ này. Đặc biệt nơi Plato và Aristotle.
Kế đến vào thời cận đại thì Descartes cũng định nghĩa bản thể là “một vật hiện
hữu theo cách không cần đến bất cứ vật nào khác cho sự hiện hữu của nó”. Ông thừa
nhận có bản thể tư duy và bản thể quảng tính, cả hai đều do bản thể tuyệt đối, tức
Thượng Đế, sáng tạo ra.
Sau cùng là Spinoza, ông là một người Do thái và cũng định nghĩa bản thể là
“cái tồn tại tự thân và được quan niệm bởi chính nó, nghĩa là khái niệm của nó không
cần đến khái niệm của cái khác để được hình thành”. Khi tin rằng sự đa tạp của các
bản thể là không tương thích với định nghĩa này, cũng như với định nghĩa của
Descartes, nên Spinoza cho rằng chỉ có duy nhất một bản thể mà thôi.
Tóm lại, khái niệm “bản thể” có thể có nghĩa khác nhau tùy theo ngữ cảnh và triết
gia. Nhưng nhìn chung thì bản thể là một cái gì đó là nó mà không phải một cái
khác. ,,,,
 Bản tính
Trong triết học, “bản tính” thường được hiểu là bản chất hoặc thuộc tính cố hữu, đặc
trưng của một sự vật hoặc hiện tượng. Đối với Descartes, mục tiêu hay mục đích của
tư duy luôn là “bản tính của các sự vật”. Các thuật ngữ: “bản tính” (nature), “bản
chất” (essence), “bản thể” (res), “ý niệm về hiện thực” (ratio rei) xuất hiện trong triết
học Descartes cũng giống như chúng xuất hiện trong siêu hình học Kinh viện.
Hegel cũng nói về “bản tính” trong triết học của mình. Ông cho rằng triết học không
bàn về sự quy định nào không mang tính bản chất, trái lại, chỉ xem xét một quy định
trong chừng mực nó là một yếu tố bản chất (wesentliche) mà thôi.
Trong tiếng Việt, “bản tính” được định nghĩa là tính chất hay cá tính vốn có của một
sự vật hoặc một hiện tượng. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều
lĩnh vực, bao gồm triết học, tâm lý học, và xã hội học. Bản tính thường được xem như
là những đặc điểm cố hữu, không thay đổi được, tạo nên bản chất của một sự vật hoặc
một hiện tượng.

Tuy nhiên, giống như nhiều khái niệm trong triết học, “bản tính” có thể có nghĩa khác
nhau tùy theo ngữ cảnh và triết gia. Để hiểu rõ hơn, bạn có thể cần tham khảo các tác
phẩm triết học cụ thể hoặc tìm hiểu thêm từ các nguồn tri thức đáng tin cậy.
Bản tính theo nghĩa triết học, là yếu tố điều hành các hoạt động của thực thể, nếu thiếu
thì thực thể đó không còn là nó nữa.
Vd: Chúa Giê-su , Con Thiên Chúa làm người, có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa
và bản tính loài người.
 Bản chất
Trong triết học, “bản chất” là một phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những đặc
tính bên trong của sự vật, những mối liên hệ tự nhiên ổn định trong sự vật, quy định
sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Nói đến bản chất thì không thể không nhắc tới hiện tượng.
Bản chất luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện
của bản chất ở một mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài
hiện tượng, đồng thời không có hiện tượng nào không biểu hiện bản chất.

Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật
nhưng hiện tượng lại phản ánh những cái riêng, cái cá biệt.
+ Bản chất biểu hiện cái bên trong, còn hiện tượng biểu hiện cái bên ngoài, bản chất
không chỉ biểu lộ rõ ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
+ Hiện tượng chỉ biểu hiện một phần của bản chất. Cùng một bản chất có thể biểu hiện
ra nhiều hiên tượng khác nhau tuỳ vào sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, hiện
tượng phong phú hơn bản chất, tuy nhiên bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, bản chất
mang tính ổn định còn hiện tượng là thường xuyên biến đổi.

Vd: Hãy xem xét một quả táo. Khi bạn nhìn vào nó, bạn có thể thấy màu sắc, hình
dạng, và kích thước của nó - đó là những “hiện tượng” của quả táo. Nhưng “bản chất”
của quả táo không chỉ bao gồm những thuộc tính hình thức này. Bản chất của nó còn
bao gồm cấu trúc sinh học bên trong, như các tế bào và chất dinh dưỡng, cũng như
khả năng sinh trưởng từ một hạt giống và cuối cùng chín mọng. Những thuộc tính này
không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng chúng là một phần quan trọng của “bản
chất” của quả táo.
Vậy, “bản chất” của quả táo là sự tổng hợp của tất cả những đặc tính này - từ hình
dạng và màu sắc bên ngoài đến cấu trúc và chức năng bên trong. Mỗi khi chúng ta
nhìn thấy một quả táo, chúng ta đang nhìn thấy một phần của “bản chất” của nó qua
các “hiện tượng” mà chúng ta có thể quan sát được.

You might also like