Professional Documents
Culture Documents
VAN BAN LUU TRU-DIEN TU Bai 1-2021
VAN BAN LUU TRU-DIEN TU Bai 1-2021
Phần 1
VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Phần 2
LƯU TRỮ HỌC
PHẦN 1
Chương 1: KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG, VAI TRÒ VÀ LỊCH
SỬ HÌNH THÀNH CỦA VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chương 2: HỆ THỐNG VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chương 3: THỂ THỨC VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chương 4: PHƯƠNG PHÁP SOẠN THẢO VĂN BẢN
Chương 5: TỔ CHỨC KHOA HỌC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
VĂN BẢN TRONG CÁC CƠ QUAN
PHẦN 2
Chương 1: KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG CỦA TÀI
LIỆU LƯU TRỮ
Chương 2: CÁC TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU
LƯU TRỮ
Chương 3: PHÂN LOẠI VÀ KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI LIỆU
LƯU TRỮ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vũ Dương Hoan (chủ biên), Công tác lưu trữ Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội,
1987.
Vương Đình Quyền-Nguyễn Văn Hàm, Văn bản và lưu trữ học sđại cương,
NXB GD, 1997.
Nguyễn Văn Thâm, Soạn thảo và xử lý văn bản trong công tác của cán bộ
lãnh đạo và quản lý, NXB Chính trị quốc gia, 1993.
Nguyễn Đăng Dung-Ngô Đức Tuấn, Luật hiến pháp, NXB Đồng Nai, 1999.
Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993.
Đồng Thị Thanh Phương-Nguyễn Thị Ngọc An, Soạn thảo văn bản và công
tác văn thư, lưu trữ, NXB Lao động-xã hội, 2006.
Trịnh Thị Thanh Hương (sưu tầm), Tìm hiểu Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2005.
Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm
2001), nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Chương 1:
KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG, VAI TRÒ VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
CỦA VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
• I. Khái niệm
• 1.Văn bản:
- Theo nghĩa rộng:
• Văn bản chính là vật mang tin và thông tin. Tùy theo
ngành khoa học mà nội hàm thông tin có thể là ngôn ngữ,
cận ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ.
Ví dụ: Đèn đỏ, chữ Việt cổ, vải turin, sách Arap
• Trên văn bản có những yếu tố thông tin đảm bảo tính
chân thực và giá trị pháp lý trong văn bản.
• Văn bản quản lý có giá trị pháp lý, đảm bảo cho các
quyết định quản lý có hiệu lực thi hành.
• Việc nắm vững chức năng pháp lý của văn bản quản
lý nhà nước có một ý nghĩa rất thiết thực.
• 4. Chức năng văn hóa
• Qua các VB, bản sắc văn hóa của từng dân tộc
được thể hiện rõ.
• VB góp phần duy trì, bảo lưu văn hóa dân tộc,
cùng với các yếu tố khác tạo nên đặc trưng văn
hóa dân tộc.
• 5. Chức năng xã hội
• Dưới thời PK, các Nhà nước đã nhận thức được vai
trò VB với tư cách là một phương tiện quan trọng
trong hoạt động quản lý
• Ở địa phương:
• Trước thời Nguyễn chưa thấy có tài liệu nói đến
việc thiết lập các cơ quan. Đến thời Minh Mạng đã
có những quy định giao trách nhiệm cho người
đứng đầu các địa phương về công tác CVGT.
a3. Thiết lập các cơ quan chuyên trách chuyển
giao VB:
• Thời Lý-Trần chỉ thiết lập các nhà trại để chuyên chuyển
giao CV.
• Thời Nguyễn: Có 2 cơ quan được thiết lập ra để chuyển
giao VB, đó là:
• + Ty Bưu chính: Thành lập năm 1820, có nhiệm vụ
chuyển giao VB giữa các cơ quan TW và địa phương
trên toàn quốc (gần giống như bưu điện ngày nay).
• + Ty Thông chính sứ: Thiết lập năm 1834, có nhiệm vụ
tiếp nhận các VB giấy tờ từ địa phương gửi cho triều
đình từ Ty Bưu chính chuyển sang và chuyển giao các
VB từ triều đình gửi địa phương cho Ty Bưu chính
chuyển đi (mang tính chất trung gian).
a4. Các quy định liên quan đến thể thức:
• Ưu điểm:
• Ngày nay các quy định về VB đã có một hệ thống, một
hành lang pháp lý ổn định.
• Đã xây dựng được cơ chế quản lý VB thống nhất.
• Đã thống nhất các quy định về quản lý và sử dụng con
dấu.
• Nhược điểm:
Luật
CHIẾU CẦN VƯƠNG
• Bài đại cáo về mưu lược của hoàng đế, quan viên và nhân dân trung nghĩa ở miền Nam
tuân hay.
Bản mật chiếu đại cáo này phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Hàm Nghi năm thứ năm, ngày mồng sáu tháng sáu.
• Trẫm vâng noi đại thống, nối tiếp cơ đồ lớn lao, nhưng vận nước gian truân, bọn giặc
thôn tính, thế thậm lan dần, không thể tạm yên. Vì thế đã mật triệu các bề tôi vào viện Cơ
Mật uống máu ăn thề, hẹn trước hết đánh phá tại kinh thành, sau đó đuổi dài vào Gia
Định. Chẳng ngờ Văn Tường hai lòng, nên xa giá phải dời đi Cam Lộ.
• Bởi thế, vua tôi lại phải ăn thề lần nữa để lo khôi phục, mưu định đi nước khác cầu viện.
Trẫm nào tiếc thân hèn, nên chẳng ngại lao nhọc vượt núi non biển cả, xông pha chỗ
chết, đích thân sang nước Đại Đức cầu sự giúp đỡ. Đã được nước ấy chuẩn thuận.
• Khi về thẳng Quảng Đông đã tiếp kiến các quan viên hội họp biện bạch, lòng trẫm an ủi
gấp bội, đã ban mệnh vâng theo một cách nghiêm ngặt mật cáo rằng: phàm có tai mắt ắt
cùng nghe thấy, thì cùng mối thù của đất nước chẳng đội chung trời nên bàn rằng: bậc
hiền nhân quân tử có chí khí đau xót cho thời thế, nay trẫm mượn nước Ngu để đánh
nước Quắc, mưu định dẹp loài mọi rợ, phải sớm dựa vào nước ngoài, đã tụ họp được
nhiều người, nhưng không tiền của sao nuôi dưỡng (lực lượng) được. Trẫm riêng lo vậy.
Nếu như các bề tôi trung, người dân có nghĩa ở miền Nam hẵng xuất của cải giúp nước,
thì sẽ đem họ tên, số tiền ghi vào sổ vàng, đợi ngày sau sự nghiệp hoàn thành, chiếu
theo số mà hoàn trả gấp bội và đền bù vàng, phong hộ (phong thực ấp) chẳng dè sẻn gì
đối với ơn xưa. Hãy cố gắng thay tướng sĩ! Hãy thấu cho lòng trẫm. Kính thay.
• Đóng ấn: (Đại phương ấn): Hàm Nghi bảo ấn
(Viên ấn): Phúc Minh chi ấn
(Tiểu ấn): Hoàng đế
• (Bản dịch của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, giảng viên Trường ĐH Sư phạm - ĐH Huế).
CHIẾU
DỤ - TỰ ĐỨC
• Hơn nữa, đại dương rộng lớn ngăn cách bọn man rợ đó với lãnh thổ ta, từ ban đầu ta chẳng có hiềm
khích gì với chúng, nhưng vì tham lam, đồi bại, khinh người đã thúc đẩy chúng chống lại ta một cách vô
lý, lại gây ra loạn lạc ở vùng ven biển xứ ta cũng chẳng có lý do gì, chúng ra tay cướp bóc ghe thuyền và
trâng tráo gây ra cảnh hỗn loạn trong dân chúng. Người trí thức kẻ thường dân, ai mà không nghiến răng
phẫn nộ, nghỉ đến việc ăn thịt chúng và tìm cách lột da chúng. Vì thế không phải một người, một sớm một
chiều, có thể làm được! Có ai chỉ biết ăn hoa quả của đất đai mà không biết đến trung thành và bổn
phận? Trẫm ra lệnh cho tất cả quan chức các tỉnh huy động người có học cũng như toàn thể dân chúng
địa phương liên hệ phải biết đứng lên và nổi dậy. Đây là lúc không được nói lên những lời do dự. Lúc
không có gì e ngại, thì ta vui hưởng, cày cấy, trồng trọt, tom góp của cải và giúp đỡ lẫn nhau, nhưng khi
hiểm nguy trước mặt, thì phải hợp nhau tiếp sức mà hành động, tất cả phải chiến đấu tìm giải pháp thoát
khỏi hiểm nguy. Hơn nữa, từ ngày hôm nay, trong từng vùng có ai lanh lợi hiểu biết thì phải tận dụng sự
lanh lợi và hiểu biết của mình cho có hiệu quả. Làng nào có được mười nhà lại chẳng có một người đáng
cho ta tin cẩn. Tại sao trong những nhà tranh vách lá lại chẳng có ai xứng đáng và ưu tú đủ sức vươn lên
cho người khác biết hay sao, dù họ có bị chèn ép đi nữa? Làm sao Trẫm tìm ra họ? Trẫm ra lệnh cho tất
cả các quan chức, trừ ra chính quyền cấp xã, từ tỉnh trưởng đến phó tỉnh trưởng cấp một và cấp hai, phải
tìm kiếm những ai biết phương cách hữu hiệu để đánh đuổi quân man rợ đang lâm vào bệnh điên rồ, mọi
người phải thông báo với quan chức địa phương để tấu trình lên Trẫm, không được sơ sót và quên bất cứ
ai; sau đó Trẫm sẽ lựa chọn. Tuy nhiên những ai tiến cử phải cận thận đừng quá ôm đồm làm cho thư từ
hành chính trở nên nặng nề vô ích. Trẫm cũng cho tất cả các địa phương biết, không phân biệt là quan
văn hay quan võ, ai thật sự có trí thông minh, lanh lợi, thành thạo, có phương tiện hành động và lòng quả
cảm giết giặc cướp thì hãy xin theo các võ tướng, quan chức địa phương có bổn phận phải thông báo rõ
rệt quyền hạn của họ: Một mặt chỉ bảo từng người sẽ trực thuộc đội quân nào, một mặt phải ghi nhớ tên
tuổi họ.
Sáu tỉnh cực nam kể cả Bình Thuận và Khánh Hòa trực thuộc vị Đại quan tỉnh Gia Định; các tỉnh nằm
giữa Bình Định và toàn thể Quảng Nam thì theo về với Đại võ quan Quảng Nam; Thừa Thiên và tất cả
các tỉnh phía bắc cho đến kinh đô thì cứ theo đúng chỉ thị mà trấn áp. Những ai, sau này tỏ ra xứng đáng
với Tổ quốc sẽ được ngợi khen và thăng thưởng xứng đáng. Hỡi toàn dân có mong muốn theo về với lòng
quyết tâm của Trẫm không! Đây là lời tâm huyết của Trẫm
DỤ
SẮC PHONG-HẢI PHÒNG
• Phiên âm:
• Sắc Quý Minh tôn thần nguyên tặng Chiêu ứng, Anh thông, Linh tế, Linh
Diệu, Địch các Thượng đẳng thần. Hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ
kim Phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu khả gia phong tặng: Chiêu
ứng, Anh thông, Linh tế, Linh Diệu, Địch Các, Tuấn Tĩnh Thượng đẳng thần
nhưng chuẩn Thủy Đường huyện, Lỗi Dương xã y cựu phụng sự. thần kỳ
tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
• Tự Đức lục niên thập nhất nguyệt sơ thập nhật.
• Bản dịch:
• Sắc cho Quý Minh tôn thần từ trước đã được tặng mỹ tự Chiêu ứng Anh
thông, Linh tế, Linh Diệu, Địch các Thượng đẳng thần. Thần rất linh ứng,
luôn bảo vệ đất nước che chở cho nhân dân. Nay trẫm gánh vách mệnh
lớn, nhớ đến công ơn của thần nên phong tặng thêm là Chiêu ứng, Anh
thông, Linh tế, Linh Diệu, Địch các, Tuấn tĩnh Thượng đẳng thần, cho phép
xã Lỗi Dương, huyện Thủy Đường được thờ cúng như trước, mong thần
hãy bảo vệ che chở cho dân ta. Hãy kính theo!
• Ngày 10 tháng 11 năm Tự Đức thứ 6 (1853)
• Ghi chú: Phần niên đại có đóng ấn Sắc Mệnh Chi Bảo;
SẮC
THIÊN ĐÔ CHIẾU
THIÊN ĐÔ CHIẾU
– Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà
Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời
Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu
nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn
đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời
đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai
nhàĐinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi
theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi
thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật
không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
– Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực
trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông
tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà
bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp
trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của
bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
– Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế
nào?
• (Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử
ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
CHIẾU
Bản tấu của Quốc sử quán về việc chuẩn bị các loại giấy, mực dùng để
in sách “Thực luc chính biên đệ lục kỷ” và hai tập sách Liệt truyện
chính biên, năm Duy Tân thứ 3 (1909), Nguồn: TTLTQG I
TẤU
Chú thích về Châu bản
Ngự phê của vua Minh Mạng
Ngự phê của vua Tự Đức
Con dấu
Con dấu 2