You are on page 1of 3

SUY VAN TĨNH MẠCH

I. Tổng quan:
1. Khái niệm.
Suy van tĩnh mạch chân (hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới hay suy van
tĩnh mạch chi dưới) là thuật ngữ chỉ sự suy giảm chức năng đưa máu trở về tim của
hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân dẫn đến hiện tượng máu ứ đọng lại sẽ gây ra
những biến đổi về huyết động và biến dạng tổ chức mô xung quanh, gây ra các triệu
chứng như nhức mỏi, nặng chân, phù chân, tê dị cảm, kiến bò, vọp bẻ (chuột rút) về
ban đêm... có thể dẫn đến các biến chứng khó chữa như chàm da, loét chân không
lành (nhất là ở người già), chảy máu, giãn lớn các tĩnh mạnh nông, viêm tĩnh mạch
nông huyết khối, huyết khối tĩnh mạch sâu...
Suy tĩnh mạch, theo lý thuyết có thể xảy ra ở bất kỳ tĩnh mạch nào trên cơ thể. Kế
cả ở tay, nhưng trên thực tế phần lớn các trường hợp mắc phải đều xảy ra ở chi
dưới tức chân do hệ thống tĩnh mạch chi dưới dài hơn, phức tạp và nhất là chịu ảnh
hưởng của trọng lực khi người bệnh phải đứng nhiều.
2. Dịch tễ.
Trên thế giới, bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới chiếm một tỉ lệ đáng kể trên số dân, trong
đó 70% là nữ (nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới do chịu ảnh hưởng của nội tiết)
II. Triệu chứng 
-Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng ban đầu của bệnh suy tĩnh mạch chi dưới cũng
thường mờ nhạt và thoáng qua, người bệnh thường có biểu hiện: đau chân, nặng
chân, mỏi chân, phù nhẹ khi đứng lâu ngồi nhiều, vọp bẻ, chuột rút vào buổi tối,
châm chích, dị cảm như kiến bò vùng cẳng chân về đêm. Những triệu chứng này
thường không rõ ràng nên người bệnh ít chú ý và dễ bỏ qua.
-Giai đoạn tiến triển bệnh sẽ gây phù chân, có thể phù ở mắt cá hay bàn chân, đôi
khi người bệnh chỉ có cảm giác mang giày dép chật hơn bình thường. Vùng cẳng
chân xuất hiện chàm da, thay đổi màu sắc da do máu ứ ở tĩnh mạch lâu ngày làm
rối loạn biến dưỡng. Các tĩnh mạch trương phồng lên gây cảm giác nặng, đau nhức
chân, máu thoát ra ngoài mạch gây phù chân, nặng hơn thì có thể thấy các búi tĩnh
mạch trương phồng nổi rõ trên da, các mảng bầm máu trên da.
-Gây loét da cẳng chân. Lúc đầu loét chân có thể tự lành, sau đó bệnh tiếp tục tiến
triển, các vết loét không tự lành mà có nguy cơ nhiễm trùng, điều trị rất phức tạp. 
-Ngoài các dấu hiệu trên, những tĩnh mạch nông dưới da ở cẳng chân và đùi giãn to
ngoằn ngoèo. Giai đoạn đầu chỉ thấy tĩnh mạch nổi li ti, nhất là ở cổ chân và bàn
chân. Lâu ngày, các tĩnh mạch này giãn to, có khi giãn hơn 10mm.
Các triệu chứng thường nặng lên khi về cuối ngày, đặc biệt là sau khi đứng lâu.
III. Nguyên nhân.
Nguyên nhân của bệnh suy giãn tĩnh mạch chân mạn tính chưa được xác định rõ
ràng. Tuy nhiên, đã xác định bệnh liên quan đến một số yếu tố nguy cơ suy giãn tĩnh
mạch chân gây ra do tổn thương chức năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch
ngoại biên. Các van này bị tổn thương là do:
-Quá trình thoái hóa do tuổi tác (thường gặp ở người già). Tuổi thọ con người ngày
càng cao sẽ kéo theo những bệnh của quá trình tích tuổi trong đó có suy tĩnh mạch...
-Do tư thế sinh hoạt hay làm việc phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, ít vận động, phải
mang vác nặng... tạo điều kiện cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực
trong các tĩnh mạch ở chân, lâu ngày sẽ gây tổn thương các van tĩnh mạch một
chiều. Khi các van này bị suy yếu sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy
ngược xuống dưới do tác dụng của trọng lực, dẫn đến ứ máu ở hai chân.
-Các yếu tố nguy cơ như: chế độ làm việc (phải đứng nhiều, làm việc trong môi
trường ẩm thấp), béo phì, chế độ ăn ít chất xơ và vitamin.
IV. Chẩn đoán
1. Triệu chứng cơ năng
- Tê chân, có cảm giác bồn chồn
- Đau tức 1 trong 2 chân
- Phù chân, nặng chân khi đi hoặc đứng nhiều
- Chân có thể căng, đôi khi đỏ, sờ thấy đau
- Khi mang giày, dép có cảm giác chật hơn bình thường
2.Triệu chứng thực thể:
- Chi dưới nổi các búi tĩnh mạch, trông như giun trên bắp chân & đùi
- Đám xuất huyết trên da.
- Sờ các tĩnh mạch, thấy tĩnh mạch sơ xơ cứng.
- Khám các cơ quan khác: Tim mạch, hô hấp, tiêu hóa,…
- Nghiệm pháp: Schwarz, ho,Trendelenburg và nghiệm pháp Perthe.
3. Cận lâm sàng
- Các xét nghiệm cơ bản để phục vụ cho việc điều trị
- Siêu âm Doppler mạch 2 chi dưới: Xác định được những rối loạn huyết động học, tình
trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng
mạch
V. Điều trị
1. Nội khoa
Sử dụng vớ áp lực (vớ đùi hoặc vớ chân): giúp khép van tĩnh mạch, ngoài ra gián
tiếp ép các bắp cơ
Dùng thuốc: Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch như daflon, rutin
C, veinamitol… nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh
mạch.
2.Phẫu thuật can thiệp
-Chích xơ các tĩnh mạch thường xuyên
-Sử dụng LASER và sóng cao tần để triệt mạch nhằm mục đích loại bỏ dòng máu
trào ngược trong tĩnh mạch hiển lớn, thường được thực hiện cho những bệnh nhân
giãn tĩnh mạch chân độ 2 trở lên theo phân độ CEAP.
-Phẫu thuật Stripping, phẫu thuật Chivas: Lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là
phương pháp Stripping bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch
như chúng ta làm lòng gà và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn
của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để có tỷ lệ tái phát thấp
nhất.
VI. Phòng ngừa
Tránh thừa cân béo phì: làm tăng áp lực lên tĩnh mạch khi đang đứng
Kê cao chân khi nằm hoặc ngủ: giúp cho dòng máu tĩnh mạch có thể dễ về tim hơn 
Hạn chế đi hoặc đứng quá lâu, nên tập đi bộ chậm, bơi lội
Không mặc quần áo quá chật hoặc bó sát
VII. Tài liệu tham khảo
Giãn tĩnh mạch chi dưới trong suy tĩnh mạch mạn tính (https://bacsinoitru.vn/…/gian-tinh-mach-chi-
duoi-chan-trong…)
Bài soạn tổng hợp của sinh viên Phạm Ngọc Thạch (https://www.slideshare.net/…/bnh-gin-tnh-mch-
di-da-chi-di-p…)
PGS.TS.BS Nguyễn Văn Trí, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh (https://baomoi.com/5-buoc-co-ban-
de-phong-ng…/c/28682038.epi)
Bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới - GS.TS. Nguyễn Trường Sơn
(http://moh.gov.vn/pcbenhnghenghiep/pages/tintuc.aspx…)

You might also like