You are on page 1of 112

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG

CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ


NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2009

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG

CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM


VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật quốc tế


Mã số : 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN HỒNG BẮC

Hà nội - 2009

2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hoàng Phƣơng

3
Danh mục các từ viết tắt
1) Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em: BVCSGDTE
2) Bảo vệ quyền trẻ em: BVQTE
3) Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em: IPEC
4) Lao động trẻ em: LĐTE
5) Người chưa thành niên: NCTN
6) Ngân hàng thế giới :WB
7) Quỹ Dân số của Liên hợp quốc: UNFPA
8) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc: UNICEF
9) Quyền trẻ em: QTE
10) Tổ chức Lao động quốc tế: ILO
11) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá: UNESCO
12) Thu nhập quốc dân tính trên đầu người trong một năm : GDP
13) Trách nhiệm hữu hạn : TNHH

4
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
5
Chƣơng 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ
CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1. Khái niệm trẻ em, LĐTE và pháp luật về trẻ em 5


1.1.1. Trẻ em 5
1.1.2. Lao động trẻ em 8
1.1.3. Pháp luật về trẻ em 10
1.2. Những vấn đề chung về LĐTE 12
1.2.1. Các hình thức của lao động trẻ em 12
1.2.2. Nguyên nhân của tình trạng LĐTE 16
1.2.3. Hậu quả của tình trạng trẻ em phải lao động sớm 19
1.3. Các công ƣớc quốc tế về lao động trẻ em 22

Vai trò và hoạt động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong việc xây 22
1.3.1.
dựng các công ước quốc tế về LĐTE
Sự cần thiết nghiên cứu các công ước của tổ chức lao động quốc tế về 24
1.3.2.
LĐTE
1.3.3. Các công ước quốc tế về LĐTE 26
40
Kết luận chƣơng 1
Chương 2 - THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ 41
ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THỰC THI CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ
LAO ĐỘNG TRẺ EM

2.1. Thực trạng lao động trẻ em 41

2.1.1. Tình hình lao động trẻ em một số nước trên thế giới 41
2.1.2. Thực trạng lao động trẻ em ở Việt Nam 45
2.2. Thực trạng chính sách, pháp luật về LĐTE 53
2.2.1. Thực trạng chính sách của Việt Nam về LĐTE 53

5
2.2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về LĐTE 57

Đánh giá thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE khi Việt Nam thực thi 73
2.3.
các công ƣớc quốc tế về LĐTE

2.3.1 Những kết quả đạt được 73


2.3.2. Những khó khăn, tồn tại 78
Kết luận chƣơng 2 82
83
Chƣơng 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ LĐTE TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn 83
3.1.
đề LĐTE
Một số giải pháp nhằm hạn chế và chấm dứt tình trạng trẻ em phải làm 88
3.2.
việc nặng nhọc trong môi trường độc hại, nguy hiểm ở Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về LĐTE 88

Đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật và tăng cường công tác thanh tra, 92
3.2.2. kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề
LĐTE
3.2.3. Giải pháp về chính sách xã hội 93

Cần xóa bỏ các hình thức lạm dụng LĐTE thông qua các giải pháp “phi 96
3.2.4.
luật pháp”
3.3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện giải pháp 97
3.3.1 Đối với các địa phƣơng có ngành nghề truyền thống 97
Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc về lao động, trẻ em cấp quận, 97
3.3.2
huyện; cấp tỉnh, thành phố
3.3.3. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố 98
3.3.4 Đối với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội 98
Kết luận chương 3 100

101
KẾT LUẬN CHUNG
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hoàng Phƣơng

7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo vệ và chăm sóc trẻ em là nội dung hoạt động cơ bản trong chiến lược
phát triển của mỗi quốc gia. Ở nước nào cũng vậy, trẻ em sinh ra và lớn lên trong
những điều kiện hoàn cảnh gia đình, cộng đồng đa dạng và không giống nhau. Mỗi
em một vẻ, mỗi em một hoàn cảnh và mỗi em mang theo mình một tâm sự buồn vui
khác nhau. Nhưng các em đều có chung một nhu cầu khẩn thiết, nhu cầu được sự
giúp đỡ, cưu mang của xã hội.

Tiến trình toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển không
ngừng của khoa học công nghệ đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội; đời sống vật chất - tinh thần của đông đảo các tầng lớp
xã hội không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu xã hội
không thể phủ nhận thì còn tồn tại một thực tiễn không mong muốn đó là tình trạng
trẻ em bị bóc lột, bị lao động cực nhọc trong các công trường, hầm mỏ; trẻ em vẫn
phải xả súng vào chính đồng loại của mình; trẻ em lang thang trên đường phố, bị sử
dụng vào các mục đích vô nhân đạo... Đó đang là những thách thức đối với nhân
loại tiến bộ trong công cuộc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, bảo vệ thế hệ tương lai của
nhân loại.

Trong xu hướng toàn cầu hóa, quyền con người nói chung và quyền của trẻ em
nói riêng không còn là vấn đề quan tâm của từng quốc gia đơn lẻ, mà nó đã và luôn
được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Trong Tuyên ngôn về quyền của trẻ em được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1959 đã ghi nhận “Loài người có trách
nhiệm trao cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất”; Công ước quốc tế về quyền chính
trị - dân sự năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) chỉ ra rằng: "Mọi trẻ em…
đều có quyền được hưởng sự bảo hộ của gia đình, xã hội và của nhà nước" (Điều
24); Công ước quốc tế về quyền kinh tế - xã hội và văn hoá năm 1966 (Việt Nam
gia nhập năm 1982) khẳng định: "Thanh thiếu niên cần được bảo vệ và không bị
bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc lột lao động trẻ em" (Điều 10). Năm 1989, với
sự nỗ lực của một số quốc gia, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (Việt Nam là

8
quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước) được thông qua. Công ước đã ghi nhận khá đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ
em, đồng thời xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành viên và chỉ rõ vai trò,
trách nhiệm của gia đình, của cộng đồng và của toàn xã hội trong việc đảm bảo thực
thi quyền của trẻ em.

Một xã hội văn minh, tiến bộ cần phải có chính sách và kế hoạch cụ thể, tập
hợp mọi nguồn lực, tìm mọi phương thức đa dạng để bảo vệ và chăm sóc trẻ em
một cách hiệu quả, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việt Nam là nước
nông nghiệp lạc hậu phải trải qua những năm tháng dài của chiến tranh nên đời sống
của nhân dân còn chưa cao, còn có nhiều hộ gia đình nghèo khổ, gia đình đơn thân,
gia đình li tán nên số trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ lao động sớm chiếm tỷ
lệ ngày càng cao. Vì vậy việc bảo vệ trẻ em đã trở thành công việc hết sức cần thiết
và từ lâu đã được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Cho đến nay,
Việt Nam đã có hệ thống chính sách, pháp luật về vấn đề bảo vệ trẻ em nhằm xã hội
hóa công tác này. Tuy nhiên, luật pháp về bảo vệ trẻ em nhất là những quy định
pháp luật về lĩnh vực lao động trẻ em (LĐTE) còn nhiều bất cập, việc thực thi pháp
luật còn yếu, việc tổ chức kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm vẫn chưa được tiến
hành một cách thường xuyên, nghiêm túc. Vì vậy, việc nghiên cứu chính sách pháp
luật về vấn đề bảo vệ trẻ em nói chung, lĩnh vực LĐTE nói riêng để điều chỉnh, sửa
đổi chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em ngày càng trở nên cần thiết.

LĐTE là một vấn đề rất phức tạp, do đó đây là vấn đề được quan tâm của các
quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, việc nghiên cứu chính sách bảo vệ trẻ em mới
được đặt ra nên chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề LĐTE mà
chỉ có ở một số đề tài khoa học nghiên cứu về quyền trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn… Vì thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác hoạch định chính
sách, xây dựng pháp luật về vấn đề LĐTE, tôi chọn đề tài “Các công ước quốc tế về
LĐTE và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” - một vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong chính sách bảo vệ trẻ em của nước ta để nghiên cứu với mong muốn góp phần

9
làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn chính sách bảo vệ trẻ em nói chung, chính sách
đối với LĐTE nói riêng làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học.

2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu:

Luận văn được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ:

- Những vấn đề lý luận cơ bản về trẻ em và LĐTE.

- Làm sáng tỏ nội dung cơ bản của các công ước quốc tế về LĐTE, đồng thời
phân tích những thuận lợi, khó khăn đối với Việt Nam khi thực thi các công ước
quốc tế này.

- Đánh giá thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE ở Việt Nam từ khi phê chuẩn
công ước quốc tế về LĐTE từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về LĐTE trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Phạm vi nghiên cứu:

Đây là một đề tài tương đối rộng nên không thể nghiên cứu được tất cả các
vấn đề liên quan đến LĐTE. Do vậy, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về hai công
ước quốc tế về LĐTE đó là: Công ước số 138 của tổ chức lao động quốc tế về tuổi
tối thiểu làm việc và Công ước số 182 của tổ chức lao động quốc tế về nghiêm cấm
và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất. Khi đánh giá thực
trạng LĐTE, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tình hình LĐTE từ năm 2000 đến
nay ở một số thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh … là
những địa phương thu hút nhiều LĐTE. Đồng thời, khi phân tích về LĐTE, luận
văn chỉ phân tích về LĐTE mà không đề cập đến vấn đề trẻ em tham gia làm việc.

3. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước đây, đã có một số công trình nghiên cứu của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em (nay là Cục Bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học về LĐTE như, công trình nghiên cứu của Thanh tra Bộ Lao động -

10
Thương binh và Xã hội về “Các hình thức LĐTE tồi tệ nhất”, công trình nghiên cứu
của tác giả Vũ Ngọc Bình về “Vấn đề LĐTE”, công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ
Thị Loan về “Thực trạng LĐTE trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, công trình
nghiên cứu của tác giả Trần Văn Thắng về “Quyền trẻ em” ... Tuy nhiên, đây chỉ là
những nghiên cứu mang tính chất chuyên đề, hoặc chỉ dừng lại ở phạm vi một địa
phương, hoặc nghiên cứu ở tầm vi mô, chưa nghiên cứu một cách có hệ thống toàn
bộ thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE, chưa đưa ra các giải pháp mang tính khả thi,
phù hợp nhằm ngăn chặn việc sử dụng LĐTE… Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về vấn đề LĐTE từ đó đề xuất những kiến nghị để bảo vệ
quyền trẻ em nói chung, quyền trẻ em tham gia lao động nói riêng là rất cần thiết.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh nhằm làm sáng tỏ
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về LĐTE, có
đối chiếu, so sánh với quy định của pháp luật Việt nam để tìm ra điểm tương đồng
và điềm khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật của một số quốc gia
trong lĩnh vực này.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:

Chƣơng 1 - Một số vấn đề chung về LĐTE và các công ước quốc tế về


LĐTE.
Chƣơng 2 - Thực trạng vấn đề LĐTE ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam khi tham gia các công ước quốc tế về LĐTE trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
Chƣơng 3 - Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về LĐTE trong
điều kiện hội nhập quốc tế.

11
Chƣơng 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ CÁC
CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

1.1. Khái niệm trẻ em, LĐTE và pháp luật về trẻ em

1.1.1. Trẻ em

Trong khoa học, trẻ em được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo
góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em được xem xét
trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội. Con người sáng tạo ra lịch
sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Trong mọi thời đại, tương lai của
một quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.

Trong xã hội học, xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với
người lớn. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ em được xã hội quan tâm tạo điều kiện sinh
thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển thành người lớn. Trẻ em là người
chưa đạt tới sự trưởng thành về thể chất cũng như về tinh thần để được coi là người
lớn.

Trong tâm lý học, khái niệm "Trẻ em" được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự
phát triển tâm lý - nhân cách con người. Các nhà tâm lý học rất quan tâm nghiên
cứu sự phát triển tâm lý của trẻ em trong độ tuổi từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì.

Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo “độ
tuổi”. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ
thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Độ tuổi trẻ em được xác
định tùy theo mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa - xã hội cụ thể. Các tổ chức của Liên
hợp quốc, như Quỹ dân số (UNFPA), tổ chức lao động quốc tế (ILO), tổ chức giáo
dục, khoa học và văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Điều 1,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 xác định “ Trong phạm vi của Công
ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều 2 Công ước số 182 của Tổ
chức lao động quốc tế ban hành năm 1999 (Việt Nam gia nhập ngày 19/12/2000)

12
cũng quy định “Trong Công ước này, thuật ngữ „trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả
những người dưới 18 tuổi”.

Trong khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa nào về
trẻ em cũng như về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em mà chỉ có một số ngành
luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên (NCTN) và các quy định
này không thống nhất giữa tất cả các ngành luật. Theo quy định tại Điều l, Luật Bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004): “Trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Còn Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác
định tuổi nuôi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (Điều 34). Trong khi đó, Bộ luật
hình sự năm 1999 lại quy định người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi. Và Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002,
2006, 2007) lại quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi (Điều 119) còn khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (Điều
120). Bên cạnh đó, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2008 lại quy định
tuổi chịu trách nhiệm hành chính “là người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính”. Từ đó, có thể hiểu khái niệm trẻ em bao gồm cả NCTN hay
cũng có thể hiểu rằng NCTN cũng bao gồm cả trẻ em và đều 1à những người ở độ
tuổi dưới thành niên (dưới 18 tuổi).

Như vậy, trẻ em trước hết là một con người được hưởng mọi quyền và mọi
tự do đã được nêu ra trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà không bị
bất cứ một sự phân biệt đối xử nào vì chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng
dõi hoặc mối tương quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có
quyền được chăm sóc sự sống, tồn tại, phát triển, được bảo vệ và được bày tỏ ý
kiến.

1.1.2. Lao động trẻ em

Theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khi tỡm hiểu khỏi niệm
lao động trẻ em ngoài việc xem xột ở góc độ độ tuổi, còn phải được tiếp cận từ góc
độ tính chất công việc mà chủ thể phải làm:

13
- Về độ tuổi: trẻ em là nguời dưới 18 tuổi;

- Về tính chất công việc, lao động trẻ em bao gồm những công việc có ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện của trẻ em.

Với cách lập luận như trên, ILO cho rằng “Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ
tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá
nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập
và vui chơi”, [33, 40].

Ở nước ta, tính đến thời điểm này chưa có khái niệm thống nhất về LĐTE. Bộ luật
lao động của Việt Nam quy định người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên và
lao động dưới 18 tuổi là lao động chưa thành niên mà không chỉ rõ như thế nào là
LĐTE. Hơn nữa khái niệm người chưa thành niên được sử dụng khá nhiều trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như: Bộ luật Dân sự (Điều 20), Bộ luật
Hình sự (Điều 68) đều quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Điều
6, Bộ luật Lao động quy định “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả
năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động”. Điều 119, Bộ luật Lao động quy
định “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Điều 120,
Bộ luật Lao động quy định “Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một
số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định”.

Như vậy, nếu căn cứ vào các quy định của Bộ luật lao động và Luật Bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em thì có thể hiểu rằng, lao động trẻ em là những người dưới
16 tuổi phải tham gia hoạt động để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần nhằm
thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của mình.

Theo đó, khái niệm lao động trẻ em ở Việt Nam là thuật ngữ chỉ tình trạng
trẻ em (những người dưới 16 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những
công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về
thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều

14
hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui
chơi.

Trong phạm vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm lao động trẻ em với nội
hàm và ngoại diên nêu trên.

Khi nghiờn cứu về LĐTE cần phõn biệt giữa LĐTE với trẻ em tham gia làm
việc. Đây là khái niệm đề cập đến những trẻ em làm các công việc có thể chấp nhận
được, bao gồm các hoạt động không làm hại tới và có thể góp phần vào sự phát
triển lành mạnh của trẻ, những công việc này mở ra những cơ hội trong cuộc sống
và tạo cho trẻ những kinh nghiệm mới mẻ.

Thực tế cho thấy, hoạt động lao động (không mang tính bóc lột) đóng vai trò
quan trọng đối với chính sự phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách của trẻ. Giáo
dục học, tâm lý học và các khoa học có liên quan đều chỉ ra rằng lao động được tổ
chức một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi là con đường, là cơ chế
và là nhân tố phát triển thể chất, năng lực tư duy và đời sống tình cảm của trẻ em.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã từng nhắn nhủ “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của
mình”.

Trẻ em tham gia làm việc có sự khác biệt so với lao động trẻ em như sau:

Trẻ em tham gia làm việc (child work) Lao động trẻ em (child labour)

Công việc phù hợp với độ tuổi, khả năng, Công việc quá sức, quá nặng nhọc đối với tuổi
thể chất và trí tuệ của trẻ em. và khả năng của trẻ.

Được người lớn chăm sóc và chịu trách Trẻ em lao động dưới sự giám sát của những
nhiệm giám sát. người lớn lạm dụng.

Thời gian làm việc hạn chế, không cản trở Làm việc nhiều giờ, trẻ em bị hạn chế hoặc
trẻ em đến trường, vui chơi và nghỉ ngơi. không có thời gian đi học, vui chơi và nghỉ
ngơi.

Nơi làm việc an toàn và có môi trường bạn Nơi làm việc độc hại đến sức khoẻ và cuộc
bè thân thiết, không độc hại tới sức khoẻ va sống của trẻ em.

15
cuộc sống của trẻ em.

Môi trường làm việc góp phần nuôi dưỡng Trẻ em dễ bị lạm dụng về tinh thần, thể chất và
và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và tình dục.
tinh thần của trẻ em.

Trẻ em làm việc tự nguyện để tham gia Hoàn cảnh bắt buộc.
trách nhiệm trong việc duy trì công việc và
phát triển sản xuất của gia đình, tăng thu
nhập gia đình.

Trẻ em được bù đắp về tinh thần và thể Trẻ em bị hạn chế hoặc không được khuyến
chất. khích về tinh thần và vật chất.

Công việc của trẻ là một phương tiện rèn Công việc của trẻ có ảnh hưởng nghiêm trọng
luyện sức khoẻ, phẩm chất đạo đức cho trẻ. tới sức khoẻ và sự phát triển của trẻ.

Như vậy, so với trẻ em tham gia làm việc và LĐTE thì một trong những
điểm khác biệt nhất của hai hình thức lao động này là LĐTE phải làm những công
việc nặng nhọc, điều kiện độc hại, nguy hiểm.

Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông thì “nặng nhọc là vất vả, phải bỏ nhiều
công sức”, “độc hại là dễ gây hại cho sức khỏe và tinh thần”; “nguy hiểm là có thể
gây tai nạn lớn, khó lòng vượt qua hay khắc phục hậu quả” [35].

Từ đó, có thể hiểu:

Lao động nặng nhọc: Là việc người lao động phải thực hiện các công việc
vất vả, phải bỏ nhiều công sức.

Lao động trong điều kiện nguy hiểm: Là việc người lao động phải thực hiện
những công việc dễ gây ra tai nạn, bệnh nghề nghiệp cho bản thân hoặc cho những
người xung quanh.

16
Lao động trong điều kiện độc hại: Là việc người lao động phải tiếp xúc với
các chất, yếu tố dễ gây hại cho sức khỏe hoặc tinh thần trong quá trình thực hiện
công việc của mình.

Tại Chương IX, An toàn lao động, vệ sinh lao động (Điều 100, 101, 104) và
tại các Điều 113, 121, 127 của Bộ luật Lao động có đề cập đến công việc nặng
nhọc, điều kiện độc hại, nguy hiểm. Tuy nhiên, trong Bộ luật Lao động cũng như
trong các văn bản hướng dẫn thi hành do Chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn thi hành chưa đưa ra khái niệm như thế nào là công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm mà chỉ có các quy định mang tính chất liệt kê các công
việc được coi là nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm: Quyết định số 1453/LĐTBXH-QĐ
ngày 13/10/1995 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban
hành tạm thời danh mục nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Quyết định số 915/LĐTBXH-QĐ ngày 30/7/1996,
Quyết định số 1629/LĐTBXH-QĐ ngày 26/12/1996 , Quyết định số 190/1999/QĐ-
BLĐTBXH ngày 03/3/1999, Quyết định số 1580/2000/QĐ-BLĐTBXH ngày
26/12/2000, Quyết định số 1152/2003/QĐ-BLĐTBXH ngày 18/9/2003 của Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành tạm thời danh mục
nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm.

1.1.3. Pháp luật về trẻ em

Những quy định của pháp luật về trẻ em được ghi nhận trong pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật chưa có khái
niệm thống nhất về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em. Xét về một cách phổ
quát nhất, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp
luật nói chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em.

Sự điều chỉnh pháp luật xác định địa vị pháp lý của trẻ em. Địa vị pháp lý
này được hiểu là tổng thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của trẻ em cùng với
những đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này.

17
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, có đối tượng điều
chỉnh là các nhóm quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trẻ em với tính
cách là một chủ thể pháp luật, các quan hệ xã hội về trẻ em cũng là một trong những
đối tượng điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta.

Pháp luật về trẻ em có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm
quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ thống
pháp luật Việt Nam: Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật Hình
sự, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình... đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng của ngành luật mình. Bất cứ
một ngành luật nào cũng coi trẻ em là một chủ thể đặc biệt và có những quy định
riêng điều chỉnh về LĐTE. Điều này xuất phát trước tiên từ những đặc điểm riêng
về độ tuổi cũng như sự phát triển chưa đầy đủ về tâm sinh lý. Sau nữa, xuất phát từ
những quan niệm, tư tưởng nhân đạo, dân chủ, thấm nhuần nét tinh hoa của văn
hóa, đạo lý truyền thống của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tất cả các quy định
pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, đảm bảo cho
trẻ em phát triển bình thường trong sự đầy đủ về tình cảm và vật chất, trong một
môi trường trong sạch, lành mạnh.

Trên bình diện quốc tế, quyền trẻ em được quy định trong các điều ước quốc
tế, đặc biệt là trong các công ước quốc tế về LĐTE. Công ước quốc tế là “văn bản
pháp lý quốc tế, do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây
dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với
nhau, thông qua các quy phạm gọi là quy phạm điều ước” [32, 27].

Theo đó, có thể hiểu, công ước quốc tế về LĐTE là văn bản pháp lý quốc tế,
do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên, nhằm
thỏa thuận về việc thực hiện các chính sách đối với vấn đề LĐTE, đảm bảo các
quyền của trẻ em tại nơi làm việc và các chuẩn mực có liên quan.

Các công ước quốc tế quy định về lĩnh vực LĐTE, ngoài công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em, văn bản quan trọng khác trực tiếp điều chỉnh quan hệ
LĐTE là các Công ước của Tổ chức lao động quốc tế như: Công ước số 138 về

18
Tuổi tối thiểu làm công và Công ước số 182 về Cấm và hành động ngay lập tức để
hạn chế và xóa bỏ hình thức LĐTE tồi tệ nhất.

1.2. Những vấn đề chung về LĐTE

1.2.1. Các hình thức của LĐTE

Trong thực tế, có thể chia LĐTE thành bảy hình thức chính, không hình thức
nào trong số đó là duy nhất cho bất cứ khu vực nào trên thế giới. Đó là việc đi ở, lao
động cưỡng bức và lao động cầm cố, bóc lột tình dục vì mục đích thương mại, lao
động trong công nghiệp đồn điền, lao động trên đường phố, làm việc nhà, và công
việc của trẻ em gái.

* Việc đi ở

Trẻ đi ở là những trẻ em dễ bị lãng quên nhất thế giới. Cảnh ngộ khốn khó
của các em đáng được xem xét trước tiên so với các nhóm trẻ em lao động khác. Trẻ
em đi ở có thể là những trẻ em dễ bị tổn thương nhất và dễ bị bóc lột nhiều nhất,
cũng khó bảo vệ nhất. Các em thường được trả công rất thấp hay hoàn toàn không
được trả công; thời hạn đi ở và điều kiện làm việc hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn
của chủ sử dụng lao động; các quyền hợp pháp của các em không hề được quan
tâm; các em bị tước bỏ sự học hành, vui chơi và hoạt động xã hội, sự hỗ trợ về mặt
tình cảm của gia đình và bạn bè; đặc biệt, các em dễ dàng bị lạm dụng về thể chất
và tình dục khi còn quá nhỏ.

Trẻ em đi ở có thể phải chịu đựng tổn hại nặng nề về mặt phát triển thể chất
và xã hội. Các em thường bị tách khỏi xã hội, bị cấm nghỉ ngơi và vui chơi. Tuổi
thơ của những trẻ em này đã bị tước đoạt, không được như trẻ em khác.

* Lao động cưỡng bức và lao động cầm cố

Nhiều hình thức LĐTE trên thế giới là “cưỡng bức” theo nghĩa trẻ em được
dạy phải chấp nhận những hoàn cảnh của cuộc sống mà không được chống lại.
Nhưng tình trạng của một số trẻ em vượt quá xa việc chấp nhận các hoàn cảnh khốn
khó, chúng rơi vào tình trạng nô lệ thực sự. Ở Nam Á, “cầm cố” LĐTE gần như là

19
quen thuộc. Ở đây trẻ em thường chỉ tám hay chín tuổi, bị cha mẹ cầm cố cho chủ
nhà máy hay các đại lý của họ thay cho những món nợ rất nhỏ.

Dạng nô lệ trẻ em thực tế này thường chỉ gắn liền với Ấn Độ, Nêpan và
Pakistan. Nhưng nó cũng tồn tại ở cả những nơi khác trên thế giới. Để xóa bỏ
LĐTE cưỡng bức, xóa bỏ tình trạng những người trục lợi một cách vô đạo đức từ
thực tế này, các Chính phủ cần tăng những nỗ lực trong các biện pháp hành chính
của mình.

* Bóc lột tình dục vì mục đích thương mại

Có nhiều mối liên hệ trực tiếp giữa việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích
thương mại và các hình thức lao động mang tính bóc lột khác. Những người cho
vay nặng lãi ở nông thôn thường hoạt động như những kẻ dắt trẻ em gái cho các nhà
thổ ở thành thị, khi các gia đình vay tiền để cho con gái họ phải làm việc để trả nợ.
Dù xảy ra như thế nào, hầu như tất cả những trẻ em như vậy đều bị những người
mình tin cậy phản bội và kết cục có thể bị bán đi xa và qua biên giới. Việc cứu trợ
và hồi phục tỏ ra phức tạp cho trẻ em. Các em thường bị buộc tội bởi chính hệ
thống pháp luật đáng lẽ phải bảo vệ mình. Ngay cả khi được trả về nhà, thường là ở
dạng bị trục xuất như những kẻ nhập cư bất hợp pháp, các em có thể gặp phải sự
lảng tránh và chối bỏ của gia đình và cộng đồng và thường ít có khả năng chọn lựa
ngoài việc trở lại nhà chứa hay ra đường phố.

* Công việc trong công nghiệp và đồn điền

Ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có tình trạng trẻ em phải lao động trong
điều kiện nguy hiểm. Các ngành công nghiệp có trẻ em tham gia lao động rất đa
dạng, từ ngành công nghiệp chế biến da ở khu vực Naples của Ý đến ngành công
nghiệp sản xuất gạch ở Côlômbia và Pêru, ở đó người ta có thể thâu nạp cả trẻ em
chỉ mới 8 tuổi.

Đôi khi trẻ em được thuê mướn trong những công việc khai thác mỏ có thể
được coi như nguy hiểm cho người lớn ở thế giới công nghiệp - ví dụ trong các mỏ
khai thác kim cương và vàng ở Bờ biển Ngà và Nam Phi, và trong các mỏ than ở

20
Côlômbia. Ở đó trẻ em phải làm việc với trang thiết bị an toàn ở mức tối thiểu nhất
và thường xuyên phải hít thở bụi than.

Số lượng trẻ em bị bóc lột trong các đồn điền nông nghiệp trên toàn thế giới
có thể tương đương với số trẻ tham gia vào ngành công nghiệp - và những mối nguy
hiểm liên quan với công việc của chúng cũng không kém phần khủng khiếp.

* Công việc trên đường phố

Tương phản với trẻ em đi ở, một số trẻ em làm việc ở những chỗ có thể dễ
thấy nhất trên đường phố của các nước đang phát triển. Trẻ em có mặt ở khắp mọi
nơi: chào hàng trong chợ, đi qua đi lại trong làn giao thông dày đặc, rao hàng trên
xe bus và trong nhà ga, trước cửa khách sạn và các trung tâm thương mại. Các em
có mặt trên đường phố với hàng triệu người lớn, nhiều người coi chúng là những kẻ
quấy rầy nếu không phải là kẻ phạm tội hình sự nguy hiểm có tầm vóc nhỏ bé.

Nhưng cũng nhiều trẻ em phải vật lộn với những công việc hợp pháp trên
đường phố vì sự sống của bản thân và của gia đình. Trẻ em làm việc trên đường phố
thường xuất thân từ các khu dân cư ổ chuột và những ngôi nhà chiếm dụng, nơi sự
nghèo nàn và hoàn cảnh gia đình không ổn định, nơi trường học quá chật chội và
thiếu thốn, và nơi không hề tồn tại những chỗ chơi an toàn.

Một điều không tránh khỏi là những trẻ em này trở nên có xu hướng thiên về
tham gia vào các công việc phi pháp như ăn cắp vặt. Nhiều em bị lôi kéo vào thế
giới bất chính và nguy hiểm của các băng đảng tội phạm bảo kê cho việc móc túi,
ăn trộm, buôn lậu, ma tuý và mại dâm.

* Làm việc tại nhà

Trong số tất cả những công việc mà trẻ em làm, phổ biến nhất là lao động
nông nghiệp hay làm việc nhà trong khuôn khổ của bản thân gia đình của trẻ. Đa số
gia đình ở mọi nơi trên thế giới hy vọng con cái họ làm giúp việc nhà, hoặc là nấu
ăn, lấy nước hay đi mua bán lặt vặt, chăm gia súc, chăm sóc em nhỏ hay làm những
việc nặng hơn ngoài đồng. Hình thức công việc này có thể mang lại lợi ích cho trẻ
em. Trẻ em học tập được từ mức độ tham gia hợp lý vào việc nhà, vào các hoạt

21
động phát triển lương thực cho sinh kế và tạo thu nhập. Chúng có thể cảm nhận
được giá trị của mình qua những việc làm trong khuôn khổ gia đình.

Nhưng không phải việc này luôn mang lại lợi ích. Ngược lại, việc nhà có thể
đòi hỏi ở trẻ em quá nhiều, buộc các em phải làm việc quá nhiều giờ làm cho chúng
không đi học được và có thể phải trả giá quá lớn cho sự phát triển của cơ thể.
Những công việc như vậy có thể ngăn cản không cho trẻ em thực hiện các quyền
của mình và phát triển đến mức tối đa.

* Công việc của trẻ em gái

Đa số những nguy hiểm mà trẻ em lao động gặp phải thì trẻ em gái cũng gặp
phải. Tuy nhiên trẻ em gái còn gặp phải những vấn đề của riêng chúng nữa: từ áp
lực tình dục của các ông chủ đến việc không được đi học. Khoảng cách về giới tính
trở thành một cái vòng luẩn quẩn cho các cô gái ở mọi nơi trong thế giới đang phát
triển. Không có khả năng đi học vì địa vị xã hội thấp hay vì trách nhiệm đối với gia
đình, không có được sức mạnh bổ sung và những chân trời rộng lớn hơn mà giáo
dục có thể mang lại. Nếu họ đi tìm việc làm ở ngoài nhà, cơ hội của họ bị hạn chế
vào những công việc đơn giản nhất. Địa vị thấp kém của họ được củng cố và
chuyển tiếp cho thế hệ tiếp theo. Điều này thấy được rõ ràng là các cô gái càng
được học lên cao, họ càng có ít con. Gia đình nghèo càng có nhiều con, sẽ càng có
nhiều trẻ em lao động.

1.2.2. Nguyên nhân của tình trạng LĐTE

Vấn đề LĐTE hiện nay đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến,
thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức và cá nhân các nhà khoa học. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu nhằm ngăn chặn tiến tới xoá bỏ hiện tượng tiêu cực này.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra hiện tượng LĐTE thường phát sinh từ những
yếu tố chủ yếu sau:

 Thứ nhất, xuất phát từ các yếu tố về kinh tế

* Yếu tố kinh tế gắn với các gia đình của trẻ em

22
Trẻ em phải lao động sớm là một hiện thực phổ biến nếu gia đình rơi vào
hoàn cảnh đói nghèo. Vì hoàn cảnh đói nghèo buộc các gia đình phải ưu tiên cho
việc kiếm sống, dẫn tới mọi thành viên trong gia đình, gồm cả trẻ em, đều bị huy
động phải làm việc, phải lao động.

* Yếu tố kinh tế gắn với lợi ích của người sử dụng lao động

Xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, ở một số quốc gia trên thế giới, người sử
dụng lao động đã triệt để tận dụng những lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp từ
việc sử dụng LĐTE. Lợi ích kinh tế trực tiếp thể hiện ở việc họ có thể trả cho trẻ em
những khoản tiền công rẻ mạt, mặc dù công việc các em phải làm có thể ngang
bằng với công việc của người lớn. Mặt khác, thông thường, LĐTE dễ "điều khiển"
hơn lao động đã thành niên, nên việc bắt các em phải làm thêm giờ mà không trả
thêm tiền công cũng thường được các “chủ doanh nghiệp” này áp dụng. Lợi ích
kinh tế gián tiếp thể hiện ở việc trẻ em thường không nhận biết và hiểu rõ các quyền
và lợi ích của mình nên các chủ sử dụng LĐTE thường không phải lo đối phó với
những yêu cầu đòi tăng lương hoặc cải thiện điều kiện làm việc.

* Yếu tố kinh tế xã hội

Tình trạng kém phát triển về kinh tế xã hội của một quốc gia thường đi liền
với đói nghèo, dẫn đến số đông người dân trong quốc gia đó có mức sống thấp kém,
trong khi các chính sách an sinh xã hội của quốc gia không đủ khả năng đáp ứng
nhằm cải thiện đời sống của người dân, và hệ quả tất yếu là LĐTE phát sinh. Theo
một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), ở các quốc gia có thu nhập quốc dân
tính trên đầu người trong một năm (GDP) dưới 500 USD thì tỷ lệ LĐTE chiếm từ
30 đến 60% tổng số trẻ em trong xã hội; ở các quốc gia có GDP từ 501 đến 1.000
USD thì tỷ lệ đó là từ 10 đến 30% [33, 8]. Mặt khác, sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở
một số quốc gia thường dẫn đến việc giảm mức trợ cấp của nhà nước với các dịch
vụ xã hội, từ đó buộc trẻ em phải tham gia các hoạt động kinh tế để đáp ứng các nhu
cầu của bản thân và của gia đình, dẫn đến tỷ lệ LĐTE gia tăng.

23
 Thứ hai, là các yếu tố về xã hội - văn hoá

* Quan niệm lạc hậu về vấn đề LĐTE

Từ trước đến nay, đã và đang tồn tại quan niệm cho rằng, trẻ em cần phải
tham gia làm việc để phát triển về mọi mặt, hoặc để kế tục nghề gia truyền. Vì vậy,
nhiều gia đình hoặc khuyến khích hoặc bắt buộc trẻ em phải tham gia lao động,
thậm chí phải làm cả những công việc nặng nhọc, độc hại mà do nhận thức hạn chế,
họ không biết được điều đó.

* Định kiến giới

Ở một số quốc gia, dân tộc còn tư tưởng phân biệt đối xử về giới như trọng
nam, khinh nữ; đề cao địa vị của người đàn ông, dẫn đến hàng triệu trẻ em gái trên
thế giới phải tham gia lao động từ sớm, với gánh nặng công việc khiến các em
không còn thời gian học tập, vui chơi, giải trí. Ở một số quốc gia, tình trạng thất học
và gánh nặng kinh tế trong gia đình đã khiến các trẻ em gái làm các công việc nặng
nhọc, độc hại với mức tiền lương rẻ mạt trong các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng;
hoặc tồi tệ hơn, bị buộc phải tham gia "nền công nghiệp tình dục".

* Yếu tố việc làm

Yếu tố xã hội này gắn liền với yếu tố kinh tế và tác động đến vấn đề LĐTE.
Một là: tình trạng thiếu việc làm dẫn đến nạn thất nghiệp, khi người cha, người mẹ
hoặc những thành viên lớn tuổi trong gia đình bị thất nghiệp thì lẽ tất nhiên là
nguồn thu nhập trong gia đình bị giảm sút, thậm chí mất hẳn, từ đó buộc trẻ em phải
tham gia vào các hoạt động kinh tế để tự kiếm sống, hoặc nhiều trẻ em còn phải
gánh trách nhiệm trụ cột về kinh tế thay cho bố mẹ mình. Hai là: khi một nền kinh
tế phát triển quá "nóng" (thừa việc làm), có thể dẫn tới tình trạng thiếu lao động đã
thành niên, dẫn đến người sử dụng lao động tuyển mộ cả LĐTE, hoặc khi thiếu lao
động, buộc ngươì sử dụng lao động phải trả tiền lương ở mức cao (điều này họ
không mong muốn) cho những lao động đã thành niên để giữ, thu hút lao động, dẫn
đễn ngươì sử dụng lao động tìm cách thuê/nhập lậu nhân công nước ngoài hoặc thuê
mướn LĐTE để giảm mức chi trả tiền lương hoặc các chi phí khác kèm theo.

24
* Sự yếu kém của nền giáo dục

Một nền giáo dục yếu kém tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề
LĐTE. Khi chi phí cho học tập trở thành gánh nặng cho gia đình thì trẻ em có thể bị
buộc phải bỏ học để tham gia các hoạt động kinh tế, hoặc phải kết hợp giữa việc
học tập với các hoạt động kinh tế. Tình trạng bi đát về cơ sở vật chất của ngành giáo
dục (trường lớp thiếu, dột nát hoặc quá xa khu dân sinh ...) cũng là một nguyên
nhân dẫn đến việc trẻ em thất học hay bỏ học sớm để làm việc. Theo nhiều nghiên
cứu, việc trẻ em thất học hay bỏ học sớm vì bất kỳ lý do nào cũng thường dẫn tới
tình trạng các em phải tham gia lao động sớm.

* Tác động của hệ thống an sinh xã hội

Ở các quốc gia có hệ thống bảo trợ xã hội rộng khắp và hiệu quả là cơ sở góp
phần ổn định cuộc sống cho nhiều gia đình, từ đó bảo đảm cho con cái họ được học
tập, không phải tham gia các hoạt động kinh tế quá sớm. Ngược lại, ở các quốc gia
có hệ thống bảo trợ xã hội kém hiệu quả thì khi các gia đình gặp khó khăn về kinh
tế sẽ buộc họ phải để con cái lao động sớm, tự kiếm sống hoặc giúp đỡ gia đình.
Tương tự, việc có một chế độ cứu trợ xã hội tốt sẽ giúp nhiều gia đình khắc phục
những tai hoạ, rủi ro đột xuất mà họ gặp phải, từ đó hạn chế việc trẻ em trong các
gia đình đó phải bỏ học để tham gia những hoạt động kinh tế, điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong trường hợp xảy ra chiến tranh, thiên tai, bệnh dịch …

 Thứ ba, là các yếu tố chính trị - pháp lý

Việc không có hoặc cơ chế chính sách liên quan đến vấn đề LĐTE không
hoàn chỉnh, không phù hợp sẽ ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ tới tình trạng LĐTE.
Ví dụ, ở một số quốc gia, do chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao
động trong khu vực không chính thức thì hậu quả của nó là dẫn tới tình trạng LĐTE
ở khu vực này trở thành một vấn đề xã hội bức xúc, bởi các cơ quan chấp pháp chưa
có biện pháp can thiệp. Mặt khác, tuy đã có một hệ thống chính sách pháp luật đầy
đủ, phù hợp nhưng lại không được tổ chức thực hiện hay tổ chức thực hiện kém
hiệu quả thì tình trạng LĐTE gia tăng vẫn có thể xảy ra.

25
Hậu quả của tình trạng trẻ em phải lao động sớm

Qua phân tích có thể thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng LĐTE, và
tình trạng trẻ em lao động sớm sẽ dẫn đến những hậu quả sau:

 Một là, mối nguy hại các em phải gánh chịu

* Bệnh tật và sự kém phát triển về thể chất

Những mối nguy hại đe doạ trẻ em thay đổi tuỳ thuộc vào loại hình lao động
môi trường lao động và điều kiện lao động. Tuy nhiên cũng có thể kể ra một số
nguy hại chung đe doạ phần lớn trẻ em như điều kiện vệ sinh kém, không có
phương tiện bảo hộ lao động hoặc có nhưng không đạt yêu cầu, không gian và thiết
bị lao động không phù hợp, máy móc và công cụ lao động cũ kỹ và hỏng hóc,
những căng thẳng, áp lực về thể lực về tinh thần đối với các em.

Trẻ em làm việc trong những nghề nguy hiểm phải tiếp xúc với các loại hoá
chất độc hại, bụi, khói và khí độc, các tác nhân lý học và sinh học độc hại, các
ngưỡng giới hạn được phép tiếp xúc không được tuân thủ. Một tỷ lệ rất lớn trẻ em
bị tổn thương do lao động. Những chấn thương nghề nghiệp thường gặp là bị tai nạn
lao động, bị nhiễm trùng mắt, viêm da, rối loạn hệ hô hấp, cảm nhiệt, ngộ độc do sử
dụng hoá chất và thuốc trừ sâu…

Do phải làm những công việc nặng nhọc, quá sức dẫn đến các em dễ bị lao
lực, suy dinh dưỡng, chứng thiếu chất, thể lực phát triển không bình thường.

Mặc dù là những nạn nhân của những tai nạn lao động, suy dinh dưỡng, bệnh
tật liên quan đến lao động nhưng trong phần lớn các trường hợp, những trẻ em này
không được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ một cách tương xứng.

Những yếu tố nêu trên ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ, đến sự phát triển
về thể chất của các em.

* Khủng hoảng về tinh thần, lệch lạc về nhân cách, kém phát triển về
trí tuệ

26
Một điều không thể phủ nhận là khi trẻ em tham gia lao động sớm thì các em
sẽ không còn thời gian dành cho học tập, vui chơi, giải trí; ít có cơ hội tiếp cận với
các dịch vụ xã hội tiên tiến để tiếp thu, nâng cao kỹ năng sống.

Bên cạnh việc phải tham gia lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thường
xuyên các em phải đối mặt với sự đối xử bất công, bị phân biệt đối xử, bị xúc phạm
về thể chất, tinh thần và nhiều trường hợp các em bị lạm dụng về tình dục, thậm chí
nhiều em còn là nạn nhân của ngành “công nghiệp tình dục” như đã nêu ở trên,
trong khi các em còn non nớt về trí tuệ, hạn chế về kinh nghiệm sống, hạn chế về
khả năng chống chọi thì những yếu tố nêu trên tác động dễ làm cho các em sa ngã,
lao vào những tệ nạn xã hội, hoặc bị khủng hoảng về tinh thần, tha hoá về đạo đức,
lối sống.

Như vậy, LĐTE, ngoài hậu quả ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển về
thể chất, còn ảnh hưởng trầm trọng đến sự phát triển về tinh thần, trí tuệ và nhân
cách của các em.

 Hai là, hậu quả đối với gia đình và xã hội

LĐTE không chỉ tác động tiêu cực đến bản thân các em như đã nêu ở trên mà
còn gây ra những hậu quả bất lợi cả cho trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển
của mỗi gia đình và toàn xã hội.

Nếu tình trạng này diễn ra phổ biến thì không chỉ là một sự thiệt thòi lớn với
bản thân và gia đình các em mà còn là một nguy cơ đối với sự phát triển kinh tế, xã
hội của mỗi quốc gia và của cả cộng đồng. Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo rằng,
một quốc gia không ngăn chặn và xoá bỏ được tình trạng LĐTE sẽ không thể có
được một lực lượng lao động khoẻ mạnh và lành nghề để có được một nền kinh tế
có lợi thế cạnh tranh.

Đối với cộng đồng quốc tế, nếu không ngăn chặn và xoá bỏ được tình trạng
LĐTE thì cũng sẽ lâm vào khủng hoảng thị trường lao động chất lượng cao, khi ấy
chỉ còn những nhân lực lao động chân tay, lao động phổ thông, trong khi xu thế

27
phát triển của kinh tế thế giới đòi hỏi lực lượng lao động có hàm lượng công nghệ
cao, đây là đang là một nghịch lý cần sớm được giải quyết.

Một vấn đề mà các doanh nghiệp (giới chủ) cũng cần phải quan tâm, đó là:
trong “Những tiêu chuẩn lao động cơ bản” (Core labor standards, viết tắt là CLS)
hiện hành do ILO ban hành đã được toàn thế giới công nhận và có hiệu lực bắt buộc
đối với các quốc gia thành viên thì một trong bốn tiêu chuẩn đó là “Xóa bỏ LĐTE
và đặt ưu tiên hàng đầu là loại trừ những hình thức lao động tồi tệ nhất”, vì vậy việc
các “doanh nghiệp” có sử dụng LĐTE vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu là hành
động mà cộng đồng thế giới không thể chấp nhận. Những sản phẩm, hàng hoá của
các “doanh nghiệp” này sẽ bị thị trường thế giới tẩy chay, và vì thế, nguy cơ dẫn
đến sự phá sản của “doanh nghiệp”, của cả một ngành công nghiệp…là không thể
tránh khỏi (thực tế này đã diễn ra với ngành công nghiệp dệt may của Băng-la-đét,
nghề khâu bóng đá xuất khẩu của Pa-ki-xtan…)

Một vấn đề mà không thể không tính đến đó là: do các em bị khủng hoảng về
tinh thần, lệch lạc về nhân cách như đã nêu trên đây, có thể làm cho các em lao vào
các tệ nạn xã hội, nảy sinh tư tưởng chống đối xã hội và từ đó dẫn đến con đường
phạm tội là không bao xa. Đây quả là là một thách thức, một gánh nặng cho xã hội.

1.3. Các công ƣớc quốc tế về LĐTE

1.3.1. Vai trò và hoạt động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong việc
xây dựng các công ƣớc quốc tế về LĐTE

Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) được thành lập năm 1919. Lúc mới thành
lập, ILO là tổ chức tự trị liên kết với Hội Quốc Liên. Năm 1946, ILO ký Hiệp định
quy định mối quan hệ với Liên hợp quốc và trở thành tổ chức chuyên môn đầu tiên
của Liên hợp quốc. Năm 1920, ILO đóng Trụ sở tại Giơnevơ, Thuỵ Sỹ.

Khi thành lập năm 1919, ILO chỉ có 45 nước tham gia. Đến nay, ILO đã có
179 quốc gia thành viên, trong đó Cộng hòa Montenegro là thành viên trẻ nhất vừa
gia nhập ILO ngày 14/ 7/2006. Nguồn kinh phí cho các hoạt động của ILO gồm
nguồn ngân sách thường xuyên do các nước thành viên ILO đóng góp niên liễm

28
theo tỷ lệ của Liên hợp quốc, và các nguồn tài chính do các nhà tài trợ song phương
và đa phương hỗ trợ.

ILO được thành lập nhằm mục tiêu thúc đẩy công bằng xã hội và bảo vệ các
quyền lao động và quyền con người. ILO xây dựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế
thông qua hình thức các Công ước và Nghị quyết trong đó qui định các tiêu chuẩn
tối thiểu về quyền của người lao động (ví dụ quyền tự do thương hội, quyền được tổ
chức và đàm phán tập thể, quyền xoá bỏ lao động cưỡng bức, không bị phân biệt
đối xử tại nơi làm việc và trong việc làm vv…). Ngay từ năm 1886, Đại hội Công
nhân Quốc tế đã kêu gọi tiến hành một cuộc vận động quốc tế nhằm chấm dứt tình
trạng LĐTE và yêu cầu các chính phủ trên thế giới phải quy định thành luật về độ
tuổi lao động tối thiểu. Mặc dù vậy, chỉ đến đầu thế kỷ XX mới có các văn kiện
pháp luật quốc tế đầu tiên liên quan đến vấn đề LĐTE, chủ yếu do ILO ban hành.

Kể từ khi thành lập (1919), tính đến tháng 2 năm 2007, ILO đã thông qua 187
Công ước và 197 Khuyến nghị, trong đó có 08 Công ước được coi là các Công ước
cơ bản, điều chỉnh bốn nhóm quyền và nghĩa vụ cơ bản tại nơi làm việc, đó là: Loại
bỏ mọi hình thức lao động cưỡng ép hoặc bắt buộc; xóa bỏ tình trạng LĐTE và đặt
ưu tiên hàng đầu là loại trừ những hình thức lao động tồi tệ nhất; tạo cơ hội công
bằng và chống phân biệt đối xử về việc làm; tự do liên kết và quyền được thương
thuyết tập thể.

Cũng trong số các Công ước và khuyến nghị do ILO ban hành, có khoảng 30
văn kiện đề cập đến việc bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bóc lột và lạm dụng sức
lao động, trong đó có hai Công ước và một Khuyến nghị cơ bản trực tiếp đề cập đến
vấn đề ngăn ngừa, cấm và xóa bỏ LĐTE và loại trừ những hình thức lao động tồi tệ
nhất, đó là Công ước về Tuổi tối thiểu, 1973 (được gọi là Công ước 138); Công ước
về cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất,
1999 (được gọi là Công ước 182) và Khuyến nghị về loại bỏ những hình thức
LĐTE tồi tệ nhất, 1999 (được gọi là Khuyến nghị 190).

29
Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Trải qua gần 30 năm hợp tác, mối quan
hệ Việt Nam - ILO ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực. Trong đó, có
một số mốc thời gian đáng chú ý như: năm 1982, Việt Nam rút khỏi ILO vì một số
lý do kỹ thuật; năm 1993, Việt Nam tái gia nhập ILO; năm 2000, Việt Nam phê
chuẩn Công ước số 182 “Cấm và hành động ngay lập tức loại bỏ hình thức LĐTE
tồi tệ nhất” (Quyết định số 169/QĐ/CTN ngày17/11/2000);năm 2002, Việt Nam và
ILO đã ký Hiệp định thiết lập Văn phòng ILO tại Hà Nội (04/02/2002); năm 2003,
Việt Nam gia nhập Công ước số 138 qui định tuổi tối thiểu được đi làm việc
(09/06/2003); năm 2006, Chính phủ VN chấp thuận Văn kiện sửa đổi Điều lệ ILO
bãi bỏ các Công ước đã lỗi thời (15/03/2006) và ký Văn kiện Khuôn khổ hợp tác
quốc gia VN-ILO giai đoạn 2006-2010 về xúc tiến việc làm bền vững (7/2006).
Hiện nay Việt Nam và ILO đang xây dựng Dự án tạo việc làm cho Thanh niên Việt
Nam đến năm 2010. Mọi hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về
chương trình việc làm của ILO. Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch
định chiến lược và chính sách về lao động, việc làm nhằm giúp cải thiện điều kiện
sống và điều kiện làm việc của người lao động. Trong thời gian tới ILO sẽ tập trung
hỗ trợ cho công tác ngăn chặn và xoá bỏ tình trạng LĐTE, tăng cường bình đẳng
nam nữ, phát triển các doanh nghiệp, bảo trợ xã hội, an toàn và sức khoẻ nghề
nghiệp, thúc đẩy các mối quan hệ lao động và đối thoại xã hội.

1.3.2. Sự cần thiết nghiên cứu các công ƣớc quốc tế về LĐTE

Các vấn đề về bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm tại Việt Nam. Trẻ em
cần được bảo vệ đặc biệt ở Việt Nam có trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và buôn bán
vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi phạm
pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; và trẻ
em sống trong cảnh nghèo đói.

Hoàn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã. Chỉ có một số ít trẻ em Việt
Nam được nuôi dưỡng và chăm sóc ở các cơ sở của nhà nước, còn rất nhiều em
khác phải tự bươn trải để kiếm sống. Một số em bị bắt lao động, còn một số khác

30
sống lang thang trên các đường phố - chính tình cảnh đó khiến cho các em có nguy
cơ cao bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội và
mại dâm.

Có nhiều lý do phức tạp khiến các em lâm vào những tình cảnh éo le như
vậy. Các yếu tố kinh tế như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập và sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Các
trào lưu xã hội như di cư, các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình trạng phân
biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em. Các vấn đề bất cập mang tính hệ
thống như thiếu một khung pháp lý toàn diện, việc thực thi pháp luật còn yếu và
nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ em còn hạn chế cũng đe dọa ảnh hưởng tới trẻ em.
Số trường hợp nhiễm HIV đang gia tăng cũng khiến cho trẻ em phải đối mặt với
nguy cơ cao hơn.

Một thực tế làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn, đó là Việt Nam chưa có
hệ thống bảo vệ trẻ em một cách toàn diện cũng như chưa có các dịch vụ bảo vệ trẻ
em. Vấn đề này gây cản trở những nỗ lực tiếp cận và chăm sóc cho những trẻ em
cần được bảo vệ đặc biệt. Chính phủ Việt Nam đang bắt đầu giải quyết những vấn
đề này. Với sự hỗ trợ trực tiếp của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Chính
phủ đang xây dựng Chiến lược Quốc gia về Bảo vệ trẻ em nhằm thiết lập một bộ
máy và hệ thống bảo vệ cho trẻ em trong giai đoạn 2006 - 2015.

Đã có rất nhiều nghiên cứu và cảnh báo về vấn nạn LĐTE. Ngoài việc mất đi
tuổi thơ và sức khỏe thể chất bị ảnh hưởng trầm trọng do phải lao động quá sớm,
sức khỏe tinh thần của các em cũng bị ảnh hưởng nặng nề suốt cả cuộc đời. Tỉ lệ trẻ
em bị lạm dụng tình dục, nguy cơ mắc AIDS trong lao động cũng rất cao. Ngoài ra,
nguy cơ rất cao là LĐTE bị thất học rồi sẽ trở thành cha mẹ và lại để con cái mình
thành LĐTE và thất học như cha mẹ chúng.

LĐTE là một vấn đề nhức nhối trên thế giới trong cả thế kỷ qua. Những nỗ
lực đầu tiên là trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Mỹ và châu Âu đầu thế kỷ 20. Cùng
với hoạt động của tổ chức lao động quốc tế ILO, nhiều luật lệ và quy định đã ra đời
để hạn chế tình trạng LĐTE, cải thiện điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe của

31
những LĐTE. Làn sóng thứ hai, vào cuối những năm 1970, tập trung can thiệp vào
cuộc sống của những trẻ em lao động nhằm cải thiện điều kiện làm việc và dạy
nghề, dạy kỹ năng sống, chống trẻ em bị bóc lột và lạm dụng, chăm sóc sức khỏe và
giáo dục cho các em.

Trường phái này ra đời từ lập luận rằng trẻ em phải làm việc do nhu cầu cá
nhân và gia đình, từ những nguyên nhân có tính cấu trúc trong xã hội như nghèo
đói, các tệ nạn..., và từ thực tế là chấm dứt ngay tình trạng LĐTE là không tưởng.
Đã có nhiều nước châu Phi, châu Á như Zimbabwe, Ấn Độ, Sri Lanka... có những
chương trình giữ được một số lượng rất lớn các em ở lại trường học chỉ với việc
cung cấp cho các em những chai dầu ăn hay bữa ăn sáng cùng những chương trình
giáo dục kỹ năng sống và dạy nghề thích hợp, mà đã có thể cứu được cả một thế hệ
không sớm rơi vào nạn bóc lột sức lao động và tệ nạn xã hội khó lường.

Làn sóng thứ ba, từ đầu những năm 1990, sự bùng nổ của toàn cầu hóa kinh
tế đã hình thành phong trào tẩy chay hàng hóa và dịch vụ do trẻ em sản xuất. Tuy
nhiên, theo UNICEF, chỉ có khoảng 5% LĐTE làm việc trong khu vực thương mại,
còn phần lớn là ở khu vực sản xuất và kinh doanh không chính thức. Vì vậy, luật
lao động và những quy định cấm hàng hóa từ những nơi có sử dụng LĐTE chỉ ảnh
hưởng đến một số công ty và tập đoàn lớn.

Ở Việt Nam, báo chí vừa rộ lên về chuyện LĐTE bị buộc làm việc hơn 12
giờ một ngày trong điều kiện tồi tệ. Đây là điều tất yếu khi năm 2007 - 2008 bộc
phát tình trạng học sinh nông thôn ồ ạt bỏ học lên các thành phố làm việc. Cần lưu ý
rằng hiện nay chính là lúc LĐTE trở thành vấn nạn nặng nề và sẽ tiếp diễn trầm
trọng hơn, do tình hình kinh tế khủng hoảng sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến các gia
đình nghèo và nông dân, buộc các em phải nghỉ học mưu sinh nhiều hơn, và do các
chủ lao động ưa thích mướn LĐTE để có lợi thế giá rẻ. Người nghèo và trẻ em đang
trở thành dễ bị thương tổn hơn bao giờ hết trong tình hình hiện nay.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu để có những chính sách, pháp luật bảo
vệ trẻ em thích hợp nhất là bảo vệ trẻ em tham gia lao động là rất cần thiết. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, các nhà đầu tư vào Việt Nam ngày một

32
nhiều, nhân công dần hạn chế, nhu cầu sử dụng LĐTE sẽ ngày một lớn. Vì vậy,
Việt Nam gia nhập các công ước quốc tế về LĐTE với những cam kết bảo vệ trẻ
em, không sử dụng trẻ em dưới 18 tuổi lao động, nhất là làm những công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm sẽ là căn cứ pháp lý bảo vệ các em khỏi việc lao động
sớm, là cơ sở để xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cố ý sử dụng LĐTE. Từ đó, góp phần quan
trọng trong công tác bảo vệ trẻ em nói chung, công tác bảo vệ trẻ em ở Việt Nam
nói riêng.

1.3.3. Các công ƣớc của tổ chức lao động quốc tế về LĐTE
1.3.3.1. Vai trò của các điều ƣớc quốc tế về LĐTE đối với Việt Nam
Công ước Vienna ngày 23/5/1969 về Luật điều ước (Điều 2 Đ1-a) định nghĩa:
“Khái niệm điều ước được hiểu là một thỏa thuận quốc tế thành văn giữa các quốc
gia và được điều chỉnh bởi luật quốc tế, thể hiện trong một văn bản duy nhất hoặc
hai hay nhiều văn bản liên quan, bất kể tên gọi riêng biệt nào của nó”. Theo khoản
1, Điều 2 Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006): “Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia
nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác
của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao
đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”.
Các điều ước quốc tế được coi như “phương tiện phát triển sự hợp tác hòa
bình giữa các quốc gia” (Lời mở đầu Công ước Vienna ngày 23/5/1969 về luật
điều ước). Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, điều ước quốc tế ngày càng
phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và xây dựng luật pháp
quốc tế, trong củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia.
Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam tham gia và thực thi các điều ước
quốc tế dựa trên nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế (pacta sunt servanda) về tự

33
nguyện thực hiện các cam kết quốc tế và trên cơ sở có đi có lại, vì hòa bình, ổn
định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Trong lĩnh vực quyền trẻ em, khi tham gia các điều ước quốc tế, Việt Nam
luôn thể hiện chủ trương, quyết sách quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em, tăng
cường hợp tác quốc tế, cùng hợp tác để giải quyết các vấn đề chung về quyền trẻ
em của khu vực và trên thế giới.

1.3.3.2. Việt Nam với việc phê chuẩn các công ƣớc quốc tế về LĐTE

Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một cuộc điều tra mang tính quốc gia về
LĐTE; dù vậy, qua các cuộc điều tra mức sống dân cư có thể thấy tỷ lệ trẻ em
tham gia hoạt động kinh tế đã giảm qua các thời kỳ, từ 41,1% vào năm 1993
xuống còn 29,3% năm 1998 và 18,0% năm 2003 [13]. Nhận rõ những tác động
nguy hại của vấn đề LĐTE, từ rất sớm, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những
biện pháp đồng bộ và kiên quyết nhằm giải quyết vấn đề này.

Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế quan trọng nhất về chống sử
dụng LĐTE, bao gồm hai Công ước số 138, Công ước số 182 của ILO; Công ước
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung
về chống bóc lột tình dục và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em và về bảo vệ trẻ em
trong xung đột vũ trang. Cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam trong việc giải
quyết vấn đề LĐTE đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế, trong
đó có ILO. Chương trình quốc tế về xoá bỏ LĐTE của ILO (IPEC) được bắt đầu
tại Việt Nam từ năm 2000 với mục đích giúp Chính phủ Việt Nam biến những
cam kết chính trị đó thành hành động.

Hiện tại, vấn đề ngăn ngừa và xoá bỏ LĐTE được đề cập trong nhiều văn
bản pháp luật của Việt Nam, quan trọng nhất là trong Bộ luật Lao động. Tương
ứng với các tiêu chuẩn cơ bản trong các Công ước số 138 và Công ước số 182 của
ILO, Bộ luật Lao động (2002) quy định: Độ tuổi lao động tối thiểu là 15 (với
những công việc nặng nhọc, độc hại là 18); Chỉ được nhận trẻ em dưới 15 tuổi
vào làm một số nghề, công việc với những điều kiện chặt chẽ; Cấm sử dụng người
lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc

34
với các chất độc hại hoặc ảnh hưởng xấu tới nhân cách… Luật Bảo vệ, Chăm sóc
và Giáo dục Trẻ em (2004) nghiêm cấm một loạt hành vi bóc lột, lạm dụng hoặc
xô đẩy trẻ em vào hoàn cảnh bị bóc lột, lạm dụng. Bộ luật Hình sự (1999) quy
định nhiều tội danh về sử dụng LĐTE với các mức hình phạt nghiêm khắc. Nhằm
phòng ngừa LĐTE, Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và Luật Giáo dục
(2004) quy định chi tiết về quyền học tập của trẻ em, đặc biệt là quyền được học
tiểu học miễn phí... Bên cạnh đó, từ năm 1991, Chính phủ Việt Nam đã triển khai
nhiều chương trình có tác dụng ngăn ngừa và xoá bỏ tình trạng LĐTE, như
Chương trình Hành động Quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010;
Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm
phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy
hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình hành động quốc gia chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004-2010; Chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2001-2010; Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm; Chương trình
quốc gia về xoá đói giảm nghèo... Các chương trình trên đã huy động được sự
tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cộng đồng và cá nhân có
liên quan vào việc ngăn ngừa và xoá bỏ LĐTE.

1.3.3.3. Các công ƣớc quốc tế về LĐTE


Theo một số công trình nghiên cứu, năm 1284 Italia đã ban hành một văn bản
pháp luật bảo vệ trẻ em lao động trong các nhà máy thủy tinh. Vài thế kỷ sau đó,
nhiều nước châu Âu cũng ban hành những đạo luật nhằm bảo vệ trẻ em lao động
trong một số ngành công nghiệp. Năm 1833, ở nước Anh, các tổ chức công đoàn
đã đấu tranh thành công buộc nhà nước phải ban hành Luật Công xưởng, trong đó
đề cập đến vấn đề độ tuổi lao động tối thiểu. Năm 1836, vấn đề này được lặp lại ở
nước Mỹ. Tuy nhiên, hiệu lực của những văn bản pháp luật đó chỉ giới hạn trong
từng quốc gia. Năm 1866, Đại hội Công nhân Quốc tế đã kêu gọi tiến hành một
cuộc vận động quốc tế nhằm chấm dứt tình trạng LĐTE và yêu cầu các chính phủ
trên thế giới phải quy định thành luật về độ tuổi lao động tối thiểu. Mặc dù vậy,
chỉ đến đầu thế kỷ XX mới có các văn kiện pháp luật quốc tế đầu tiên liên quan

35
đến vấn đề LĐTE, chủ yếu do ILO ban hành. Trong số gần 200 công ước (và
cũng khoảng từng đó khuyến nghị) của ILO ban hành từ năm 1919 (năm thành lập
tổ chức này) đến nay, có gần 30 văn kiện đề cập đến việc bảo vệ trẻ em khỏi các
hình thức bóc lột và lạm dụng sức lao động, trong đó có hai công ước cơ bản trực
tiếp đề cập đến vấn đề ngăn ngừa, cấm và xóa bỏ LĐTE là Công ước số 138 về
tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập
tức để xóa bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất (1999). Trong phạm vi luận văn
sẽ nghiên cứu hai Công ước nêu trên.

Sở dĩ tác giả chọn hai công ước này để nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề
chung về LĐTE vì những lý do sau:

Thứ nhất, các văn bản pháp lí quốc tế mặc dù đã đề cập về LĐTE nhưng
chưa xác lập được các cơ chế, nghĩa vụ mà các quốc gia phải thực hiện để đảm bảo
quyền được bảo vệ cho trẻ em.

Thứ hai, các văn bản như Tuyên bố năm 1959 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc… không có giá trị pháp lí bắt buộc mà chỉ nêu lên những tư tưởng của quyền
trẻ em để khuyến cáo hành động của các quốc gia.

Thứ ba, các văn bản pháp lí quốc tế chỉ đề cập quyền của trẻ em trong một số
lĩnh vực (ví dụ: quyền đăng kí khai sinh, quyền được học tập…).

Thứ tư, việc bảo vệ quyền trẻ em nói chung, nhất là quyền trẻ em được bảo
vệ không bị buộc phải lao động chỉ được quy định cụ thể, chi tiết ở Công ước 138,
nhất là Công ước 182 của tổ chức lao động quốc tế.

Trẻ em cần phải được sống trong hoà bình, trong xã hội thân ái; cần phải
được sự chăm sóc của nhà nước, xã hội, gia đình và cần có sự bảo vệ về mặt pháp lí.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa ở những quốc gia đang phát triển. Vì vậy, cần phải có
điều ước quốc tế đa phương ghi nhận và điều chỉnh lĩnh vực này.

36
a. Công ƣớc số 138 của tổ chức lao động quốc tế về tuổi tối thiểu
làm việc

Công ước quốc tế về độ tuổi lao động tối thiểu năm 1973 được Hội nghị toàn
thể của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua qua ngày 26/07/1973 và có hiệu lực từ
ngày 19/6/1976 (Việt Nam gia nhập Công ước 138 ngày 09/6/ 2003). Mục tiêu của
công ước, ràng buộc các quốc gia thành viên cam kết nhằm bảo đảm thật sự việc bãi
bỏ LĐTE và nâng dần tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được lao động tới độ tuổi
mà các thiếu niên có thể phát triển đầy đủ nhất về thể lực và trí lực (Điều 1).

Theo Công ước, tuổi tối thiểu được đi làm việc hoặc được lao động không
được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào
cũng không được dưới 15 tuổi; không một ai ở tuổi dưới mức tối thiểu đó được đi
làm việc hoặc được lao động trong bất cứ nghề nào (khoản 3 Điều 2). Tuy nhiên,
Công ước cũng chỉ ra rằng, các nước thành viên mà nền kinh tế và hệ thống giáo
dục chưa phát triển đầy đủ thì sau khi tham khảo ý kiến của các tổ chức hữu quan
của người sử dụng lao động và của người lao động (nếu có) thì có thể ghi nhận mức
tối thiểu là 14 tuổi nhưng phải báo cáo lý do với ILO (khoản 4 Điều 2).

Công ước cho phép các quốc gia thành viên có thể cho phép sử dụng người từ
13 đến 15 tuổi làm những công việc nhẹ nhàng hoặc những công việc mà không có
khả năng tác hại đến sức khoẻ hoặc sự phát triển của họ; không phương hại đến việc
học tập cũng như việc tham gia vào những chương trình hướng nghiệp hay đào tạo
nghề của họ khi đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, hoặc không phương
hại đến khả năng giáo dục mà họ đã nhận được (Điều 7).

Đối với mọi loại việc làm hoặc loại lao động nào mà tính chất hoặc điều kiện
tiến hành có thể có hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc phẩm hạnh của thiếu niên, thì
mức tối thiểu không được dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, Công ước cũng cho phép các
quốc gia thành viên, sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức hữu quan của người sử
dụng lao động và của người lao động (nếu có) có thể ghi nhận cho phép các thiếu
niên ngay từ độ tuổi 16 được làm những công việc nêu trên với điều kiện là an toàn

37
và phẩm hạnh của họ phải được bảo đảm đầy đủ, phải có sự dạy dỗ cụ thể và thích
đáng, hoặc đào tạo nghề cho họ trong ngành hoạt động tương ứng (Điều 3).

Riêng đối với các ngành nghề: công nghiệp khai khoáng; các ngành công
nghiệp chế tạo; xây dựng và các công trình công cộng; điện; khí đốt và nước; các
dịch vụ vệ sinh y tế, vận tải; lưu giữ trong kho và giao thông; các đồn điền và các cơ
sở nông nghiệp khác chủ yếu được khai thác nhằm mục đích thương mại thì phải áp
dụng độ tuổi tối thiểu theo Khoản 3 Điều 2, nghĩa là không được dưới 15 tuổi
(Điều 5).

Công ước 138 đã ghi nhận và xét lại những nội dung về độ tuổi của một số
Công ước được thông qua trước đó như: Công ước về Tuổi tối thiểu làm việc trong
ngành công nghiệp năm 1919 và xét lại năm 1937; Công ước về Tuổi tối thiểu làm
công việc trên biển năm 1920 và xét lại năm 1936; Công ước về Tuổi tối thiểu làm
việc trong ngành nông nghiệp năm 1921; Công ước về Tuổi tối thiểu làm dưới hầm
tàu và đốt lò năm 1921; Công ước về Tuổi tối thiểu làm nghề phi công nghiệp năm
1932 và xét lại năm 1937; Công ước về Tuổi tối thiểu làm nghề đánh cá năm 1959;
Công ước về Tuổi tối thiểu làm công việc dưới mặt đất năm 1965.

Qua phân tích có thể thấy, công ước số 138 xác lập các tiêu chuẩn về độ tuổi
lao động tối thiểu nhằm bảo đảm cho mọi trẻ em đều được học tập thay vì phải làm
việc, trừ khi công việc không ảnh hưởng tới việc học tập của trẻ. Công ước đề ra ba
mức tuổi lao động tối thiểu, bao gồm: Từ đủ 15 tuổi và đã hoàn thành chương trình
giáo dục bắt buộc ở quốc gia có thể được làm các công việc thông thường; từ đủ 13
hoặc 15 tuổi nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc có thể được
làm những công việc nhẹ nhàng; từ đủ 18 tuổi mới được làm những công việc nặng
nhọc, độc hại. Với các quốc gia có nền kinh tế và điều kiện giáo dục còn hạn chế thì
có thể hạ thấp các mức tuổi kể trên, cụ thể là từ đủ 14 tuổi với mức 1; từ đủ 12 hoặc
14 tuổi với mức 2 và từ đủ 16 với mức 3. Với một số công việc, nghề nghiệp đặc
biệt như hoạt động biểu diễn nghệ thuật…có thể cho phép trẻ em tham gia từ độ
tuổi nhỏ, nhưng phải được sự đồng ý của cha mẹ và phải xác định rõ giới hạn thời
giờ lao động và các điều kiện sử dụng lao động.

38
b. Công ƣớc số 182 của ILO về Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa
bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất

Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình
thức LĐTE tồi tệ nhất là một trong những công ước cơ bản nhất về LĐTE trong số
hàng trăm các công ước và Nghị định thư của ILO. Công ước được Hội nghị toàn
thể Tổ chức Lao động quốc tế thông qua ngày 17/06/1999 (Việt Nam phê chuẩn
Công ước 182 tại Quyết định số 169/QĐ-CTN ngày 17/11/2000). Tại khoá họp, Hội
nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế đã xem xét nhu cầu thông qua những
văn kiện mới để cấm và loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất, coi đây là một
ưu tiên chính trong hành động quốc gia và quốc tế, bao gồm cả hợp tác và trợ giúp
quốc tế để bổ sung cho Công ước về tuổi tối thiểu được chấp nhận làm việc theo
Công ước 138 (đây vẫn là văn kiện cơ bản về LĐTE) nêu trên . Hội nghị đã đồng
thời thông qua hai văn kiện quan trọng về LĐTE, đó là: Công ước về việc cấm và
những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất (Công ước
182) và Khuyến nghị thứ 6 trong chương trình nghị sự của khoá họp được gọi là
Khuyến nghị về loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất (Khuyến nghị 190) và
quyết định rằng những quy định của Khuyến nghị 190 bổ sung cho Công ước 182
và được áp dụng cùng với Công ước.

Công ước 182 là sự tiếp nối và cụ thể hóa của các công ước: Công ước về
Quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 20/11/1989, và
Việt Nam đã phê chuẩn năm 1990; Công ước và Khuyến nghị về Tuổi tối thiểu
được phép đi làm, năm 1973 mà hiện vẫn là văn kiện cơ bản về LĐTE; Tuyên bố
của ILO về các Nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc và những hoạt động
triển khai được Hội nghị Lao động quốc tế thông qua tại kỳ họp thứ 86 năm 1998.

Một số hình thức LĐTE tồi tệ nhất được nêu tại các văn kiện quốc tế khác
như: Công ước về lao động Cưỡng bức (1930), và Công ước bổ sung của Liên Hợp
Quốc về Xóa bỏ buôn bán nô lệ và các hình thức tương tự như nô lệ (1956).

Công ước lần đầu tiên xác định “các hình thức LĐTE tồi tệ nhất” gồm cả
cấm việc cưỡng bức sử dụng hay tuyển mộ trẻ em làm binh lính, yêu cầu các quốc

39
gia thành viên hành động có hiệu quả ngay lập tức, chú ý đặc biệt đến các nhóm trẻ
em đặc biệt, thúc đẩy sự hợp tác và hành động toàn cầu.

Công ước nhằm mục tiêu đặt ra cho các quốc gia thành viên phải áp dụng
những biện pháp tức thời và hữu hiệu để đảm bảo việc cấm và loại bỏ những hình
thức LĐTE tồi tệ nhất như một vấn đề khẩn cấp (Điều 1).

Theo Công ước 138, quy định chung về độ tuổi được tham gia làm việc hoặc
lao động là không dưới 15 tuổi (khoản 3 Điều 2); Tuy nhiên, đối với những công
việc hoặc loại lao động nào mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể có hại cho
sức khoẻ, an toàn hoặc phẩm hạnh thì độ tuổi tối thiểu không được dưới 18 tuổi
(khoản 1 Điều 3). Trên cơ sở đó Công ước 182 đã ghi nhận thuật ngữ "trẻ em" được
áp dụng cho tất cả những ai dưới 18 tuổi. Nói cách khác, Công ước 182 với mục
đích loại bỏ những hình thức lao động tồi tệ nhất đối với tất cả những người lao
động dưới 18 tuổi (Điều 2).

Tuy nhiên, với những loại công việc có khả năng làm hại đến sức khoẻ, sự an
toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của công việc hay do môi trường, hoàn
cảnh, điều kiện làm việc quy định tại khoản d, Điều 3 Công ước 182, thì Khuyến
nghị 190 cho phép luật lệ của các quốc gia hay cơ quan có thẩm quyền của các quốc
gia thành viên (sau khi tham khảo ý kiến của Tổ chức người lao động và người sử
dụng lao động) có thể cho phép tuyển lao động từ 16 tuổi trở lên với điều kiện là
sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của những trẻ em đó phải được bảo vệ đầy đủ, và
những trẻ em này đã được hướng dẫn đầy đủ cụ thể hay đã được đào tạo nghề trong
lĩnh vực tương ứng (Đoạn 4).

Ngoài việc quy định độ tuổi là căn cứ để tính thời gian tham gia làm việc,
Công ước 192 quy định những hình thức LĐTE tồi tệ nhất gồm:

Theo đó, những hình thức LĐTE tồi tệ nhất bao gồm: Tất cả những hình thức nô
lệ hay những tập tục giống như nô lệ, như buôn bán trẻ em, giam cầm thế nợ, lao
động khổ sai, lao động cưỡng ép hay bắt buộc để sử dụng trong các cuộc xung đột
có vũ trang; Việc sử dụng, mua bán hay chào mời trẻ em cho mục đích mại dâm,

40
cho việc sản xuất sách báo hay các chương trình khiêu dâm; Việc sử dụng mua bán
hay chào mời trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt cho việc sản xuất và
buôn lậu ma tuý như đã được định nghĩa trong các hiệp ước quốc tế liên quan;
Những công việc có khả năng làm hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay đạo đức của trẻ
em, do bản chất của công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc
(Điều 3, Công ước 182).

Đoạn 3 của Khuyến nghị 190 bổ sung, làm rõ thêm về “Những công việc có
khả năng làm hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do bản chất của
công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc” (quy định tại Điểm d,
Điều 3 Công ước 182), đó là: công việc khiến trẻ em lâm vào tình trạng dễ bị lạm
dụng về mặt thể chất tâm lý hay tình dục; công việc dưới mặt đất, dưới nước, ở các
độ cao nguy hiểm hay trong các khoảng không gian bị tù hãm; công việc với các
loại máy móc thiết bị và dụng cụ nguy hiểm hoặc công việc đòi hỏi phải dùng sức
để xử lý hoặc vận chuyển khối hàng nặng; công việc trong môi trường có hại cho
sức khoẻ ví dụ như những công việc có thể khiến trẻ em phải tiếp xúc với các chất,
những tác nhân hay những chu trình độc hại, hoặc có thể khiến trẻ em phải tiếp xúc
với tiếng ồn, nhiệt độ hay độ rung làm tổn hại đến sức khoẻ; công việc trong những
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ví dụ làm việc trong nhiều giờ liền hay công việc vào
ban đêm, công việc khiến trẻ em bị giam hãm vô lý tại địa điểm của người sử dụng
lao động.

Công ước 182 yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực hiện những nghĩa vụ
sau: Mỗi quốc gia thành viên phải xây dựng và ưu tiên thực hiện Chương trình hành
động quốc gia nhằm loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất (Điều 6).

Khuyến nghị 190 bổ sung, làm rõ về yêu cầu khi các quốc gia thành viên khi
xây dựng, thực hiện Chương trình hành động (Đoạn 2): phải coi việc xây dựng và
thực hiện Chương trình hành động quốc gia về loại bỏ mọi hình thức LĐTE tồi tệ nhất
như một vấn đề khẩn cấp; có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan Chính phủ liên
quan; có sự tham khảo ý kiến của tổ chức của người sử dụng lao động và người lao
động; có xét đến ý kiến của những trẻ em bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những hình

41
thức lao động tồi tệ nhất; có xét đến ý kiến của gia đình các em (nếu thích hợp) và ý
kiến của các nhóm liên quan khác; cam kết thực hiện mục đích của Công ước 182 và
Khuyến nghị 190.

Nội dung Chương trình hành động cần tập trung vào những nội dung: xác định
rõ mục tiêu huỷ bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất; ngăn chặn việc đưa trẻ em
tham gia vào hoặc đưa trẻ em ra khỏi những hình thức LĐTE tồi tệ nhất, bảo vệ các
em khỏi những hành động trả thù và giúp các em phục hồi và hoà nhập xã hội thông
qua các biện pháp đáp ứng được các nhu cầu về giáo dục thể chất và tâm lý cho các
em; đặc biệt chú ý tới các đặc điểm: Những em ở lứa tuổi nhỏ hơn; Những em gái;
Những nơi làm việc được giấu kín mà trẻ em gái đặc biệt gặp nguy cơ cao; Những
trẻ em khác có nguy cơ bị tổn thương cao hoặc có nhu cầu đặc biệt; xác định, và
làm việc với các cộng đồng mà ở đó trẻ em có rủi ro; cung cấp thông tin, làm tăng
độ nhạy cảm huy động công luận và các nhóm liên quan khác bao gồm trẻ em và
gia đình của các em.

Công ước 182 khuyến khích các quốc gia thành viên tiến hành tất cả các biện
pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện và thi hành có hiệu quả những quy định của
Công ước (Điều 7) như: quy định và áp dụng các hình thức trừng phạt về mặt pháp
luật và các biện pháp trừng phạt thích hợp khác; các biện pháp giáo dục trong việc
loại bỏ LĐTE, nhằm ngăn chặn việc đưa trẻ em tham gia vào những hình thức
LĐTE tồi tệ nhất, có những hỗ trợ trực tiếp cần thiết và thích hợp để đưa trẻ em ra
khỏi những hình thức lao động tồi tệ nhất, giúp các em phục hồi và hoà nhập với xã
hội, đảm bảo để tất cả trẻ em đã được đưa ra khỏi những hình thức LĐTE tồi tệ nhất
được hưởng giáo dục cơ bản miễn phí, ở những nơi có thể và thích hợp thì được đào
tạo nghề, xác định và tiếp cận những trẻ em có rủi ro đặc biệt và chú ý tới hoàn
cảnh đặc biệt của trẻ em gái. Mỗi nước thành viên sẽ chỉ định một cơ quan có thẩm
quyền chịu trách nhiệm về việc thực hiện những quy định cuả Công ước này.

Khuyến nghị 190 bổ sung một số biện pháp cần thiết để đảm bảo cho việc cấm
và loại bỏ LĐTE tồi tệ nhất (Đoạn 11; 12; 13; 14; 15), như sau:

42
Để đảm bảo việc thi hành có hiệu quả những quy định của quốc gia về việc
cấm và loại bỏ những hình thức LĐTE tồi tệ nhất, các quốc gia thành viên cần quy
định cả những biện pháp hành chính dân sự hay hình sự như: hình thành hệ thống
giám sát đặc biệt đối với những doanh nghiệp đã sử dụng những hình thức LĐTE
tồi tệ nhất, và trong trường hợp thường xuyên vi phạm có thể xem xét việc tạm thời
hay vĩnh viễn rút giấy phép hoạt động; biện pháp hình sự (các nước thành viên nên
quy định những hình thức sử dụng LĐTE tồi tệ nhất sau đây là tội phạm: tất cả các
hình thức nô lệ hay những tập tục tương tự như nô lệ, ví dụ như việc buôn bán trẻ
em, giam giữ thế nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng ép hay bắt buộc để sử dụng
trong các cuộc xung đột vũ trang; việc sử dụng, mua bán hay dụ dỗ trẻ em cho mục
đích mại dâm sản xuất sách báo đồi trụy hay các cuộc biểu diễn khiêu dâm; sử dụng
mua bán hay dụ dỗ trẻ em cho các hoạt động bất hợp pháp đặc biệt cho việc sản
xuất và buôn lậu ma túy, hay cho các hoạt động có liên quan đến việc mang hay sử
dụng súng trường hay các loại vũ khí khác một cách bất hợp pháp.

Ngoài những biện pháp cứng rắn nêu trên, có thể áp dụng một số biện pháp
sau đây: thông báo và vận động quần chúng nói chung kể cả những nhà lãnh đạo
chính trị địa phương và quốc gia, các đại biểu Quốc hội và các luật sư về tình trạng
LĐTE, đặc biệt những trường hợp gây xúc động; thu hút sự tham gia của các Tổ
chức người sử dụng lao động và người lao động, tổ chức dân sự khác và đào tạo cho
các tổ chức này; tổ chức các khoá đào tạo thích hợp cho các cán bộ Chính phủ có
liên quan, đặc biệt là thanh tra viên và các cán bộ thi hành luật và cán bộ chuyên
môn thích hợp khác; quy định việc khởi tố tại các nước thành viên những công dân
phạm tội theo luật quốc gia về việc cấm và loại bỏ tức thời những hình thức LĐTE
tồi tệ nhất, thậm chí ngay cả khi những tội này được thực hiện ở nước khác; đơn
giản hoá các thủ tục pháp lý và hành chính và đảm bảo rằng các thủ tục này là hợp
lý và kịp thời; khuyến khích xây dựng các chính sách nhằm thúc đẩy việc thực hiện
mục đích của Công ước này; theo dõi và công bố rộng rãi những hành động, những
gương tốt về việc loại bỏ LĐTE; công bố rộng rãi những quy định pháp luật và
những quy định khác về LĐTE bằng những ngôn ngữ khác nhau hay bằng tiếng địa

43
phương; thiết lập những thủ tục khiếu nại đặc biệt và đưa ra những điều luật để bảo
vệ những người đã tố cáo hợp pháp việc vi phạm những quy định của Công ước
khỏi sự phân biệt đối xử và bị trả thù, thiết lập những đường dây trợ giúp hay những
điểm liên lạc và những thẩm tra viên; áp dụng những biện pháp thích hợp để nâng
cao cơ sở hạ tầng về giáo dục và đào tạo giáo viên để đáp ứng được yêu cầu đặc thù
của các trẻ em trai và trẻ em gái.

Về hành động hợp tác giữa các quốc gia trong trong việc cấm và loại bỏ hình
thức LĐTE tồi tệ nhất, Công ước quy định: Các quốc gia thành viên sẽ tiến hành
những bước thích hợp để hỗ trợ nhau thực hiện những quy định của Công ước, bằng
cách thông qua việc tăng cường hợp tác, trợ giúp quốc tế bao gồm sự hỗ trợ cho các
chương trình phát triển kinh tế và xã hội xoá bỏ nghèo nàn và giáo dục phổ cập.

Khuyến nghị số 190 bổ sung cho hoạt động hợp tác quốc tế trong việc cấm và
loại bỏ hình thức LĐTE tồi tệ nhất như sau (Đoạn 16): Hợp tác trợ giúp quốc tế
giữa các quốc gia thành viên nhằm cấm và loại bỏ có hiệu quả những hình thức
LĐTE tồi tệ nhất nên bao gồm: huy động các nguồn lực cho các chương trình quốc
gia hay quốc tế; tương trợ về mặt pháp lý; hỗ trợ về mặt chuyên môn bao gồm cả
việc trao đổi thông tin; hỗ trợ các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, chương
trình giáo dục phổ cập, chương trình xoá bỏ nghèo nàn.
Qua phân tích có thể rút ra nhận xét về công ước 182 như sau: Công ước số
182 xác định những hình thức LĐTE được coi là tồi tệ nhất và yêu cầu các quốc
gia thành viên thực hiện các biện pháp khẩn cấp và có hiệu quả để cấm và xoá bỏ
các hình thức LĐTE tồi tệ đó, coi như là biện pháp chuyển tiếp để tiến tới xoá bỏ
hoàn toàn tình trạng bóc lột LĐTE. Theo công ước, những hình thức LĐTE tồi tệ
nhất bao gồm: Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ, như buôn bán trẻ em, gán
nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng bức, bao gồm tuyển mộ cưỡng bức hoặc bắt
buộc trẻ em để phục vụ trong các cuộc xung đột vũ trang; sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi
kéo trẻ em làm mại dâm, tham gia sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc biểu
diễn khiêu dâm; sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em tham gia các hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là hoạt động sản xuất và buôn bán các chất ma túy như đã được

44
xác định trong các điều ước quốc tế có liên quan; sử dụng trẻ em trong những
công việc mà tính chất và hoàn cảnh làm việc có thể xâm hại đến sức khỏe, sự an
toàn và đạo đức của trẻ em.

Bên cạnh ILO, một số tổ chức quốc tế khác, đặc biệt là Liên hợp quốc cũng đã
có nhiều hoạt động về xoá bỏ LĐTE. Trong hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con
người do Liên hợp quốc thông qua kể từ năm 1945 đã có rất nhiều văn kiện trực tiếp
hoặc gián tiếp liên quan đến vấn đề này, như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
(1948); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị (1966); Công ước về quyền trẻ em (1989)…Và trong
khoảng hai thập niên qua, nhiều Hội nghị quốc tế quan trọng được tổ chức, trong đó
thông qua những văn kiện trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề ngăn ngừa tiến
tới xóa bỏ tình trạng LĐTE. ILO và Liên hợp quốc đã thông qua các chương trình
riêng nhằm xóa bỏ vấn đề LĐTE. Cụ thể, Chương trình quốc tế về xóa bỏ LĐTE
(IPEC) do ILO triển khai từ năm 1992 nhằm giúp các quốc gia thành viên tăng
cường năng lực giải quyết vấn đề LĐTE, tiến tới xóa bỏ dần tình trạng này. Chương
trình hành động của Liên hợp quốc về xóa bỏ LĐTE được triển khai năm 1993
nhằm phối hợp hành động giữa các cơ quan, tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ LĐTE. Cũng trong khoảng hai thập niên qua, một loạt
hội nghị quốc tế quan trọng liên tiếp được tổ chức, trong đó thông qua những văn
kiện trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề ngăn ngừa, xóa bỏ tình trạng LĐTE.
Hai tổ chức quốc tế lớn là ILO và Liên hợp quốc đã thông qua các chương trình
riêng nhằm xóa bỏ vấn đề LĐTE. Cụ thể, Chương trình quốc tế về xóa bỏ LĐTE
(IPEC) do ILO triển khai từ năm 1992 nhằm giúp các quốc gia thành viên tăng
cường năng lực giải quyết vấn đề LĐTE, tiến tới xóa bỏ dần tình trạng này. Chương
trình hành động của Liên hợp quốc về xóa bỏ LĐTE được (1993) nhằm phối hợp
hành động giữa các cơ quan, tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc trong cuộc đấu
tranh xóa bỏ LĐTE.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, xóa bỏ LĐTE là một phần không thể tách rời
trong các hoạt động của ILO. Đây là những hoạt động hết sức ưu việt, đậm tính

45
nhân văn, với mục đích cao cả là bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của các lớp người
kế cận, những chủ nhân của xã hội tương lai; bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển chung
của toàn nhân loại.

46
Kết luận chƣơng 1

Vấn đề LĐTE đã và đang thu hút sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Để bảo vệ trẻ em, trong khuôn khổ quốc tế, các quốc gia đã ký kết với
nhau nhiều điều ước quốc tế. Công ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế, do các
quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên, nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông qua các quy
phạm gọi là quy phạm điều ước. Trong số các điều ước quốc tế về bảo vệ trẻ em thì
hai công ước quốc tế của tổ chức lao động quốc tế ILO (Công ước 138 về tuổi tối
thiểu làm việc và Công ước 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ hình
thức LĐTE tồi tệ nhất) là văn bản pháp lý quy định cụ thể, trực tiếp nhất về vấn đề
LĐTE, thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đã tham gia Công ước 138 vào ngày 09/6/2003 và công ước 182
vào ngày 17/11/2000. Cùng với pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia trong lĩnh vực này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ trẻ em trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

47
Chƣơng 2 - THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THỰC THI CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ
LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2.1. Thực trạng LĐTE

2. 1.1. Tình hình LĐTE một số nƣớc trên thế giới

Ngày nay trên thế giới, tình trạng sử dụng LĐTE đang là một hiện tượng phổ
biến và có chiều hướng gia tăng. Nhiều trẻ em đang ở độ tuổi học hành, vui chơi,
giải trí để được hưởng sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và tinh thần,
nhưng do rơi vào một hoàn cảnh nào đó, các em đã sớm phải lao vào hoạt động kinh
tế, sớm phải lao động và thậm chí còn phải gánh vác những công việc nặng nhọc
quá sức của mình, lao động trong những môi trường độc hại, trong những điều kiện
nguy hiểm đến sức khoẻ cũng như tính mạng của bản thân.

Theo số liệu của ILO, tính đến hết năm 2008 có ít nhất 250 triệu trẻ em đang
trong độ tuổi từ 5 đến 14 phải tham gia vào các hoạt động kinh tế, phần lớn các em
trong số này thuộc về các nước đang phát triển. Trong số đó có tới 120 triệu em
(chiếm khoảng 50%) đang phải làm những công việc trong các công xưởng, nhà
máy, hầm lò … [32, 3].

Mức độ và hình thức LĐTE tùy thuộc từng vùng, từng quốc gia khác nhau.
Theo điều tra của ILO tại 26 quốc gia trên thế giới thì phần lớn LĐTE thuộc diện
làm công và tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực sau:

Nông nghiệp: gồm cả lao động ở đồng ruộng để sinh sống và làm thuê trong
các đồn điền, trang trại.

Công nghiệp: làm việc trong các xí nghiệp hoặc xưởng sản xuất nhỏ, các cơ sở
sản xuất tư nhân, ...

Khu vực dịch vụ: như nhà hàng, quán rượu, giúp việc gia đình.

Các hoạt động kinh tế khác trên đường phố hoặc ở các khu vực lao động
không chính thức.

48
* LĐTE ở Ấn Độ

Ấn Độ là nước có lực lượng LĐTE lớn nhất thế giới, theo thống kê của Chính
phủ cho thấy Ấn Độ có hơn 11 triệu LĐTE dưới 14 tuổi; nhưng theo ông Kailash
Satyarthi - Chủ tịch phong trào Bảo vệ tuổi thơ của Ấn Độ thì con số thực phải lên
tới gần 60 triệu [32, 3].

Trẻ em làm việc trong các khách sạn và quán ăn dọc đường là một hình ảnh
khá phổ biến ở nhiều nơi tại Ấn Độ. Nhiều gia đình và cửa hàng ở thành phố thường
thuê trẻ em dưới 14 tuổi từ các gia đình nghèo để làm người giúp việc.

Trẻ em làm việc tại nhà riêng và các quán ăn thường phải làm việc nhiều giờ,
bị cô lập với xã hội và các tổ chức bảo vệ trẻ em. Những người giúp việc nhỏ tuổi
này thường phải chăm sóc con của những gia đình khá giả, chứng kiến một thế giới
xa lạ mà các em chỉ có trong mơ ước (lời phát biểu của Leyla Tegmo - Reddy, đại
diện ILO tại Ấn Độ).

Người phát ngôn Bộ Lao động Ấn Độ M.L. Dhar khẳng định rằng: những trẻ
em được thuê để giúp việc trong gia đình và quán ăn là đối tượng dễ bị ngược đãi và
lạm dụng tình dục, vì những hành vi tội ác gây cho các em thường không được
thông báo.

Theo đạo luật LĐTE 1986 của Ấn Độ, cấm sử dụng trẻ em dưới 14 tuổi làm
việc trong một số ngành công nghiệp "nguy hiểm" như sản xuất pháo hoa và kính.
Nhưng các tổ chức bảo vệ trẻ em cho rằng đạo luật này không được thực hiện
nghiêm chỉnh do nạn tham nhũng…

* LĐTE ở Trung Quốc

Một tổ chức lao động tại Hồng Kông công bố rằng: tình trạng sử dụng LĐTE
tại Trung Quốc đang tràn lan khắp nước một cách có hệ thống và ngày càng trầm
trọng thêm. Nguyên nhân của tệ nạn này nằm ở trong hệ thống giáo dục của Trung
Quốc.

Theo đoàn thể có tên là Bản Tin Lao Động Trung Quốc (Trung Quốc Lao Công
Thông Tấn tại Hồng Kông - một tổ chức đã thực hiện cuộc khảo sát tại chỗ ở

49
Trung Quốc) cho biết: Không có số liệu chính thức nào về con số trẻ em đang phải
lao động tại nước này. Vẫn có những luật lệ gắt gao chống lại việc thuê mướn trẻ
em dưới 16 tuổi nhưng tình trạng sử dụng sức lao động của trẻ em thì đầy rẫy ở
nước này và ngày càng trở thành một vấn đề nghiêm trọng hơn.

Và theo ông Hàn Đông Phương, sáng lập viên của đoàn thể bênh vực quyền lao
động, nói rằng: các chính quyền địa phương vẫn coi thường luật lệ, mà phần lớn là
vì thiếu nhân viên, lấy thí dụ như trong một văn phòng đặc trách lao động của một
quận hạt mà chỉ có chưa đầy 10 nhân viên nhưng lại có không biết bao nhiêu là
xưởng máy, và không biết bao nhiêu thị trấn cần phải theo dõi.

Cũng theo ông Hàn Đông Phương, nguyên nhân của vấn đề là ở hệ thống giáo
dục, Chính phủ cần phải giải đáp xem tại sao lại có nhiều trẻ em Trung Quốc bỏ học
trước khi hoàn tất 9 năm học bắt buộc theo như luật lệ qui định. Ông cho rằng: một
yếu tố là tiền tài trợ quá ít cho các trường học, nhất là tại các miền quê. Điều này có
nghĩa là cha mẹ các em phải trả học phí, những khoản tiền mà nhiều gia đình không
có đủ khả năng.

Ông Hàn Đông Phương còn cho hay: một vấn đề khác nữa là trong 2 thập niên
qua, Trung Quốc tập trung vào việc tài trợ cho các trường đại học trong khi lại lơ là
đối với các trường huấn nghệ. Phụ huynh của những học sinh học kém thường
không thấy có lợi ích gì khi trả tiền cho con cái mình tiếp tục cắp sách đến trường.
Ông nói: là cha mẹ của những học sinh như vậy thì người ta phải tính toán xem lợi
ích như thế nào?, tại sao phải cho con cái tiếp tục học sau 12 tuổi nếu như con em
của họ không có tương lai bước vào ngưỡng cửa đại học?. Như vậy thì cho con cái
đi học làm gì nữa? chả thà để cho chúng đi làm kiếm tiền còn hơn.

Khi vụ tai tiếng về sử dụng nô lệ lao động tại những lò gạch tại tỉnh Sơn Tây
của Trung Quốc bị phát hiện, công chúng Trung Quốc đã bàng hoàng khi nghe tin
một số những lao động bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện phi nhân
tính, đó chính là những đứa trẻ. (Báo giới ước tính có ít nhất 1.000 trẻ, nhỏ nhất
khoảng 8 tuổi, đã bị bỏ thuốc và bị bắt cóc gần các bến xe và sau đó bị bán cho các
chủ lò gạch với giá 70 USD/em. Trẻ bị buộc phải làm không dưới 14 giờ/ngày trong

50
điều kiện tồi tệ với khẩu phần ăn ít ỏi. Một số bị đánh đập tàn nhẫn. Có trẻ làm nô
lệ tại các lò gạch đến 7 năm [32, 4]).

* LĐTE ở Philippines

Tại Philippines, đất nước gồm hơn 7.000 hòn đảo lớn nhỏ thì nghề đánh bắt cá
là một phần quan trọng trong hoạt động kinh tế của Philippines. Do nghèo đói và tỉ
lệ gia tăng dân số cao, LĐTE trong ngành đánh bắt cá là một hiện tượng phổ biến.
Nhiều em nhỏ phải làm việc tới 8 giờ đồng hồ trong đêm, lặn dưới nước để bắt cá
bằng vợt, các em phải lặn xuống độ sâu tới 15 mét mà không có thiết bị bảo vệ, các
em khác phải tham gia những cuộc đánh bắt xa bờ mỗi chuyến từ 6 - 10 tháng.
Ngoài những rủi ro từ thiên tai, bão tố, các em nhỏ này có nguy cơ bị hỏng tai, chấn
thương từ các cú ngã, bị cá mập tấn công, rắn cắn và bị chết đuối...

* LĐTE ở Pakistan

Pakistan là một nước đang phát triển. Hơn 40% dân số sống dưới mức nghèo
khổ tuyệt đối; 30% kiếm đươc ít hơn 1 đôla Mỹ một ngày. Ngoài ra, 70% dân số
quốc gia này sống ở khu vực nông thôn và phần lớn LĐTE tập trung ở khu vực
nông thôn. Sự bùng nổ dân số, thất nghiệp và thiếu việc làm đã góp phần làm gia
tăng vấn đề LĐTE. Pakistan cũng là một trong những nước có số lượng LĐTE
chiếm tỷ lệ cao, với 3,3 triệu LĐTE [32, 5]. Chúng không được hưởng những quyền
cơ bản, hạn chế tiếp cận các dịch vụ xã hội, không được chăm chút về tình cảm và
không được phát huy sự phát triển về năng lực; chúng bị từ chối cả quyền được giáo
dục...Chính vì vậy LĐTE là một vấn đề gây căng thẳng về kinh tế - xã hội và vấn đề
quyền con người ở đất nước này.

Có rất nhiều lý do giải thích tại sao trẻ em phải tham gia lao động sớm trước
tuổi. Một số gia đình phải bán con cho chủ đất để làm thuê trả nợ cho gia đình. Có
những gia đình thì do sự hấp dẫn của đồng tiền mà LĐTE thu được để tăng thêm
phần nào thu nhập cho gia đình vốn đã vô cùng ít ỏi, đặc biệt là đối với các gia đình
nghèo.

51
Ở Pakistan, trẻ em là nguồn lao động chủ yếu trong một số ngành công nghiệp
xuất khẩu như khâu bóng đá, dệt thảm và sản xuất những công cụ chính xác. Trẻ em
còn có thể là những công nhân sản xuất gạch, làm việc trong các cửa hàng sửa chữa
xe và các công việc giúp việc trong nhà.

2.1.2. Thực trạng LĐTE ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề LĐTE không nổi cộm như ở một số nước khác, không có
việc thuê trẻ em làm trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, không có trẻ em đi lính... Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường thì ngày càng nhiều trẻ em ở nông thôn ra các vùng đô thị kiếm
sống mà chủ yếu là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và xu
hướng đó ngày càng tăng lên. Thực tế cho thấy, trẻ em đang tham gia vào nhiều loại
công việc như: các cơ sở sản xuất nhỏ, thủ công, đánh giày, bới rác, bán hàng rong,
khuân vác, xây dựng...

Do nhiều nguyên nhân như tình trạng nghèo đói, thiên tai, quá trình đô thị
hoá, sự giảm sút chất lượng giáo dục và khó tiếp cận với các dịch vụ cộng đồng của
nhóm người nghèo... đã dẫn đến việc rất nhiều trẻ em phải bỏ học dời nhà đi lao
động kiếm sống.

Bộ luật lao động quy định độ tuổi của người lao động là người từ đủ 15 tuổi
trở lên và chỉ cho phép trẻ em dưới 15 tuổi làm việc ở một số nghề và công việc
theo quy định của pháp luật.

Theo luật pháp thì LĐTE gần như là không thể có. Tuy nhiên, thực tế lại có
nhiều trẻ em đang lao động kiếm sống ở nhiều hình thức hay lĩnh vực kinh tế khác
nhau, trong đó có nhiều em đang phải lao động kiếm sống trong các điều kiện nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm có hại đến sự phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách
của các em. Trong cùng công việc mà trẻ em tham gia thì có thể vừa sức đối với trẻ
em lớn tuổi nhưng đối với các em ít tuổi hơn thì lại là quá sức. Do vậy, rất khó có
thể phân định ranh giới giữa tác động có lợi và có hại của công việc đó đối với trẻ
em.

52
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội 63 tỉnh, thành phố
trên toàn quốc, tính đến thời điểm tháng 12 năm 2008, cả nước có 26.027 trẻ em
phải tham gia lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm [33, 5]. Bên
cạnh số trẻ em tham gia làm kinh tế để phụ giúp gia đình thì ngày càng có nhiều em
phải làm thuê, làm việc như người lớn để nuôi mình, nuôi gia đình.

Tham gia vào các hoạt động nhằm xoá bỏ LĐTE từ năm 2001 tại Việt Nam,
Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam (ILO) cho biết: Phần lớn LĐTE ở Việt
Nam phải bỏ học; tham gia lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công, mỹ nghệ
trong các cơ sở sản xuất mang tính chất làng nghề (gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ,
làng vạn chài ở Huế, Quảng Ninh...). Ở khu vực thành thị, phổ biến trẻ em làm giúp
việc gia đình, phụ việc ở nhà hàng, cửa hàng, bán hàng rong, đánh giày, quét dọn và
thu lượm phế thải... Một số trẻ em là nạn nhân của sự bóc lột thậm tệ trong các mỏ
vàng, khai thác gỗ, vận chuyển hàng hoá và một số công việc nguy hiểm khác như
vận chuyển và buôn bán ma tuý...Các em không những bị lạm dụng về sức khoẻ, về
thời gian lao động; bị ngược đãi, phân biệt đối xử mà nghiêm trọng hơn là có nhiều
trường hợp các em bị xâm hại tình dục. Qua khảo sát của ILO cho thấy, LĐTE ở
Việt Nam chủ yếu dưới các hình thức: Làm kinh tế gia đình; vừa làm kinh tế gia
đình, vừa làm thuê; làm thuê và tự kiếm sống. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ trẻ em tự
kiếm sống có xu hướng tăng, trong đó tập trung chủ yếu ở lứa tuổi từ 14 -18. Thực
trạng này, khiến chúng ta cần phải suy nghĩ.

 Thực trạng LĐTE ở một số thành phố lớn

 Tình hình LĐTE ở Hà Nội

Theo Lãnh đạo phòng Bảo vệ chăm sóc trẻ em, Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội thành phố Hà Nội, số trẻ em phải lao động sớm ở Hà Nội chủ yếu là ở các
tỉnh khác đến. Công việc các em phải làm là giúp việc trong các gia đình; giúp việc
trong các cơ sở dịch vụ ăn uống (đây là loại hình thu hút đông đảo trẻ em, các em
phải làm việc từ 9 - 11 tiếng/ngày, được nuôi ăn và tiền công bình quân 300.000
đồng/tháng); phục vụ trong các cơ sở dịch vụ vui chơi, giải trí; trong các cơ sở sản
xuất, gia công gốm sứ, xây dựng (phụ hồ); trong các làng nghề… Điều kiện sinh

53
hoạt của các em thường khá khó khăn, ngoài hình thức giúp việc gia đình thì lao
động dưới các hình thức khác các em phải thuê nhà trọ, sinh hoạt với mức tiết kiệm
tối đa. Độ tuổi trẻ em lao động trong gia đình từ 9 - 14 tuổi là 13,75%; từ 15 - 18
tuổi là 86,25%; trong đó có 73,56% trẻ em biết chữ (bậc học trung bình là lớp 6 -
chiếm 96,03%), chủ yếu đến từ vùng nông thôn nghèo khó [32]. Nguyên nhân chính
dẫn đến tình trạng LĐTE phải lao động sớm do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó
khăn. Đối với trẻ lao động thường chịu nhiều hậu quả như tai nạn lao động, suy
dinh dưỡng, bị khủng hoảng về tinh thần, dễ bị tha hoá về đạo đức, lối sống hay sa
vào các tệ nạn xã hội hoặc trộm cắp. Qua kết quả khảo sát LĐTE trên địa bàn 10
quận, huyện của thành phố Hà Nội, tính đến ngày 15/12/2007, số trẻ em từ 6 -16
tuổi là 352 em, trong đó có 167 em làm giúp việc trong các gia đình, 116 em làm
việc trong các nhà hàng, cơ sở dịch vụ, 15 em trong cơ sở sản xuất, 44 em làm các
công việc khác [33, 51].

Qua kiểm tra tại các địa phương có ngành nghề truyền thống thì số trẻ em dưới
18 tuổi tham gia làm việc khá đông, không chỉ đối với con em của địa phương đó
mà còn thu hút nhiều trẻ em từ các nơi khác đến các địa phương để học nghề và lao
động kiếm sống như xã Vân Hà (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) làm đồ mộc;
xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) làm đồ gốm, sứ mỹ nghệ; xã
Kiêu Kỵ (may da, dát vàng), xã Ninh Hiệp (chế biến dược liệu), Đình Xuyên (gia
công đóng hộp diêm) thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Tuy nhiên việc học nghề và lao động của các em ở các làng nghề này còn
nhiều bất cập: không có chương trình, nội dung đào tạo nghề tại chỗ thống nhất để
đánh giá đạt tiêu chuẩn được công nhận tay nghề; thiếu những quy định ràng buộc
giữa người dạy và người học nghề nên thời gian thường kéo dài và chất lượng chưa
cao, dẫn đến tìn trạng lạm dụng trẻ em vào làm những công việc giản đơn như đục,
đẽo, làm khuôn, đập búa, phụ việc vặt mà không được trả công. Khi các em đã có
thể lao động tạo ra sản phẩm thì chủ sử dụng lao động không thực hiện đúng những
quy định của pháp luật về LĐTE. Các cơ sở sử dụng lao động đều không ký hợp
đồng lao động với trẻ em. Thời gian lao động của các em không đảm bảo, hơn nữa

54
do đặc thù của công việc nên cũng có ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ. Ở xã Vân
Hà, tiếng đục chát liên tục của nhiều người thực hiện cùng mọt lúc tập trung trong
một không gian hẹp sẽ có tác động xấu đến thần kinh còn yếu của trẻ. Công tác bảo
hộ lao động cũng chưa được quan tâm, chưa có khẩu trang để chống các bụi phấn,
bụi kim loại, bụi gỗ khi đục đẽo, hoặc nơi sản xuất quá trống trải không bảo đảm
sức khoẻ của trẻ khi thời tiết lạnh. Chính quyền địa phương chưa có sổ sách để theo
dõi và quản lý số LĐTE trên địa bàn để kiểm tra và hướng dẫn kịp thời.

 Tình hình LĐTE ở thành phố Hồ Chí Minh

Theo khảo sát của các quận huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, có
600 trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm. Theo đó, các
quận huyện có nhiều trẻ em lao động nặng nhọc là: Quận 4, Tân Bình, Tân Phú,
Bình Tân, huyện Hóc Môn và Củ Chi. Chỉ riêng sáu quận huyện trên LĐTE đã
chiếm trên 61% tổng số trẻ em lao động nặng nhọc toàn thành phố [32]. Đối tượng
trẻ em được khảo sát từ 6 - 16 tuổi đang lao động trong các cơ sở sản xuất kinh
doanh. Kết quả khảo sát cho thấy, một số trẻ em lao động trong các cơ sở sản xuất
tư nhân với điều kiện thời gian làm việc như người lớn, không được trả lương xứng
đáng... cá biệt có những trường hợp các em bị chủ đối xử rất tệ như hành hạ, đánh
đập hoặc bắt làm những công việc nặng nhọc quá sức của các em. Trong năm 2008,
Đoàn kiểm tra liên ngành quận Bình Tân - thành phố Hồ Chí Minh mở đợt kiểm tra
20 cơ sở may trên địa bàn phường Bình Hưng Hòa, phát hiện 41 lao động vị thành
niên đang làm việc. Qua khảo sát, cho thấy chỉ riêng phường này có đến 361 cơ sở
may, sử dụng gần 300 lao động vị thành niên [32]. Qua tiến hành khảo sát trẻ em lao động
sớm năm 2008 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, trên
địa bàn thành phố có khoảng 758 lao động dưới 16 tuổi, trong đó LĐTE nữ là 313, tập
trung nhiều nhất tại quận Bình Tân (262 em), tiếp đến là quận Tân Phú (149 em), quận 2
(87 em). [33, 52]. Số LĐTE tập trung trên địa bàn làm các nghề may gia công, thợ cẩn xà
cừ, cắt chỉ, làm dép, xấp giấy bạc mạ, may giầy, bán vé số, phục vụ nhà hàng, sửa chữa xe,
giúp việc nhà ...

 Tình hình LĐTE ở Đà Nẵng

55
Trẻ em lao động nặng nhọc còn tồn tại khắp nơi tại Đà Nẵng, hầu hết đều núp
bóng tự nguyện, người thân phụ giúp gia đình. Năm 2008, Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng phát hiện 100 trường hợp trẻ em lao động sớm
[32]. Hầu hết các em phụ giúp cho gia đình hoặc họ hàng tại các quán hàng tạp hoá.
Việc làm của các em không thường xuyên, không có ràng buộc bằng bất kỳ thoả
thuận hoặc hợp đồng cụ thể nào. Hàng trăm trẻ em dân tộc thiểu số các huyện
Phước Sơn, Hiệp Đức... đã bỏ học theo người lớn đi cõng hàng thuê cho những chủ
buôn lậu, phục vụ cho các bãi khai thác khoáng sản, khai thác vàng. Dù chính
quyền, ngành giáo dục các địa phương đã tốn nhiều công sức để giáo dục, tuyên
truyền, song do nhu cầu đời sống và nhận thức của các bậc phụ huynh nên thực
trạng này vẫn tồn tại và kéo dài.

 Tình hình LĐTE ở Bình Định

Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện nay toàn tỉnh có
hơn 550 trẻ em phải lao động sớm, trong đó có 34 em phải lao động trong điều kiện
độc hại, nguy hiểm [32]. Hiện tại đang có xu hướng trẻ em bỏ các vùng nông thôn
vào thành phố kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như: phụ hồ, khuân vác trái
cây ở các chợ, bán vé số, đánh giày, bán báo, bán hàng rong, giúp việc gia đình,
nhặt phế liệu, ăn xin.

 LĐTE trong các làng nghề

Năm 2007, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cã tiến hành
thanh tra việc sử dụng LĐTE tại 10 tỉnh: VÜnh Long, Long An, Thõa Thiªn HuÕ,
Qu¶ng B×nh, Thanh Ho¸, Yªn B¸i, Bµ RÞa-Vòng Tµu, Hµ Nam, B¾c Ninh vµ
§ång Nai, kÕt qu¶ cho thÊy:

Các ngành nghề sản xuất kinh doanh có lao động trẻ em

TT Nghề Tổng số Chia ra


LĐTE 16 đến 18 tuổi Dƣới 16 tuôỉ
1 Thêu ren, may mặc 8 5 3
2 Chế biến thuỷ sản - - -
3 Thủ công mỹ nghệ 40 33 7
4 Xây dựng - - -

56
5 Chế biến lâm sản 4 4
6 Phục vụ ăn uống 5 5 -
7 Chế biến nông sản 44 24 20
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội tính tại
thời điểm 30 tháng 10 năm 2007.

Qua số liệu trên đây và tình hình kiểm tra tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất,
làng nghề rút ra một số nhận xét như sau: Những doanh nghiệp lao động nặng nhọc
như xây dựng, điện lực, mỏ không phát hiện có lao động trẻ em; những doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không sử dụng lao động trẻ em; trẻ em lao
động chủ yếu trong những cơ sở thủ công, các làng nghề truyền thống như thêu ren
(Thanh Hoá), may mặc (Long An), bóc hạt điều (Long An), Chầm nón (Huế) và thủ
công mỹ nghệ. Tại 5 doanh nghiệp của tỉnh Long An, tổng số lao động là 2.705,
trong đó số lao động từ 16-18 tuổi là 57, lao động dưới 16 tuổi là 28; tại Thừa Thiờn
- Huế cú 4 lao động dưới 16 tuổi [32].

Tình hình thực hiện pháp luật lao động đối với LĐTE: Về hợp đồng lao động,
trong số 101 LĐTE có 58 em có ký hợp đồng lao động, chiếm 57% [32]. Những
người không có hợp đồng lao động đều được các chủ doanh nghiệp nhận là người
nhà vào học việc hoặc làm việc tạm thời, không ổn định; Về việc làm, những công
việc vừa với sức của các em, không độc hại, nặng nhọc theo danh mục nghề lao
động chưa thành niên không được làm; Về thời giờ làm việc và nghỉ ngơi: các em
đều phải làm việc theo thời gian làm việc của lao động bình thường, không có
doanh nghiệp nào thực hiện cho các em nghỉ hàng năm 14 ngày như quy định của
Bộ luật lao động. Các doanh nghiệp đều không có sổ theo dõi lao động chưa thành
niên riêng như quy định của luật lao động; Về trả lương, các em đều làm và ăn
lương theo sản phẩm như quy định của doanh nghiệp, không phân biệt người trưởng
thành hay trẻ em; Không có khám sức khoẻ định kỳ cho các em. Qua kiểm tra, các
đoàn đã đưa ra 28 kiến nghị để các cơ sở thực hiện đúng pháp luật lao động khi sử
dụng lao động chưa thành niên.

Năm 2008, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã tiến
hành thanh tra tại 10 tỉnh là Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, Thanh Hoá, Đồng

57
Nai, Bình Dương, Long An, thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình, Bắc Ninh, kết quả
như sau:

TT Tỉnh, thành phố Số doanh Tổng số Số doanh Số lao Số lao


nghiệp, lao động nghiệp, cơsở động chƣa động <
cơ sở sản sảnxuất sử thành niên 15 tuổi
xuất dụng LĐTE
thanh tra
1 Quảng Ngãi 05 185 0 0 0
2 Bình Định 06 777 0 0 0
3 Khánh Hoà 06 561 0 0 0
4 Thanh Hoá 15 7366 0 0 0
5 Đồng Nai 15 5281 01 184 03
6 Bình Dương 02 1402 02 17 0
7 Long An 02 101 02 21 0
8 Tp. Hồ Chí Minh 15 15.513 01 01 0
9 Thái Bình 03 1471 02 154 0
10 Bắc Ninh 03 1568 03 124 0
Tổng cộng 72 34.225 11 501 03
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc
triển khai thực hiện quy trình kiểm tra, thanh tình hình trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm năm 2008.

Qua số liệu trên cho thấy, có 11/69 doanh nghiệp được thanh tra có sử dụng
LĐTE, chiếm 15,94% tổng số doanh nghiệp được thanh tra. Trong tổng số 34.225
lao động có 501 lao động chưa thành niên chiếm 1,46%; có 03 lao động dưới 15
tuổi, chiếm 0,6% số lao động chưa thành niên; số lao động chưa thành niên làm
công việc nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm: 10 lao động, chiếm 2%
số lao động chưa thành niên [29].
Các ngành nghề hoạt động của 11 doanh nghiệp có sử dụng lao động chưa
thành niên như sau: May mặc: 05 doanh nghiệp (Công ty CP may Bắc Ninh, Công
ty CP thảm may Bắc Ninh, Nhà máy may Gia Bình, Công ty TNHH may Lan Lan,
Công ty CP may xuất khẩu Thái Bình) với 278 lao động chưa thành niên, chiếm
55,49% số lao động thành niên; sản xuất, gia công giày dép: 01 doanh nghiệp
(Công ty TNHH Đức Thành II - tỉnh Đồng Nai) sử dụng 184 lao động chưa thành
niên, chiếm 36,73% tổng số lao động chưa thành niên được thanh tra; thủ công mỹ
nghệ: 02 doanh nghiệp (Công ty TNHH Long Kim và Doanh nghiệp tư nhân Hoà

58
Thành Long An - tỉnh Long An) sử dụng 21 lao động chưa thành niên, chiếm
4,19% số lao động chưa thành niên; đồ gỗ nội thất: 01 doanh nghiệp (Công ty
TNHH Phồn Vinh - tỉnh Bình Dương) sử dụng 10 lao động chưa thành niên, chiếm
2%; đồ chơi, hoa giả: 01 doanh nghiệp (Công ty TNHH Jumviex Việt Nam - tỉnh
Bình Dương) sử dụng 07 người, chiếm 1,4% lao động chưa thành niên; sản xuất
thiết bị âm thanh: 01 người (Công ty TNHH N- Tech ViNa), chiếm 0,2% số lao
động chưa thành niên [29]. Sở dĩ các lĩnh vực may mặc, sản xuất, gia công giày
dép, thủ công mỹ nghệ sử dụng nhiều lao động chưa thành niên là do các ngành
này đòi hỏi nhiều lao động, không yêu cầu lao động có trình độ cao,…
Qua thanh tra cho thấy, các quy định của pháp luật lao động đối với lao
động chưa thành niên chưa được người sử dụng lao động thực hiện. Doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ. Cụ thể, về việc báo cáo
tình hình tuyển dụng, sử dụng lao động chưa thành niên với cơ quan lao động địa
phương: 8/11 doanh nghiệp chưa báo cáo tình hình tuyển dụng, sử dụng lao động
chưa thành niên với cơ quan lao động địa phương, 01 doanh nghiệp có báo cáo
nhưng không đầy đủ theo các nội dung theo quy định; về việc ký kết hợp đồng lao
động: 6/11 doanh nghiệp đã ký hợp đồng lao động đúng loại với người lao động
chưa thành niên, 02 doanh nghiệp giao kết hợp đồng không đúng loại, 02 doanh
nghiệp giao kết hợp đồng không đầy đủ (2/7 lao động được ký hợp đồng lao động).
Tại Công ty TNHH Đức Thành II sử dụng 184 lao động chưa thành niên nhưng
không ký hợp đồng lao động (chỉ có giao kết học việc với toàn bộ lao động), chỉ có
19/184 lao động có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu theo quy định; 8/11
doanh nghiệp chưa lập sổ theo dõi riêng đối với lao động chưa thành niên; về thực hiện
quy định thời giờ làm việc, chế độ nghỉ phép năm cho lao động chưa thành niên:
9/11 doanh nghiệp sử dụng lao động chưa thành niên nhưng chưa thực hiện quy
định về thời giờ làm việc (không quá 7 giờ/người/ngày hoặc 42 giờ/người/tuần),
chế độ nghỉ hàng năm (14 ngày/năm); 01 doanh nghiệp có thực hiện nhưng chưa
đầy đủ và chỉ có 01 doanh nghiệp thực hiện theo quy định về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động chưa thành niên quy định tại Điều 122 và Điều
74 Bộ luật lao động. Đặc biệt, Công ty TNHH Phồn Vinh sử dụng 10 lao động

59
chưa thành niên làm công việc nặng nhọc, độc hại nhưng không thực hiện chế độ
nghỉ hàng năm, không áp dụng thời giờ làm việc 7 giờ/ngày, huy động làm thêm
giờ quá 200 giờ/năm và quy định về thời giờ làm việc đối với công việc nặng nhọc,
độc hại. Ngoài ra, hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện các quy định về khám
sức khoẻ, lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ, chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cho
người lao động, chưa trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vào lương cho người
lao động chưa thành niên làm các công việc mang tính chất thời vụ dưới 3 tháng,...
[29].

2.2. Thực trạng chính sách, pháp luật của Việt Nam về LĐTE

2.2.1. Thực trạng chính sách về LĐTE

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là đường lối nhất quán, xuyên suốt
trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ngày đầu mới
thành lập (3-2-1930) dù trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, nhiệm vụ lớn nhất
lúc đó là giành được chính quyền nhưng Đảng vẫn giành mối quan tâm rất lớn cho
chính sách đối với trẻ em hay còn được gọi là nhi đồng, thiếu niên, thể hiện thái độ
cuộc cách mạng nhân dân xác định rất lớn. Trong Chương trình Việt Minh với tư
cách là một cương lĩnh vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
do Đảng cộng sản lãnh đạo được đưa ra trong những ngày tiền khởi nghĩa đã xác
định học sinh, nhi đồng như hai tầng lớp nhân dân - lực lượng của cách mạng: đối
với học sinh chính sách của Việt Minh là “bỏ học phí, mở thêm trường học, giúp đỡ
học trò nghèo” [19, 419] đối với nhi đồng thì chính sách là “được Chính phủ chăm
sóc đặc biệt về thể lực và trí dục” [19, 422]. Trong bài diễn ca Hồ Chí Minh viết, ý
tưởng này đã thành lời ca thân thiết:

“Trẻ em, bố mẹ khỏi lo

Dạy nuôi Chính phủ giúp cho đủ đầy

Thanh niên có trường học nhiều

Chính phủ trợ cấp trò nghèo, hàn nho'' [19, 422]

60
Vấn đề trẻ em (nhi đồng) nói chung và quyền của trẻ em nói riêng trong
Chương trình Việt Minh mang dấu ấn rất đậm nét, đặc thù của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thái độ, cách nhìn nhận của người sáng lập chế độ, sáng lập Nhà nước Chủ
nghĩa xã hội, tổ chức, xây dựng, lãnh đạo chính quyền nhân dân đối với bộ phận
dân cư quan trọng này, phản ánh vị trí của vấn đề trong đường lối chung của cách
mạng, vừa thể hiện cả tấm lòng, sự quan tâm, niềm hy vọng của Người đối với thế
hệ mầm non, người chủ tương lai, quyết định vận mệnh của đất nước, của chính
quyền [34, 18]. Sau này, trong tư tưởng của Bác về con người luôn dành một vị trí
và sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề trẻ em. Bác đã từng nói: “Muốn có chế độ Xã
hội chủ nghĩa thì phải có con người Xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người Xã hội
chủ nghĩa thì phải có tư tưởng Xã hội chủ nghĩa”. Rồi từ đó, đi đến phải “trồng
người”, phải giáo dục, rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ:

“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây

Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”

Như vậy, vấn đề trẻ em nói chung và quyền trẻ em (QTE) nói riêng được
cương lĩnh hoá trong Chương trình Việt Minh và sau đó Cách mạng tháng Tám
giành chính quyền về tay nhân dân lao động, đã được thể chế hoá về mặt Nhà nước
trong đạo luật cơ bản đầu tiên Hiến pháp năm 1946 mang dấu ấn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Hiến pháp năm 1959, đạo luật cơ bản thứ hai ra đời, tại thời điểm chính
quyền cách mạng Việt Nam vừa trải qua một bước ngoặt vĩ đại, giành độc lập miền
Bắc và chuyển miền Bắc sang thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Đây chính là
một minh chứng cho sự nhất quán về đường lối, chính sách trong vấn đề trẻ em của
Đảng ta. Đến năm 1960, thực hiện Chỉ thị số 197 của Ban bí thư Trung ương, toàn
dân đã có phong trào chăm lo và bảo vệ thiếu niên, nhi đồng diễn ra rộng khắp các
địa phương trong cả nước. Năm 1975, giành độc lập tại miền Nam và thống nhất đất
nước, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Vẫn nhất quán
với tư tưởng về con người, về trẻ em, Đảng ta tại có thêm những điều kiện mới để
chăm lo, giáo dục trẻ em. Năm 1979, chính sách, đường lối của Đảng về trẻ em
được cụ thể hoá trong “Pháp lệnh Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em”. Có thể

61
coi Pháp lệnh này là một trong những nền tảng pháp lý đầu tiên cho công tác Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục (BVCSGD) trẻ em. Cho đến nửa cuối những năm 80,
Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới Nhà nước về nhiều phương diện.
Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em (BVQTE) cũng 1à một bộ phận quan trọng của công
cuộc đổi mới này. Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng về công việc đối với trẻ
em được tiến hành theo cả chiều sâu và chiều rộng. Đường lối của Đảng về
BVCSGD trẻ em được cụ thể hoá trong pháp luật. Và chúng ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong suốt một thời gian dài kể từ khi đổi mới cho đến nay. Đầu
tiên về thành tựu lập pháp, hàng loạt các văn bản có hiệu lực pháp lý cao đã ra đời
nhằm thể chế hoá đường 1ối, chính sách của Đảng về trẻ em vào trong hệ thống
pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới. Đó là: Bộ luật Hình sự năm 1985 (sửa đổi,
bổ sung năm 1999), Luật hôn nhân gia đình 1986 (sửa đổi, bổ sung năm 2000), Luật
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân 1988. Đặc biệt là khi Công ước quốc tế về
Quyền trẻ em ra đời vào năm 1989, ngay sau đó, Việt Nam là nước đầu tiên của
châu Á và thứ hai của thế giới phê chuẩn Công ước này. Hơn nữa, Việt Nam còn
ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 1991, Luật Phổ cập giáo dục
tiểu học năm 1991, Luật Giáo dục 1998 nhằm cụ thể hoá các quy định của Công
ước vào hệ thống pháp luật quốc gia. Ngoài ra, Việt Nam còn tổ chức và thực hiện
nhiều Chương trình hành động Quốc gia Vì trẻ em trên nhiều lĩnh vực như giáo dục,
y tế, dinh dưỡng. Đặc biệt, sự ra đời của Chỉ thị số 38-CT/TW của Ban bí thư Trung
ương Đảng khóa VII ngày 30/5 1994, việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em trẻ em, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Chương trình hành động
Quốc gia Vì trẻ em 1991-2000 đã đạt được nhiều kết quả tốt. Điển hình là Chỉ thị
số 55 - CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở cơ
sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày 28/6/2000. Vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ trẻ em một lần nữa được khẳng định tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Tại đây, Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX được thông qua toàn văn với chủ trương
trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới. Văn kiện lại nhất quán tư tưởng xuyên suốt qua

62
các kỳ đại hội về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đặt nó vào vị trí ưu tiên hàng
đầu trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Như vậy, có thể thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam đều nhìn thấy vai trò của trẻ em trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Từ cách nhìn nhận này, Đảng và Nhà nước ta trong suốt một thời gian dài,
qua nhiều giai đoạn lịch sử, luôn coi trọng hàng đầu công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Đảng đã đề ra những đường lối, chính sách cụ thể về chính trị, pháp luật
và xã hội. Tất cả tạo nên một quá trình đồng bộ, nhất quán và toàn diện nhằm hướng
tới một chế độ chính trị - pháp lý hoàn chỉnh cho công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Vấn đề bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng phải lao động sớm, lao động nặng
nhọc, lao động trong những điều kiện độc hại, nguy hiểm (nói riêng) không nằm
ngoài tổng thể chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, là quan
điểm xuyên suốt và hết sức đúng đắn của Đảng và nhà nước ta; không những thể
hiện tính nhân văn, thể hiện tình cảm, đạo lý của dân tộc mà còn thể hiện rõ vai trò,
trách nhiệm của các Tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể, thể
hiện nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi gia đình và toàn xã hội trong việc bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em. Và điều đó đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận.

2.2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về LĐTE

2.2.2.1. Các văn bản pháp luật có liên quan đến LĐTE

Vấn đề LĐTE đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất sớm. Ngay từ
sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 29/SL ngày
12/3/1947 quy định các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ không được mướn trẻ em dưới 12
tuổi vào làm việc. Sở Lao động có quyền yêu cầu người chủ phải thay đổi hoặc thôi
không cho trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi vào làm những công việc quá sức mình sau
khi có sự xem xét của thầy thuốc. Nhà nước nghiêm cấm trẻ em trai dưới 15 tuổi và
phụ nữ ở bất kỳ độ tuổi nào làm những công việc dưới hầm mỏ hoặc công việc độc
hại, nguy hiểm mà Nhà nước đã quy định; không được sử dụng trẻ em làm ca đêm,
thời gian nghỉ giữa hai ca làm việc của lao động dưới 18 tuổi ít nhất là 11 giờ liên
tiếp. Những quy định này tuy còn sơ khai nhưng rất quan trọng của pháp luật Việt

63
Nam, nó góp phần bảo vệ LĐTE thời bấy giờ, vừa là cơ sở để hoàn thiện các quy
định trong các văn bản pháp luật sau này.

Pháp lệnh Hợp đồng lao động năm 1990, Pháp lệnh Bảo hộ lao động năm
1991, Nghị định 233/HĐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) có quy định độ tuổi tham gia quan hệ lao động của lao động chưa thành niên,
giới hạn cho phép được làm một số công việc nhất định phù hợp với khả năng, sức
khỏe của lao động chưa thành niên, đồng thời quy định trách nhiệm của người sử
dụng lao động trong quá trình sử dụng lao động chưa thành niên, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi.

Nghị định số 374/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày
14/11/1991 quy định chỉ được sử dụng LĐTE trong độ tuổi quy định làm những
công việc mà Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Nghị định nghiêm
cấm bắt trẻ em làm nghề ăn xin hoặc những công việc không lành mạnh để kiếm
tiền cho người lớn, việc lợi dụng danh nghĩa con nuôi để bóc lột trẻ em, bắt trẻ em
làm công việc nặng nhọc quá sức mình hoặc không trả công lao động cho trẻ em
tương xứng với công sức các em bỏ ra.

Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 13/6/1994 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/1995 (sửa đổi năm 2002, 2006, 2007) quy định những điều
khoản về lao động chưa thành niên: Điều 6: “Người lao động là người ít nhất đủ 15
tuổi, có khả năng lao động và giao kết hợp đồng lao động”; Điều 22 và Điều 23 quy
định người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất phải đủ 13 tuổi trừ một số nghề do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quy định: trong thời gian học nghề, tập nghề,
nếu trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp thì người học nghề,
tập nghề được trả công theo mức do hai bên thỏa thuận; Điều 120 quy định: “Cấm
nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định”; Điều 119 quy định: “Người lao động
chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Các em đang trong giai đoạn phát
triển nhanh về thể chất và tâm lý, thường tiếp thu nhanh trong công việc, năng động
và có nhiều sáng tạo trong lao động nhưng lại thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống,

64
trình độ tay nghề còn thấp, thiếu sự kiên trì, dẻo dai và dễ bị tác động bởi môi
trường khách quan, đặc biệt những tác động xấu sẽ ảnh hưởng không tốt đến phát
triển nhân cách.

Bộ luật Lao động kế thừa, tổng hợp và phát huy các văn bản pháp luật trước
dây, vừa có những quy định mới đối với lao động chưa thành niên như nghiêm cấm
việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào những công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm… nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho các em phát triển về
thể lực, trí lực, học tập và nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết về nghề nghiệp và
nhân cách, cũng như ý thức kỷ luật lao động. Thời giờ làm việc của lao động chưa
thành niên tối đa không quá 7 giờ một ngày, và chỉ phải thêm giờ, làm việc ban đêm
trong một số nghề, công việc mà Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định
(Điều 122). Ngoài ra Bộ luật Lao động còn quy định trong Điều 121: “Người sử
dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên vào làm những công việc
phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách
nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền
lương, sức khỏe, học tập trong quá trình lao động”.

Các văn bản hướng dẫn luật có Thông tư số 09/TT-LB ngày 13/4/1995 của
Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài Y tế quy định điều kiện lao
động có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên để bảo vệ sự
phát triển về thể lực, trí lực, nhân cách và đảm bảo an toàn lao động cho người chưa
thành niên. Những công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên bao gồm 81
nhóm công việc, những điều kiện lao động có hại đối với lao động chưa thành niên
bao gồm 13 nhóm. Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động và Thanh tra Nhà nước
về vệ sinh lao động tăng cường thanh tra các cơ sở sử dụng lao động chưa thành
niên để phát hiện và xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật. Các doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân phải thường xuyên rà soát lại các công việc của
lao động chưa thành niên và không được để các em làm việc trong các điều kiện lao
động và các công việc độc hại đã liệt kê trong Thông tư. Người sử dụng lao động
phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang

65
làm và phải kiểm tra sức khỏe khi tuyển dụng cũng như tiến hành kiểm tra sức khỏe
định kỳ cho các em.

Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn Bộ luật
Lao động có liên quan đến LĐTE khác như: Nghị định số 195/CP ngày 31/12/1994
của Chính phủ có những điều quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
Nghị định số 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ có những điều quy định về an
toàn vệ sinh lao động; Thông tư số 21/1999/TT-LĐTBXH ngày 11/9/1999 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục nghề, công việc và các điều
kiện được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc; Nghị định số 114/2002/NĐ-
CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định về tiền lương, tiền công; Nghị định số
44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ có những điều quy định về hợp
đồng lao động; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ có
những điều quy định về việc làm; Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của
Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội. Nghị định quy định một số chính sách và
chế độ cứu trợ xã hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho người già cô
đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng, người gặp rủi ro do thiên tai và những lý do bất
khả kháng khác mà bản thân họ và người thân của họ không thể tự khắc phục được;
Chỉ thị số 06/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/1998 về việc tăng
cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang,
trẻ em bị lạm dụng sức lao động; Chỉ thị số 766/TTg ngày 19/7/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về phân công trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc đưa
trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài; Quyết định số 134/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 31/5/1999 phê duyệt Chương trình hành động bảo vệ trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002; Chỉ thị số 34/1999/CT-TTg ngày
27/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh việc thực hiện các mục tiêu đến
năm 2000 về trẻ em, tổng kết Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em 1991-
2000 về trẻ em, và xây dựng Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em 2001-
2010; Chỉ thị số 03/2000/CT-TTg ngày 24/01/2000 của Thủ tướng Chính phủ về
việc đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí cho trẻ em; Thông tư số

66
01/1998/TT-BVCSTE ngày 07/3/1998 của Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt
Nam hướng dẫn Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp thực hiện Chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ số 06-TTg ngày 23/01/1998 về việc tăng cường công tác bảo
vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng
sức lao động; Kế hoạch công tác công an ngày 05/6/1998 số 538/1998/BNV (C11)
của Bộ Công an thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 06-TTg ngày
23/01/1998 về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình
trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động; Kế hoạch phối hợp hành
động liên ngành số 220 ngày 15/9/1999 của Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt
Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Công an triển khai Chương trình
hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai đoạn 1999-2002;
Quyết định số 190/1999/QĐ-LĐTBXH ngày 03/3/1999 của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ban hành tạm thời danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại
nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Tất cả các văn bản pháp luật trên đã tạo nên một hành lang pháp lý bảo vệ
lao động chưa thành niên và LĐTE trong quá trình lao động. Tuy nhiên, xuất phát
từ tình hình thực tế hiện nay của vấn đề LĐTE và trên thế giới, một khiếm khuyết
của hệ thống luật pháp đó là chưa bao trùm được hết các đối tượng là trẻ em đang
tham gia lao động. Việc xác định một khung pháp lý đối với người sử dụng lao
động hay những lao động đi ở hay tự bản thân trẻ em kiếm sống hay lao động trong
gia đình của chính các em (đặc biệt là trong lĩnh vực nông thôn) thì Nhà nước vẫn
chưa có một biện pháp hợp lý để can thiệp vào các đối tượng này. Vấn đề LĐTE
chưa được đặt nghiên cứu đầy đủ cho nên chưa có một khái niệm thống nhất về
LĐTE, chưa xác định rõ phạm vi của đối tượng là trẻ em lao động và một phân loại
rõ ràng về LĐTE và như vậy cách hiểu về vấn đề LĐTE, lao động vị thành niên, trẻ
em làm việc, trẻ em lang thang… vẫn còn có những lẫn lộn. Bên cạnh đó, xuất phát
từ tính đa dạng của các công việc mà trẻ em làm, nước ta còn thiếu một cơ chế kiểm
soát và xử phạt kịp thời, do vậy luật pháp chưa thật sự là một hàng rào pháp lý có
hiệu quả.

67
LĐTE và trẻ em làm việc là những đứa trẻ mà trước tiên các em phải được
sống trong một gia đình, nếu gia đình các em quá nghèo, nếu các em bị mồ côi, gia
đình tan vỡ thì họ hàng, đoàn thể, tổ chức xã hội và cuối cùng là ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội sẽ là những chỗ dựa của các em, các em phải được ăn no,
mặc ấm, được đi học, được vui chơi và được lớn lên để trở thành con người có sức
khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, góp phần làm cho đất nước giàu mạnh, phát
triển và văn minh. Hiện nay, các chính sách hiện hành có liên quan đến vấn đề
LĐTE thể hiện ở các lĩnh vực chủ yếu là các chính sách trợ cấp nuôi dưỡng, chính
sách giáo dục, văn hóa; chính sách khám chữa bệnh và chính sách về dạy nghề, việc
làm; các chính sách này mới chỉ tập trung vào đối tượng là trẻ em đang ở trong tình
trạng mồ côi không nơi nương tựa, lang thang, tàn tật… chứ chưa có chính sách hỗ
trợ trực tiếp đối với trẻ em đang tham gia lao động.

Các hoạt động cộng đồng, hay các hình thức tổ chức chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (thông qua các mô hình chăm sóc hay tư vấn cho các
em) được ăn, ở, được học văn hóa, học nghề ở nước ta rất đa dạng và được sự giúp
đỡ rất nhiều của các tổ chức phi Chính phủ của quốc tế, tuy nhiên những hoạt động
này chưa được tập trung vào đối tượng là LĐTE.

Công tác chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp và trong
các chương trình hành động của các ngành chức năng đều coi đối tượng trẻ em là
một trong những mục tiêu cần phải thực hiện, như chương trình xóa đói giảm
nghèo, chương trình giải quyết việc lam, chương trình dân số và kế hoạch hóa,
chương trình phát triển y tế, giáo dục… Do vậy, vẫn còn thiếu một cơ chế chính
sách lồng ghép các chương trình này lấy mục tiêu là LĐTE để nó sẽ là một trong
những giải pháp quan trọng trong chiến lược phòng ngừa ngăn chặn việc trẻ em
tham gia lao động.

2.2.2.2. Các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến LĐTE

68
Thực tế cho thấy, hầu hết trẻ em ở nước ta tham gia lao động từ nhỏ để giúp
đỡ bố mẹ làm các công việc vặt trong nhà hay tham gia lao động để góp thêm thu
nhập cho gia đình, các hoạt động lao động mà trẻ em đang làm hầu hết vì mục đích
mưu sinh cho bản thân và gia đình các em: luật pháp quốc gia ngăn cấm hẳn các em
làm việc thì nhiều khi lại là tước đi nguồn sống của các em. Thực tế, pháp luật nước
ta không cấm trẻ em tham gia lao động để kiếm sống, một mặt nhằm khuyến khích
những hoạt động lao động phù hợp với lứa tuổi và không ảnh hưởng đến việc học
hành của các em, mặt khác bảo vệ trẻ em đang tham gia lao động đồng thời nghiêm
cấm các hành vi lợi dụng, lạm dụng trẻ em về mặt kinh tế.

Xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em nói chung, về bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ phải tham gia lao động sớm, lao
động nặng nhọc, lao động trong điều kiện độc hại, nguy hiểm nói riêng; trên cơ sở
nhận thức đầy đủ về sự nguy hại của vấn đề LĐTE, về những yếu tố là nguyên nhân
phát sinh tình trạng LĐTE; đồng thời có sự tham khảo kinh nghiệm của các tổ chức
quốc tế, đặc biệt là ILO; các nhà hoạch định chính sách nước ta đã xây dựng đồng
bộ hệ thống chính sách, pháp luật nhằm ngăn ngừa và từng bước tiến tới xoá bỏ tình
trạng LĐTE, bảo vệ các em khỏi sự bóc lột về kinh tế và khỏi bất kỳ công việc gì có
thể gây nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối
với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội của
trẻ em, đảm bảo cho các em được phát triển hài hoà, toàn diện về thể chất, trí tuệ và
tinh thần.

Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến vấn
đề LĐTE gồm có: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật lao
động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007), Luật Bình đẳng giới năm
2006.

a. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

Quán triệt quan điểm của Đảng, trên cơ sở những nguyên tắc đã được ghi
nhận trong Hiến pháp về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, ngày 14/11/1979, Ủy
ban thường vụ Quốc hội nước ta đã ban hành Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và

69
giáo dục trẻ em. Pháp lệnh ra đời đã khẳng định mối quan tâm của Đảng, của nhà
nước đối với sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Sau hơn mười năm thi hành Pháp lệnh, để phù hợp với sự phát triển của kinh
tế xã hội của đất nước và của cộng đồng quốc tế, ngày 12/8/1991, Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (thay thế
Pháp lệnh năm 1979). Điều này càng chứng tỏ rằng: sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em ngày càng được xã hội đặc biệt quan tâm.

Qua gần mười tám năm thi hành, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 1991, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự nỗ lực của các tổ chức, cá nhân
và sự quan tâm ủng hộ của các tổ chức quốc tế, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em ở nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt cả trong nhận thức và trong tổ
chức thực hiện, nhiều mục tiêu dành cho trẻ em đã đạt được, các quyền cơ bản của
các em đã thực sự được đảm bảo. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, trong đó có
vấn đề về nhân quyền, cộng đồng quốc tế đã cam kết cùng nhau thực hiện các mục
tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu vì trẻ em, đặc biệt là vấn đề xóa bỏ LĐTE,
hành động tức thời nhằm loại bỏ những hình thức lao động tồi tệ nhất (Công ước
182 và Khuyến nghị 190) và kêu gọi toàn nhân loại chung tay, bảo đảm cho các em
có tương lai tốt đẹp.

Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, để phù hợp với luật pháp
quốc tế về quyền trẻ em, ngày 15/6/2004, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 1991, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã quy định những
vấn đề sau về LĐTE:

Về độ tuổi: trẻ em là công dân Việt nam dưới 16 tuổi (Điều 1).

Những nguyên tắc về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Không phân biệt
đối xử với trẻ em (Điều 4); Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu
(Điều 5); trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là của gia đình, nhà

70
trường, Nhà nước, xã hội và công dân (Điều 5); Các quyền của trẻ em phải được tôn
trọng và thực hiện. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát
triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật (Điều 6);

Các hành vi bị nghiêm cấm: Trong 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm (Điều
7), có ba nhóm hành vi liên quan đến LĐTE và những công việc nặng nhọc, điều
kiện lao động độc hại, nguy hiểm, những công việc ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân
cách của các em: Dụ dỗ, lừa dối, ép buộc trẻ em mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sử
dụng trái phép chất ma tuý; lôi kéo trẻ em đánh bạc; bán, cho trẻ em sử dụng rượu,
bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ; Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa
chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại tình dục trẻ em; Lạm dụng
LĐTE, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất
độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động;

Như vậy, vấn đề xóa bỏ LĐTE và hành động tức thời loại bỏ những công
việc tồi tệ nhất theo các Công ước của ILO đã được nội luật hóa. Đây là cơ sở, là
căn cứ cho việc xóa bỏ LĐTE và trước mắt là loại bỏ những công việc tồi tệ nhất
mà các em có nguy cơ phải thực hiện.

b. Bộ luật lao động

Bộ luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành
lần đầu năm 1994, sửa đổi năm 2002, 2006, 2007. Trong Bộ luật Lao động dành
riêng một mục trong Chương XI quy định riêng về Lao động chưa thành niên. Về
nguyên tắc, Bộ luật Lao động nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa
thành niên (Điều 119).

Về độ tuổi lao động: Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới
18 tuổi (Điều 119). Tuy nhiên, không phải bất cứ công việc gì cũng được sử dụng
lao động là người chưa thành niên mà " Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng
người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo
đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc
người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khỏe, học tập

71
trong quá trình lao động. Cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những
công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm
việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo Danh mục do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành." (Điều 121). Đối với trẻ em
dưới 15 tuổi, Bộ luật quy định: Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc. Tuy
nhiên, đối với một số nghề và công việc (do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định) thì có thể được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập
nghề. Việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha
mẹ hoặc người đỡ đầu (Điều 120).

Về thời giờ làm việc: Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên
không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần; Người sử dụng lao động
chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm
trong một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định
(Điều 122).

Về Danh mục các điều kiện có hại và các công việc cấm sử dụng lao động
chưa thành niên: Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế đã ban
hành Thông tư liên tịch số 09/TT-LB ngày 13/9/1995. Theo Thông tư số 09, có 13
điều kiện lao động có hại, cấm sử dụng lao động chưa thành niên; 81 nhóm công
việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên.

Về Danh mục nghề, công việc và các điều kiện được nhận trẻ em chưa đủ 15
tuổi vào làm việc: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
21/1999/TT - BLĐTBXH ngày 11/9/1999. Theo đó, có 04 nhóm nghề, công việc
được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc; 08 nhóm điều kiện để được nhận trẻ
em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc.

Ngoài ra, nhằm hạn chế những ảnh xấu đến sự phát triển toàn diện về thể lực,
trí tuệ và nhân cách của người lao động dưới 18 tuổi, Liên Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT -
BLĐTBXH - BYT ngày 09/12/2004 hướng dẫn, quy định danh mục chỗ làm việc,
công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh

72
dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Theo đó có 04 loại hình cơ sở kinh
doanh dịch vụ; 12 loại chỗ làm việc; 18 loại công việc không được sử dụng lao
động dưới 18 tuổi.

Về xử lý các hành vi vi phạm: Để các quy định nghiêm cấm nêu trên được
nghiêm chỉnh thực hiện, song song với việc tuyên truyền, giáo dục, cần có các chế
tài nghiêm khắc, nhằm răn đe, xử lý đối với những hành vi vi phạm. Các biện pháp
xử lý bao gồm: biện pháp hình sự, biện pháp hành chính, cụ thể:

 Biện pháp hình sự: Biện pháp này được quy định trong Bộ luật hình sự
năm 1999.

Hành vi sử dụng LĐTE đến một mức độ nào đó sẽ bị coi là tội phạm và
bị xử lý hình sự, cụ thể Điều 228 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội
vi phạm quy định về sử dụng LĐTE: “Người nào sử dụng trẻ em làm những
công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh
mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm”.

 Biện pháp hành chính: Biện pháp này được quy định trong Nghị định
số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ quy định xử phạt
(1)
hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động và Nghị định số
114/2006/NĐ-Cp ngày 03/10/2006 quy định xử phạt hành chính về dân
số và trẻ em( 2)

Đối tượng và phạm vi áp dụng của Nghị định số 113/2004/NĐ - CP:


quy định việc xử phạt hành chính đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam có hành
vi vi phạm pháp luật lao động mà không phải là tội phạm và theo quy định

(1) NĐ 113/2004/NĐ - CP đang tiến hành sửa đổi bổ sung, một trong những chủ trương là nâng
mức phạt tiền để đảm bảo tính răn đe.
(2) Nghị định số 114/2006/NĐ - CP đang trong quá trình SĐBS theo hướng tách riêng việc xử lý
hành vi vi phạm hành chính về trẻ em thuộc thẩm quyền của TTr Bộ LĐTBXH, hành vi vi phạm về Dân số
thuộc thẩm quyền của TTr Bộ Y tế; đồng thời tăng mức phạt tiền.

73
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính, xảy ra trong phạm vi lãnh
thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

Đối với hành vi vi phạm những quy định về lao động đặc thù (Điều 15):
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với tổ chức, cá nhân
có một trong những hành vi:… g) Không lập sổ theo dõi; kiểm tra sức khoẻ
định kỳ; lạm dụng sức lao động của người lao động chưa thành niên quy định
tại Điều 119 của Bộ luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung; h) Sử dụng lao
động chưa thành niên và người tàn tật làm việc quá bảy giờ một ngày hoặc
42 giờ một tuần quy định tại khoản 1 Điều 122 và khoản 4 Điều 125 của Bộ
luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung; 2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong những hành
vi: …b) Sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc; công việc
ảnh hưởng xấu tới nhân cách của người lao động chưa thành niên theo danh
mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành được
quy định tại Điều 121 của Bộ luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung”.

Phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 114/2006/NĐ - CP: Vi phạm


hành chính về dân số và trẻ em là những hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật về dân số và trẻ em do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính và Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với hành vi hành hạ, ngược đãi, làm nhục trẻ em; lợi dụng trẻ em
vì mục đích trục lợi (Điều 17): “1, Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000
đồng đối với một trong các hành vi: a) Lăng nhục, xúc phạm nhân phẩm,
danh dự, gây tổn thương về tinh thần của trẻ em; b) Đối xử tồi tệ, bắt nhịn
ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá
nhân, giam hãm ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm hoặc bắt làm những
việc trái với đạo đức xã hội; c) Bắt trẻ em đi xin ăn; cho thuê, cho mượn trẻ
em hoặc sử dụng trẻ em để xin ăn. 2, Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến

74
5.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm
thân thể trẻ em làm cho trẻ em đau đớn về thể xác và tinh thần. 3, Phạt tiền
từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức cho trẻ em đi
xin ăn”.

Đối với hành vi lạm dụng sức LĐTE, sử dụng sức LĐTE vào công việc
nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác
trái với quy định của pháp luật về lao động: “1, Phạt tiền từ 500.000 đồng đến
1.000.000 đồng đối với cha, mẹ bắt con, người giám hộ bắt trẻ em mà mình
giám hộ, người nhận nuôi dưỡng trẻ em bắt trẻ em mà mình nuôi dưỡng làm
công việc gia đình quá sức, quá thời gian, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển của trẻ em. 2, Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với
hành vi sử dụng trẻ em để mua, bán, vận chuyển hàng giả, hàng cấm, hàng
hoá, tiền tệ trái phép ở trong nước. 3, Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trẻ em để mua, bán, vận chuyển
hàng giả, hàng lậu, hàng hoá, tiền tệ trái phép qua biên giới”.

Trước đây, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện, nên theo Nghị định số
114/2004/NĐ-CP ngày 03/10/2006 Chính phủ giao cho Thanh tra viên Dân số, Gia
đình và Trẻ em đang thi hành công vụ; Chánh Thanh tra Dân số, Gia đình và Trẻ em
cấp tỉnh đang thi hành công vụ; Chánh Thanh tra Dân số, Gia đình và Trẻ em của
Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đang thi hành công vụ (Điều 26), có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Ngày
08/8/2007, theo quyết định số 1001/QĐ - TTg công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em chuyển giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý, vì vậy
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được
( 3 )
chuyển giao cho cơ quan thanh tra nhà nước về lao động cấp Bộ và cấp tỉnh .
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 27); Công an nhân dân, Bộ đội Biên

(3) Tuy nhiên, hiện nay đang xây dựng văn bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền han và tổ chức hoạt động của
cơ quan Thanh tra nhà nước về lao động (thay thế Nghị định số 31/2006/NĐ - CP ngày 29/03/2006 của
Chính phủ), trong đó sẽ bổ sung chức năng thanh tra về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

75
phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, cơ quan Thuế, Quản lý thị trường và Thanh tra
chuyên ngành khác (Điều 28), có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

c. Luật Bình đẳng giới

Để xoá bỏ quan niệm lạc hậu về giới, như trọng nam, khinh nữ; đề cao địa vị
của người đàn ông, dẫn đến các trẻ em gái thường phải tham gia lao động từ sớm,
với gánh nặng công việc khiến các em không còn thời gian học tập, vui chơi, giải
trí; Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành Luật bình đẳng giới quy định nguyên tắc
bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, với mục tiêu xoá
bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển
kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa
nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

Luật bình đẳng giới nghiêm cấm các hành vi: Cản trở nam, nữ thực hiện bình
đẳng giới; Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức; Bạo lực trên cơ sở giới...;

Về xử phạt hành chính các hành vi vi phạm về bình đẳng giới: Để xử lý


những hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, ngày 10/6/2009, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 55/2009/NĐ - CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về
bình đẳng giới. Theo đó, các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong
lĩnh vực lao động sẽ bị xử phạt.

Như vậy, việc ban hành Luật bình đẳng giới, Nghị định xử lý vi phạm hành
chính về bình đẳng giới là căn cứ xóa bỏ định kiến về giới, xóa bỏ quan niệm lạc
hậu về giới, góp phần xóa bỏ những thiệt thòi mà các em gái thường phải gánh chịu,
đó là phải lao động sớm, không có cơ hội được học tập. Đây cũng là yếu tố quan
trọng nhằm xóa bỏ tình trạng LĐTE.

2.2.2.3. Nhận xét các quy định của pháp luật Việt Nam về LĐTE

76
Qua phân tích ở trên, có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định ba nội dung
cơ bản đối với vấn đề LĐTE là: các quy định về tuổi được nhận vào làm việc; các
quy định đối với người sử dụng lao động và các quy định khống chế việc thực hiện
hợp đồng lao động; bên cạnh đó là các quy định xử phạt các hành vi vi phạm pháp
luật LĐTE.

 Về độ tuổi của trẻ em và tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc

Các quy định về độ tuổi được coi là trẻ em, người lao động hay người lao
động vị thành niên không khác những quy định của quốc tế mà nước ta đã phê
chuẩn. Nói chung về độ tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc là người từ đủ 15 tuổi
có khả năng lao động; quy định này có hợp lý ở chỗ nó xuất phát từ thực tế ở nước
ta tuổi 15 là trẻ em kết thúc việc học tại trường trung học cơ sở mà phần đông sau
khi tốt nghiệp trung học cơ sở các em không đi học nữa.

Dựa trên những khác nhau về tính chất công việc, ngưỡng tuổi này có những
riêng biệt. Tuổi học nghề của trẻ em cũng được hạ xuống là từ đủ 13 tuổi (Điều 22,
Bộ luật Lao động), một số công việc được phép nhận trẻ em vào học một số nghề
do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định. Bộ luật lao động quy định cấm
trẻ em dưới 15 tuổi vào làm việc trừ một số công việc do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội quy định (Điều 120, Bộ Luật lao động), tức là ngưỡng tuổi được
phép vào làm việc và học nghề được hạ xuống cho những công việc thuộc về năng
khiếu của trẻ em.

Một số công việc thì luật lại nâng tuổi lên như: Tuổi tối thiểu là 18 tuổi
người lao động được phép làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam
(Điều 1, Nghị định 85/1998/NĐ-CP); làm việc tại các nhà hàng, khách sạn, quán bar
(Thông tư 04/BLĐTBXH-TT); một số công việc và điều kiện làm việc nặng nhọc,
độc hại nguy hiểm (Thông tư 09/LB-TT)…

Xuất phát từ tình hình thực tế trên mà pháp luật của nước ta có thể điều chỉnh
nhằm tạo những thuận lợi tốt nhất cho trẻ em mà không vi phạm luật pháp quốc tế.

 Về việc giao kết hợp đồng lao động

77
Mọi trẻ em muốn làm việc phải có sức khỏe phù hợp với công việc, có giao
kết hợp đồng lao động, tức là phải có sự thỏa thuận đồng ý của các em. Đồng thời
người dưới 15 tuổi vào làm các công việc được phép thì phải có sự đồng ý bằng văn
bản và theo dõi của cha mẹ hay người đỡ đầu của em đó (Nghị định 198/CP). Nhằm
bảo vệ trẻ em trong quá trình lao động, Luật lao động quy định rất chặt chẽ trong
hợp đồng lao động các điều khoản về: các công việc phù hợp với sức khỏe, về tiền
lương (Điều 17-NĐ 197/CP), thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, kiểm tra sức
khỏe định kỳ và việc học tập của các em.

 Các quy định cấm và ràng buộc đối với người sử dụng lao động

Nhằm ngăn chặn việc vô tình hay cố ý mà người sử dụng lao động lạm dụng,
bóc lột sức lao động của trẻ em. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất cụ
thể về trách nhiệm của người sử dụng lao động chưa thành niên vào những công
việc phù hợp với sức khỏe để đảm bảo sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của
trẻ; phải thực hiện nghiêm chỉnh những quy định về chế độ lao động, đồng thời phải
có sổ theo dõi riêng ghi đầy đủ họ tên ngày sinh và công việc đang làm và phải theo
dõi kết quả những lần kiểm tra định kỳ sức khỏe và xuất trình khi thanh tra lao động
yêu cầu. Ngoài tiền lương và các chế độ khác ra, người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm quan tâm, chăm sóc về mặt lao động, sức khỏe và học tập của trẻ em
trong quá trình lao động (Bộ luật lao động).

Từ đó, có thể thấy pháp luật Việt Nam quy định khá đầy đủ về LĐTE. Nó
bao hàm không chỉ lao động chưa thành niên mà còn có hiệu lực đối với cả những
trẻ em dưới 15 tuổi đang tham gia lao động. Bên cạnh đó, trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn ở Việt Nam, trong đó có trẻ em làm việc luôn được quan tâm trước
tiên thể hiện bằng các quy định rất cụ thể trong văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành.
2.3. Đánh giá thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE khi Việt Nam phê
chuẩn các công ƣớc quốc tế về LĐTE

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc

78
Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Người Việt
Nam vốn có truyền thống yêu thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là
nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm
tin và sự hãnh diện. Vì vậy, ngay từ thời xa xưa, các nhà nước phong kiến đã đề ra
những quy định bằng pháp luật để bảo vệ trẻ em; nhân dân cũng tự hình thành các
quan hệ đạo đức nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ngay từ khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc
biệt đối với trẻ em. Nhiều chủ trương, chính sách ban hành đều hướng tới mục tiêu
vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của
trẻ em. Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách tầm chiến
lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng và đã đào tạo được những lớp người giàu
lòng yêu nước, có sức khỏe, có văn hóa, hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội
được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày
20/02/1990), và tham gia hai công ước quốc tế về LĐTE (Công ước 138 và Công
ước 182). Việc Việt Nam tham gia các công ước quốc tế về LĐTE đã làm thay đổi
khá nhanh nhận thức và hành động đối với trẻ em và thực hiện quyền trẻ em ở Việt
Nam. Nhà nước đã ban hành luật và các văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy
chuẩn, chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các dự án, xây dựng tổ chức
bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức cung
cấp dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nhờ đó công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em đã có những chuyển biến tích cực. Điều đó được thể hiện ở
các nội dung sau:

Một là, hệ thống giáo dục quốc dân khá hoàn chỉnh được phát triển, bao
gồm đủ các cấp học, bậc học dưới nhiều hình thức theo hướng xã hội hóa như công
lập, dân lập và tư thục; cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục được tăng cường. Việc
xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện được đẩy mạnh. Tỷ lệ học sinh
trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học, trung học cơ sở đều tăng. Phổ cập trung học cơ

79
sở đang được triển khai đến hơn một nửa số tỉnh, thành phố trên cả nước. Tỷ lệ trẻ
em đi học có xu hướng tăng ở các cấp học từ mầm non đến trung học cơ sở. Điều
này cho thấy quyền đi học của trẻ em ngày càng được bảo đảm. Năm học 2007 -
2008, tỷ lệ trẻ em đến nhà trẻ tăng bình quân 3,8%/năm, mẫu giáo tăng 2,4%/năm;
trẻ từ 3 tuổi đến 5 tuổi đi học đạt 66,6% số trẻ trong độ tuổi; học sinh tiểu học đi
học đúng độ tuổi đạt 96,06%; học sinh trung học cơ sở đi học đúng độ tuổi đạt
82,69%; tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm dần. Đến tháng 9-2008, có 42/63 tỉnh,
thành phố (chiếm 66,7%) đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và được công
nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính đến tháng 6-2008, toàn quốc có 6.217 trường
đạt chuẩn quốc gia, trong đó mầm non chiếm khoảng 13%, tiểu học là 30%, trung
học cơ sở là 8% và trung học phổ thông là 5% [28]. Điều này góp phần quan trọng
trong việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ tình trạng LĐTE bởi lẽ, việc khắc phục yếu
kém của giáo dục sẽ giúp các gia đình phần nào bớt đi gánh nặng về kinh tế, tạo
điều kiện cho các em được học tập. Mặt khác, sự nỗ lực của Nhà nước nhằm hạn
chế tình trạng thất học, bỏ học góp phần tránh cho các em phải lao động sớm trướ
tuổi, ngăn ngừa tình trạng LĐTE phát sinh.

Hai là, công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em ngày càng được cải thiện. Mạng
lưới y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp. Hầu hết các xã, phường đều có trạm y tế.
Trẻ em nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế
công lập trên toàn quốc. Các chỉ số về tỷ lệ suy dinh dưỡng, trẻ em tử vong, bà mẹ
tử vong đều giảm. Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trẻ em bị tai nạn thương
tích ngày càng được quan tâm. Công tác khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới
6 tuổi đang được triển khai thực hiện có hiệu quả. Tính đến cuối năm 2008, khoảng
10 triệu trẻ em đã được cấp phát thẻ khám chữa bệnh, đạt trên 99% tổng số trẻ em
dưới 6 tuổi trên toàn quốc; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng chỉ còn 22,7%
[28]. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật để trợ giúp các đối tượng
yếu thế trong xã hội, góp phần tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, từ đó bảo
đảm cho con cái họ được học tập, không phải tham gia các hoạt động kinh tế quá
sớm.

80
Ba là, nhận thức của trẻ em và người chưa thành niên đã từng bước được
nâng cao. Các em được cung cấp các kiến thức, kỹ năng để tự chăm sóc và bảo vệ
mình; cơ hội và hoạt động tăng cường sự tham gia của trẻ em đang dần được mở
rộng. Các em ngày càng có điều kiện bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động có
liên quan đến mình dưới nhiều hình thức và ở các cấp độ như: ở trường học, ở địa
phương, ở cấp quốc gia và quốc tế. Tính đến cuối năm 2008, cả nước có trên 220
nhà văn hóa thiếu nhi, nhà thiếu nhi; 3.673/8.895 xã có nhà văn hóa; 37.124/73.793
thôn có nhà văn hóa; 7.854 xã và 34.303 thôn có sân thể thao; 148 điểm vui chơi
dành cho trẻ em cấp tỉnh và tương đương; 773 điểm vui chơi cấp huyện và tương
đương; 8.654 điểm vui chơi cấp xã, phường [28]. Đến nay, đã có gần 20 tờ báo
dành cho trẻ em như: Hoa học trò, Mực tím, Thiếu niên Tiền phong, Nhi đồng và có
trên 10 tờ báo, tạp chí với những chuyên trang phục vụ trẻ em như: Gia đình và Xã
hội, Gia đình và Trẻ em, Kế hoạch hóa gia đình, Thanh niên, Tiền phong, Tạp chí
Thanh niên, Tạp chí Người phụ trách, Tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa, v.v..
Trung bình hằng năm có 15% số xuất bản phẩm phục vụ trẻ em. Hệ thống thư viện,
trong đó có phòng đọc, sách báo dành riêng cho trẻ em được hình thành và phát
triển nhằm thu hút đông đảo trẻ em. Đến nay, 100% số thư viện cấp tỉnh và 30% số
thư viện cấp huyện, xã và nhiều khu dân cư đã có các đầu sách, túi sách lưu động
dành cho trẻ em [28]. Sự tham gia hoạt động của trẻ em cũng được quan tâm và đẩy
mạnh. Tính đến cuối năm 2008, có 18 triệu trẻ em tham gia Đội Thiếu niên Tiền
phong, Sao Nhi đồng, 17.000 câu lạc bộ quyền trẻ em, 44 câu lạc bộ Phóng viên
nhỏ với 2.500 thành viên chính thức đang hoạt động ở 22/63 tỉnh, thành phố và
hàng chục ngàn trẻ em tham gia, đối thoại, diễn đàn ở cấp tỉnh, thành phố, cấp quốc
gia và quốc tế về nhiều chủ đề và lĩnh vực trẻ em quan tâm [28].

Bốn là, trong những năm qua, gia đình, cộng đồng và Nhà nước luôn luôn
quan tâm, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện cho các em phát
triển đầy đủ thể chất và tinh thần. Nhiều em đã được hưởng các chính sách, chế độ
và nhận nuôi dưỡng. Tính đến cuối năm 2008, có 75% số trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, dưới nhiều hình thức [28]. Trẻ khuyết

81
tật được chăm sóc dưới các hình thức khác nhau tại các mô hình dựa vào gia đình
và cộng đồng, các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước. Nhiều chương trình được
triển khai hiệu quả, nhằm trợ giúp trẻ em khuyết tật như phẫu thuật mắt, phẫu thuật
tim bẩm sinh, hỗ trợ trẻ em nạn nhân của chất độc hóa học, 69.750 em đã được
chăm sóc, phục hồi chức năng và phẫu thuật chỉnh hình [28].

Thực hiện Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010, ngành dân số, gia đình và trẻ em
trước đây và nay là ngành lao động, thương binh và xã hội đã phối hợp với chính
quyền địa phương, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và cộng đồng trong việc bảo đảm
để trẻ em và gia đình các em đi lang thang hoặc có nguy cơ đi lang thang được học
văn hóa, học nghề, tìm việc làm, giúp các em hồi gia và hòa nhập cộng đồng, gia
đình các em được vay vốn dưới dạng ưu đãi. Có 6.429 trẻ em lang thang hồi gia
được hỗ trợ giải quyết khó khăn; 4.673 trẻ em lang thang trở về gia đình được hỗ
trợ học nghề, tạo việc làm; 5.967 trẻ em lang thang được hỗ trợ đi học; theo báo cáo
của các địa phương năm 2008, cả nước có 26.027 trẻ em lao động trong điều kiện
nặng nhọc độc hại, nguy hiểm, 17.927 trẻ em lang thang và 3.436 em làm việc xa
gia đình được chăm sóc [28].

Về mặt pháp luật, từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về LĐTE, Việt Nam đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật để cụ thể hoá các quy định của Công ước: Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004); Bộ
Luật Hình sự năm 1999 quy định về các tội danh liên quan đến sử dụng LĐTE, tội
lôi kéo, sử dụng trẻ em vào các hoạt động bất hợp pháp như ma tuý, mại dâm …;
Bộ Luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007) quy định cấm
sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng
xấu tới nhân cách của họ…

82
Các quy định của pháp luật Việt Nam về LĐTE đã đáp ứng được các chuẩn
mực của các công ước của tổ chức lao động quốc tế về LĐTE. Cụ thể: Quy định về
khái niệm trẻ em là người dưới 18 tuổi tại Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004; Điều 18, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005; Điều 68, Bộ
luật Hình sự 1999, Điều 16 và Điều 120 của Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi, bổ
sung năm 2002, 2006, 2007); Điều 2, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1981; Quy định
các hình thức LĐTE tồi tệ nhất gồm buôn bán và vận chuyển trẻ em (Điều 8, Luật
BVCSGD trẻ em quy định nghiêm cấm việc bắt trộm, bắt cóc, mua bán trẻ em, Điều
120, Bộ luật hình sự quy định về tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em); về lao
động cưỡng bức (Điều 5, Bộ luật lao động, Điều 228 Bộ luật hình sự, Điều 7, Luật
người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006); về sử dụng,
dẫn dắt hoặc dụ dỗ trẻ em để mại dâm, sản xuất văn hoá phẩm khiêu dâm hoặc biểu
diễn khiêu dâm (Điều 7, Luật BVCSGD trẻ em năm 2004; Điều 252 đến 256, Bộ
luật hình sự)); Quy định về sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động
bất hợp pháp nói riêng (Điều 25, Bộ luật lao động), về sử dụng, lôi kéo trẻ em vào
mục đích sản xuất, vận chuyển ma tuý (chương XVIII, Bộ luật hình sự; Điều 7, Luật
BVCSGD trẻ em), về cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công
việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc
công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ (Điều 198, 200, Bộ luật hình sự);
Quy định về những công việc mà tính chất hoặc hoàn cảnh của chúng khi tiến hành
có thể xâm hại đến sức khoẻ, sự an toàn vào đạo đức của trẻ em (Điều 7, Luật
BVCSGD trẻ em; Điều 119, 120, 121 Bộ luật lao động), quy định về cấm sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc
tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân
cách của họ (Điều 122 Bộ luật lao động), Điều 228 Bộ luật hình sự). Ngoài các văn
bản nêu trên, sau khi phê chuẩn Công ước 182, một số văn bản đã được ban hành để
hỗ trợ việc thực hiện Công ước như: Nghị quyết số 41/2000/QH10 ngày 09/12/2000
về việc thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở, Thông tư liên Bộ số 09/TT-LB
ngày 13/4/1995 của Liên bộ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Y tế quy định
các điều kiện lao động có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành

83
niên, Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH ngày 11/9/1999 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội về việc quy định danh mục nghề, công việc và các điều kiện
được nhận trẻ chưa đủ 1 tuổi vào làm việc, Quyết định số 1453/LĐTBXH-QĐ ngày
13/10/1995 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành
tạm thời danh mục nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm và nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm ...4

2.3.2. Những khó khăn, tồn tại

Bên cạnh những thành tựu trên, công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em vẫn còn
nhiều hạn chế và thách thức, việc sử dụng LĐTE và lạm dụng sức lao động của trẻ
em đang diễn ra trên diện rộng và có chiều hướng ngày càng phức tạp. Cụ thể:

Thứ nhất, việc xác định trẻ em lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại
và nguy hiểm là vấn đề khó khăn do sự chuyển đổi nhanh của đối tượng tham gia
lao động, năm nay là trẻ em nhưng năm sau đã vượt quá ranh giới đó. Ranh giới
giữa nhóm trẻ lao động trong điều kiện độc hại, nguy hiểm và nhóm trẻ lang thang
kiếm sống là khó phân định, trong khi đó, hoạt động đánh giá tình trạng trẻ em lao
động nặng nhọc mới chỉ trên góc độ nhận định, không có định hướng cụ thể, chính
xác. Các hoạt động can thiệp hầu như không được thực hiện do kết quả khảo sát
không có trẻ lao động nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại.

Thứ hai, hầu hết các tỉnh đều báo cáo không có trẻ em lao động nặng nhọc
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm và trên thực tế khó xác định rõ ràng vấn đề này.
Các số liệu trong báo cáo của phần trẻ em lao động nặng nhọc hầu như được thông
tin dưới một khái niệm khá chung, đó là “trẻ em lao động sớm” và các nghề được
thống kê trong một số báo cáo bao gồm: trẻ tham gia may gia công, làm áo mưa,
làm phấn, cơ khí, đánh bắt thủy sản, chạy bàn, bưng bê đồ ăn … Nhìn chung các cơ
sở sản xuất sử dụng LĐTE thường nhỏ, không đăng ký lao động, thuê nhân công
4
Phạm vi điều chỉnh của các văn bản Luật, Nghị định nêu trên: hiện nay Luật BVCSGDTE, Bộ luật hình
sự đều được áp dụng cho mọi đối tượng trên phạm vi cả nước.Riêng Bộ luật lao động và các văn bản hướng
dẫn về vấn đề LĐTE thì hiện nay chưa áp dụng cho các khu vực nông nghiệp, các nghề thủ công mỹ nghệ,
lao động gia đình.

84
theo thời vụ và chật hẹp, không đảm bảo được nơi ăn, nghỉ cho người lao động. Vào
thời gian cần phải trả hàng, thời gian lao động của người lao động có thể lên đến 12
tiếng/ngày. Tuy nhiên, chính quyền địa phương cũng như cơ quan quản lý nhà nước
chưa nắm bắt và kiểm soát được tình hình sử dụng LĐTE, đặc biệt tại các cơ sở sản
xuất, các làng nghề, các hộ gia đình và tại các cơ sở không đăng ký lao động. Khi
nắm bắt được thông tin cơ sở có sử dụng LĐTE, Đoàn thanh tra hoặc Đoàn kiểm tra
đến làm việc thì chủ cơ sở thường có thái độ trốn tránh, che giấu LĐTE như cho trẻ
em nghỉ làm … do đó, mục đích thanh kiểm tra của đoàn không đạt được. Do vậy,
mặc dù trong hai năm, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức
thanh tra tại 20 tỉnh, thành phố trong cả nước nhưng số lượng LĐTE phát hiện qua
thanh tra không nhiều, những vụ nổi cộm về lạm dụng LĐTE chỉ phát hiện qua hoạt
động tác nghiệp của báo chí [33, 71].

Thứ ba, trong việc quản lý, do phân định rạch ròi việc trẻ em lao động sớm
và lao động nặng nhọc nên các biện pháp can thiệp cũng khó xác định. Nghị định số
114/2006/NĐ-CP ra đời cho phép xử phạt chủ sử dụng lao động có hành vi vi phạm
pháp luật đã thực sự giúp cho những người làm công tác chăm sóc trẻ em có những
biện pháp can thiệp tích cự hơn khi nhận thấy cần phải bảo vệ cho trẻ. Tuy nhiên
mặt trái của nó dẫn đến việc các cơ sở sản xuất không còn sử dụng LĐTE nữa và
các em này đã mất đi cơ hội có việc làm để kiếm sống và tăng thu nhập cho gia
đình.

Thứ tư, các hoạt động như xây dựng các mô hình dạy nghề và giải quyết việc
làm cho trẻ em và gia đình trẻ em phải lao động nặng nhọc được xây dựng tại Hà
Nam, Thái Nguyên, Ninh Bình, Long An và Vĩnh Long. Tuy nhiên những đối tượng
này phần lớn thuộc các gia đình có hoàn cảnh hết sức khó khăn nên việc tổ chức
dạy nghề cho các em cũng như động viên gia đình chuyển đổi ngành nghề còn
nhiều bất cập, do vấn đề quyết toán kinh phí ở đây rất chặt chẽ. Kinh phí học nghề 1
triệu đồng cho một em là quá hạn hẹp, vì thế chưa thu hút được các em đi học và
không giải ngân hết.

85
Thứ năm, kiến thức pháp luật lao động về trẻ em của chủ sử dụng lao động
còn hạn chế, dẫn đến nhận thức không đúng hoặc nhận thức chưa đầy đủ về sử dụng
LĐTE, do vậy trong quá trình sử dụng LĐTE tại cơ sở đã có những vi phạm về
quyền trẻ em. Đồng thời, do kiến thức về LĐTE có hạn nên thay vì cải thiện điều
kiện làm việc, sử dụng LĐTE đúng quy định, nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã
không sử dụng LĐTE, dẫn đến giảm cơ hội làm việc cho trẻ em thực sự có nhu cầu
lao động để có thu nhập.

Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay của lao động trẻ em ở nước
ta cũng như trên thế giới, một khiếm khuyết của hệ thống pháp luật về lao động trẻ
em đó là chưa bao trùm hết được các đối tượng là trẻ em đang tham gia lao động.
Việc xác định một khung pháp lý đối với người sử dụng lao động, những lao động
đi ở hoặc tự bản thân trẻ em kiếm sống hay lao động trong chính gia đình các em
(đặc biệt trong khu vực nông thôn) thì Nhà nước vẫn chưa có một biện pháp hợp lý
để can thiệp vào các đối tượng này. Vấn đề lao động trẻ em chưa được nghiên cứu
đầy đủ cho nên chưa có một khái niệm thống nhất về lao động trẻ em, chưa xác định
rõ phạm vi của đối tượng là trẻ em lao động và phân loại rõ ràng về lao động trẻ em.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính đa dạng của các công việc mà trẻ em làm, nước ta
còn thiếu một cơ chế kiểm soát và xử phạt kịp thời, do vậy, luật pháp chưa thật sự là
một hàng rào pháp lý có hiệu quả.
Có thể nói, trẻ em có nhu cầu lao động kiếm sống là một thực tế khách quan
do nhiều nguyên nhân khác nhau: do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn như đông
con, gia đình nghèo … buộc các em phải tìm cách lao động để tự kiếm sống và góp
phần nuôi gia đình; do bản thân không còn nơi nương tựa, bố mẹ, gia đình vô trách
nhiệm với con cái; một số khác do học kém, không thể tiếp tục theo học hoặc ảnh
hưởng của lối sống buông thả, tự do nên đã bỏ học để đi tìm việc làm kiếm sống.
Mặt khác, chính quyền địa phương cũng như cơ quan chức năng quản lý nhà nước
về lao động, về bảo vệ, chăm sóc trẻ em của địa phương chưa nắm chắc được tình
hình trẻ em lao động tại các ngành nghề ở địa phương mình, do vậy, chưa có biện
pháp quản lý số lao động này cũng như chưa có các giải pháp nhằm phát hiện, giúp

86
đỡ các em có hiệu quả. Do đó, công tác thanh tra, kiểm tra về tình hình sử dụng
LĐTE phải được duy trì thường xuyên. Đồng thời, với tính chất phức tạp và nhạy
cảm như vậy, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý tình trạng LĐTE trong điều kiện
độc hại, nguy hiểm đòi hỏi phải được thực hiện ngay từ cấp cơ sở (cụm dân cư,
thôn, ấp, xóm, bản; xã, phường, thị trấn) với sự tham gia giám sát, kiểm tra của
chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, các Trưởng thôn, Trưởng bản và dân
cư tại cộng đồng, tiếp đó là sự chủ động, tích cực của cơ quan quản lý nhà nước về
Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện (Phòng Lao động - Thương binh và
Xã hội) chứ không chỉ có sự can thiệp từ cấp Sở, cấp Bộ như hiện nay. Chỉ trong
trường hợp các vụ việc phức tạp, không thuộc thẩm quyền của địa phương thì mới
đề xuất kiến nghị cấp trên có thẩm quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra xác minh, kết
luận và kiến nghị biện pháp xử lý.

Kết luận chƣơng 2

Hiện tại, vấn đề ngăn ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam, quan trọng nhất là trong Bộ luật Lao động.
Tương ứng với các tiêu chuẩn cơ bản trong các Công ước số 138 và Công ước số
182 của ILO, Bộ luật Lao động (2002) quy định: Độ tuổi lao động tối thiểu là 15
(với những công việc nặng nhọc, độc hại là 18); Chỉ được nhận trẻ em dưới 15
tuổi vào làm một số nghề, công việc với những điều kiện chặt chẽ; Cấm sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp
xúc với các chất độc hại hoặc ảnh hưởng xấu tới nhân cách… Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục Trẻ em (2004) nghiêm cấm một loạt hành vi bóc lột, lạm dụng
hoặc xô đẩy trẻ em vào hoàn cảnh bị bóc lột, lạm dụng. Bộ luật Hình sự (1999)
quy định nhiều tội danh về sử dụng lao động trẻ em với các mức hình phạt
nghiêm khắc. Nhằm phòng ngừa lao động trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học
(1991) và Luật Giáo dục (2004) quy định chi tiết về quyền học tập của trẻ em, đặc
biệt là quyền được học tiểu học miễn phí... Bên cạnh đó, từ năm 1991, Chính phủ

87
Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình có tác dụng ngăn ngừa và xoá bỏ tình
trạng lao động trẻ em, như Chương trình Hành động Quốc gia vì trẻ em Việt Nam
giai đoạn 2001-2010; Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình hành động quốc gia
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004-2010... Các chương trình
trên đã huy động được sự tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
cộng đồng và cá nhân có liên quan vào việc ngăn ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em.
Xét tổng quát, pháp luật Việt Nam đã phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế
cơ bản về lao động trẻ em; tuy vẫn còn một số tồn tại, với quyết tâm mạnh mẽ và
sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn hệ thống chính trị với việc giải quyết vấn đề
lao động trẻ em, những hạn chế này chắc chắn sẽ sớm được khắc phục trong thời
gian tới.

88
Chƣơng 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

3.1. Mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta trong giải quyết vấn
đề lao động trẻ em

Nhận thức tầm quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
ngay từ khi giành chính quyền, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản pháp luật bảo vệ
trẻ em khỏi bóc lột, lạm dụng sức lao động, đặc biệt Bộ luật Lao động được Quốc
hội thông qua ngày 13/6/1994 và Bộ luật sửa đổi, bổ sung đã kế thừa, tổng hợp và
phát huy các văn bản pháp luật trước đó, đồng thời đã đưa ra các quy định mới đối
với lao động chưa thành niên như: Nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của
người chưa thành niên vào làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm...
nhằm bảo vệ và tạo điều cho các em phát triển về thể lực và trí lực, học tập nâng
cao trình độ; thời gian làm việc của lao động chưa thành niên tối đa không quá 7 giờ
một ngày và chỉ phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề và công
việc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định; người sử dụng lao động chỉ
được sử dụng lao động chưa thành niên vào làm những công việc phù hợp với sức
khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm
chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức
khoẻ, học tập trong quá trình lao động.

Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010 cũng đã
được xây dựng và thực hiện, trong đó bốn lĩnh vực chủ yếu được quan tâm trong
chương trình hành động quốc gia vì trẻ em là: tăng cường sức khoẻ, dinh dưỡng tuổi
thơ; giáo dục cơ sở có chất lượng; bảo vệ trẻ em khỏi lạm dụng, bạo lực, bóc lột và
hiểm hoạ HIV/AIDS; đẩy mạnh sinh hoạt văn hoá, thể thao, xây dựng đời sống tinh
thần vui tươi, lành mạnh.

Liên quan đến lĩnh vực tăng cường sức khoẻ, dinh dưỡng tuổi thơ, Chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em khẳng định: “ đảm bảo mọi tuổi thơ đều có sức

89
khoẻ tốt bằng việc được hưởng các dịch vụ sức khoẻ cơ bản, chất lượng cao, được
cung cấp và chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc thích hợp về dinh dưỡng… đảm
bảo mọi trẻ em được sử dụng nước sạch”.

Về giáo dục, cần “đảm bảo mọi trẻ em được giáo dục những kiến thức văn
hoá cơ bản, có kiến thức về cuộc sống, xã hội, có phương pháp, kỹ năng thực hành
và có ý thức đạo đức công dân tốt. Từ đó các em có thể tham gia một cách tích cực,
năng động, đầy đủ với tư cách là những lao động và những công dân có ích cho xã
hội. Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, không để trẻ em
nào bị mù chữ, đồng thời phổ cập trung học cơ sở trên toàn quốc vào năm 2010;
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới căn bản và toàn diện nội dung và
phương pháp giáo dục; tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và thực
hành”.

Để trẻ em khỏi bị lạm dụng, bạo lực, bóc lột và hiểm hoạ của HIV/AIDS, cần
“đảm bảo tối đa số trẻ em được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối sử, bị ngược đãi, bị
bóc lột, bị xâm hại và trẻ em được phòng ngừa, bảo vệ trong các tình huống đặc
biệt. Nâng số lượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hỗ trợ, giúp đỡ để
phòng ngừa các nguy cơ bạo lực, bị xâm hại và các hình thức buôn bán trẻ em tồi tệ
nhất; hạn chế mức thấp nhất tai nạn, thương tích ở trẻ em, tiến tới xây dựng một
chiến lược quốc gia về an toàn cho trẻ em”.

Về văn hoá vui chơi cho trẻ em, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
nhấn mạnh: “tạo mọi điều kiện để trẻ em được phát triển trí, đức, thể, mỹ thông qua
việc tiếp cận hàng ngày đối với các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức
văn hoá, thể thao và sự tham gia của trẻ em vào các hoạt động của đội thiếu niên
tiền phong, Sao nhi đồng, các câu lạc bộ trẻ em ; hỗ trợ cộng đồng sử dụng các
nguồn lực của mình để tổ chức vui chơi cho trẻ em , thông qua đó thúc đẩy sự phát
triển nhận thức, tình cảm và xã hội của trẻ em”

Chương trình hành động năm 2001-2010 được xây dựng trên cơ sở:

90
 Tổng kết đánh giá những tiến bộ, tồn tại, thách thức và bài học kinh
nghiệm trong việc thực hiện chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
năm 1991 - 2000, đồng thời tham khảo bản dự thảo tuyên bố Chương
trình hành động của khoá họp đặc biệt của Liên hợp quốc về trẻ em giai
đoạn 2001-2010.

 Đường lối, chiến lược phát triển của Đảng trong 10 năm tới, gắn với
xem xét các nhu cầu, quyền trẻ em và tốc độ tiến bộ bình quân của 10
năm qua để đưa ra các mục tiêu và tỷ lệ cần phấn đấu.

 Có sự tham gia, đóng góp ý kiến của diễn đàn trẻ em ở cấp khu vực và
cấp quốc gia về mục tiêu, biện pháp, về vai trò của trẻ em đối với việc
thực hiện Chương trình vì trẻ em giai đoạn tới. Đó là những yếu tố rất
quan trọng để tạo ra sự chuyển biến nhận thức và hành động của xã hội
đối với trẻ em.

Mục tiêu tổng quát của chương trình là: “Tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm
đáp ứng đầy đủ các nhu cầu và quyền cơ bản của trẻ em, ngăn chặn và đẩy lùi các
nguy cơ xâm hại trẻ em, xây dựng môi trường an toàn và lành mạnh để trẻ em Việt
Nam có cơ hội được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và phát triển toàn diện về mọi mặt,
có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”.

Mục tiêu tổng quát trên bao hàm nhiều nội dung, trong đó nêu cao những tư
tưởng như: các nỗ lực phát triển phải đặt quyền lợi của trẻ em lên hàng đầu, chăm lo
quyền lơị cơ bản của trẻ em , đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ em; ngăn chặn
sự xâm hại và bóc lột trẻ em , phòng chống HIV/AIDS; trẻ em được tôn trọng, lắng
nghe ý kiến và bảo vệ môi trường lành mạnh cho các em.

Đồng thời, để đảm bảo thực hiện và thi hành pháp luật một cách có hiệu quả,
bao gồm cả việc áp dụng các biện pháp trừng phạt. Chính phủ Việt Nam đã phê
chuẩn Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế về xoá bỏ ngay các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện công ước
182 nhằm mục tiêu:

91
 Xoá bỏ ngay lập tức những loại hình lao động trẻ em tồi tệ nhất.

 Tiến hành kiểm tra và thanh tra thường xuyên để đảm bảo Kế hoạch
hành động Quốc gia thực hiện Công ước 182 được thực hiện.

 Ngăn chặn việc sử dụng trẻ em ở các khu vực mà điều kiện làm việc ở
đó có thể độc hại đến sức khoẻ và sự phát triển bình thường ở trẻ.

 Đảm bảo thực hiện và thi hành pháp luật một cách có hiệu quả, bao
gồm cả việc áp dụng các biện pháp trừng phạt.

 Để đạt được mục tiêu này, Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện
Công ước 182 nhằm vào đối tượng trẻ em dưới 18 tuổi phải làm các
công việc sau đây:

 Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ như buôn bán và vận chuyển trẻ
em , gán nợ và lao động nô lệ, lao động cưỡng bức trong đó có tuyển
mộ cưỡng bức trẻ em tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang;

 Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động mại dâm, sản
xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm;

 Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động bất hợp pháp, đặc
biệt vào mục đích sản xuất và vận chuyển chất ma tuý được nêu tại các
hiệp định quốc tế;

 Những công việc mà tính chất hoặc các điều kiện của nó có thể xâm hại
đến sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ em .

Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện Công ước 182 cũng nhấn mạnh vai
trò của việc phối hợp và trách nhiệm giữa các cơ quan ban ngành như Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (ngày 8.8.2007, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1001/QĐ-TTg thực hiện nghị quyết của Quốc
hội về việc giải thể Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, chuyển các chức năng của
Uỷ ban này sang các bộ có liên quan thực hiện. Theo đó, chuyển nhiệm vụ quản lý
nhà nước về dân số và chuyển nguyên trạng về tổ chức, biên chế cán bộ, công chức,

92
viên chức làm công tác dân số thuộc UBDSGĐ&TE sang Bộ Y tế, Bộ Văn hoá -
Thể thao và Du lịch và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội...), Bộ Tư pháp, Bộ
Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá- Thông tin (ngày 31/7/2007, Quốc
hội khóa 12 ra Nghị quyết quyết định thành lập Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam trên cơ sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và mảng
văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam), Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các tổ chức xã
hội khác như Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
nông dân Việt Nam … trong tổ chức thực hiện.
Ngày 12/2/2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 19/2004/QĐ-
TTg về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện
độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 - 2010.

Quyết định 19/TTg được ban hành nhằm vào những mục tiêu tổng quát như
sau:
 Nâng cao nhận thức và hành động của toàn xã hội về công tác bảo vệ
trẻ em;
 Ngăn ngừa, giảm dần và tiến tới giảm cơ bản vào năm 2010 số lượng
trẻ em lang thang kiếm sống, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em
phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm, tạo điều
kiện để những trẻ em này được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và phát triển
toàn diện về mọi mặt, có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Có thể nói, vấn đề lao động trẻ em đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
ngay từ khi mới giành được chính quyền, điều đó được thể hiện qua việc ban hành
một loạt các văn bản về lao động trẻ em. Sắc lệnh số 29/SL ban hành ngày
12/3/1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ
không được mướn trẻ em dưới 12 tuổi vào làm việc, Nhà nước nghiêm cấm trẻ em
trai dưới 15 tuổi làm những công việc dưới hầm mỏ hoặc công việc độc hại, nguy
hiểm mà nhà nước đã quy định, không được sử dụng trẻ em làm ca đêm, thời gian

93
nghỉ giữa ca làm việc của lao động dưới 18 tuổi ít nhất là 11 giờ liên tiếp. Những
quy định này tuy còn sơ khai nhưng hết sức quan trọng, nó góp phần bảo vệ trẻ em
và là cơ sở để hoàn thiện các quy định về lĩnh vực lao động trẻ em sau này.

Trong những năm của thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành một loạt
các văn bản pháp luật về lao động trẻ em. Đặc biệt Bộ Luật Lao động được Quốc
hội thông qua ngày 13/6/1994 đã kế thừa, tổng hợp và phát huy các văn bản pháp
luật trước đó, đồng thời đã đưa ra các quy định mới đối với lao động chưa thành
niên như: nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào
làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm... nhằm bảo vệ và tạo điều cho
các em phát triển về thể lực và trí lực, học tập nâng cao trình độ; thời gian làm việc
của lao động chưa thành niên tối đa không quá 7 giờ một ngày và chỉ phải làm thêm
giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề và công việc Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội quy định; người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành
niên vào làm những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể
lực,trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa
thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao
động. Những văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động đã được ban hành tạo
hành lang pháp lý khá đầy đủ cho việc bảo vệ lao động chưa thành niên và lao động
trẻ em ở nước ta.

3.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế và chấm dứt tình trạng trẻ em phải
làm việc nặng nhọc trong môi trƣờng độc hại, nguy hiểm ở Việt Nam

Để ngăn chặn và tiến tới chấm dứt tình trạng trẻ em lao động nặng nhọc, độc
hại, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau:

3.2.1. Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật về LĐTE

Lao động trẻ em vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của sự đói nghèo. Đó là
một vòng luẩn quẩn. Muốn phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy chỉ còn một cách duy nhất là
xoá bỏ lao động trẻ em. Do đó mục tiêu chính lâu dài của chúng ta là xóa bỏ một
cách có hiệu quả toàn bộ hình thức lao động trẻ em.

94
Tuy nhiên, mục tiêu này không thể giải quyết ngay lập tức được, nên từng
giai đoạn phải đặt ra mục tiêu cụ thể. Trước hết là hãy bảo vệ trẻ em khỏi sự bóc lột
về kinh tế và khỏi bất kỳ công việc gì độc hại, nguy hiểm hoặc gây cản trở đến sự
giáo dục hoặc có hại tới sức khoẻ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thể lực, trí lực,
đạo đức, tinh thần hoặc xã hội của trẻ em. Phải đạt cho bằng được chỉ tiêu số lượng
trẻ được đi học ở từng lứa tuổi, đặc biệt là ở cấp tiểu học và trung học cơ sở.

Chính sách quốc gia phải tiến tới xóa bỏ tất cả lao động trẻ em ở các khu vực
kinh tế, kể cả khu vực phi kết cấu, ở mọi địa bàn dân cư, kể cả vùng dân tộc, vùng
xa xôi hẻo lánh. Đặc biệt lao động trẻ em ở lứa tuổi đi học mà pháp luật giáo dục
quy định là bắt buộc.

Để đạt được các mục tiêu trên, cần thiết phải hoàn thiện pháp luật, chính
sách về lao động trẻ em trên các khía cạnh:

3.2.1.1. Hoàn thiện chính sách nhằm ngăn ngừa LĐTE

Tăng cường chính sách kinh tế để hỗ trợ thúc đẩy phát triển cho những người
nghèo. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam còn ở mức phát triển thấp, tỷ lệ hộ đói
nghèo còn cao, mà đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trẻ em phải lao
động sớm. Do đó, chỉ có cải thiện chính sách kinh tế đối với người nghèo để họ có
thể tự vươn lên trong cuộc sống, đảm bảo cuộc sống của chính họ và gia đình họ thì
mới giải quyết tận gốc rễ vấn đề trẻ em phải lao động sớm để kiếm sống.

Bổ sung chính sách trợ giúp cho trẻ em những gia đình quá nghèo. ở các
nước công nghiệp phát triển, họ đã xây dựng hệ thống chính sách trợ cấp xã hội,
cung cấp cho các em nghèo phải lao động để đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của
mình và gia đình. ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế còn hạn hẹp, nhưng chúng ta
vẫn có thể thực hiện được chính sách trợ giúp đối với trẻ em trong các gia đình quá
nghèo hoặc tổ chức những dịch vụ y tế và giáo dục cộng đồng giá rẻ. Chính sách trợ
giúp này, phần nào cũng làm giảm đi tỷ lệ lao động trẻ em.

Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật phổ cập giáo dục đến cấp trung
học cơ sở vì hiện nay Luật phố cập giáo dục tiểu học mới chỉ bao trùm được số trẻ

95
em đến 11 tuổi, những lứa tuổi sau đó còn thả nổi. Việc đề ra những chính sách
đúng đắn, hợp lý và công bằng về giáo dục đối với tất cả mọi trẻ em là những nhân
tố quan trọng không những để đạt được công bằng xã hội mà còn có hiệu lực nhằm
hạn chế tận gốc vấn đề lao động trẻ em. Nội dung chính của chính sách này là giáo
dục công cộng, miễn phí và bắt buộc. Những trẻ em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn
sau khi thôi học văn hoá bắt buộc, Nhà nước cần có chính sách thích hợp để các em
tiếp tục được học nghề.

3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ trẻ em lao động

Xây dựng chính sách khuyến khích cung cấp dịch vụ bảo vệ và phục hồi.
Trong lúc chưa có điều kiện đưa lao động trẻ em ra khỏi chỗ làm việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm thì cần có những chính sách đặc biệt để giảm thiểu các tác động
xấu, độc hại cho các em như cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục cơ bản. Những ảnh
hưởng về sức khoẻ có thể được giảm bớt thông qua việc kiểm tra sức khỏe thường
xuyên hoặc định kỳ và hỗ trợ để tăng cường sức khoẻ... Trong trường hợp do phải
lao động mà thiếu thời gian đến trường học chính quy thì có thể giải quyết thông
qua việc tổ chức các lớp học không chính quy vào các buổi tối hoặc thời gian thích
hợp. Cũng có thể cung cấp các dịch vụ khác như dịch vụ cung cấp dinh dưỡng, cung
cấp chỗ ăn chỗ ở không mất tiền đối với các đối tượng có nhu cầu.

Những hoạt động dạng này nhằm bù đắp những thiếu hụt của lao động trẻ em
và là chiến lược gắn với giai đoạn chuyển tiếp để tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em.
Do đó Nhà nước cần có cơ chế chính sách cụ thể để khuyến khích các hoạt động
dịch vụ này.

3.2.1.3. Hệ thống pháp luật về LĐTE cần thống nhất khái niệm, phân
loại trẻ em làm việc với lao động trẻ em phù hợp

Lao động trẻ em ở Việt Nam có thể coi là vấn đề mới và chỉ từ khi Việt Nam
chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nó mới trở thành vấn đề được nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Như phần trước đã phân tích, hiện nay Việt Nam chưa có một
khái niệm thống nhất về lao động trẻ em cũng như chưa có sự phân loại rõ ràng.

96
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) thì khái niệm về lao động trẻ
em mang tính bóc lột khi: Công việc trọn thời gian, làm việc ở một tuổi quá sớm;
phải làm việc quá nhiều giờ; công việc gây ra những căng thẳng thái quá về mặt thể
chất, xã hội hay tâm lý; lao động và sống ngoài đường trong những điều kiện xấu;
không được trả công đầy đủ; phải chịu trách nhiệm quá nhiều; công việc làm cản trở
việc học hành; công việc làm hạ thấp nhân phẩm và lòng tự trọng của trẻ em, như
làm nô lệ hay lao động cầm cố và bóc lột tình dục; công việc có hại đến việc phát
triển toàn diện về mặt xã hội và tâm lý.

Tại Việt Nam các công việc của trẻ em thường làm có thể phân thành 3 loại:
trẻ em làm các công việc giúp đỡ cha mẹ hoặc làm việc theo sự phân công của cha
mẹ (thường gọi là trẻ em lao động); trẻ em lanh thang tự kiếm sống như đánh giầy,
bán báo, bới rác... (không có quan hệ lao động); trẻ em đi làm thuê cho các chủ sử
dụng lao động (có quan hệ lao động).

Như vậy, có thể thấy chỉ có các hoạt động lao động thuộc loại công việc thứ 3 ở
trên mới là quan hệ lao động và thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ Luật Lao động.
Loại hình công việc này có thể được phân thành các nhóm công việc sau: Nhóm 1,
điều kiện làm việc nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của trẻ em: Lao động
trong các mỏ đào đãi sa khoáng; phụ thợ nề xây dựng; sản xuất vật liệu xây dựng...;
Nhóm 2, điều kiện làm việc không phù hợp với thần kinh tâm lý của trẻ em, ảnh
hưởng xấu tới sự phát triển bình thường của trẻ: Rửa bát, bưng bê, phục vụ bàn
trong các nhà hàng, khách sạn; bán hàng thuê; Nhóm 3, điều kiện làm việc không
nguy hiểm, công việc không nặng nhọc. Tuy nhiên thời gian làm việc thường kéo
dài ảnh hưởng đến việc học tập của các cháu: Làm các nghề như may da, đóng giầy, dệt
thảm, dệt chiếu, thủ công mỹ nghệ...; chế biến lương thực thực phẩm, thuỷ sản...; Nhóm
4, điều kiện làm việc nhẹ nhàng, công việc không nguy hiểm, công việc phù hợp với
khả năng của trẻ em: Biểu diễn hát, múa, xiếc; đóng phim...

Căn cứ vào khái niệm của tổ chức nhi đồng liên hợp quốc và căn cứ vào các
loại công việc cụ thể đã trình bày ở trên, chúng ta thấy những công việc trong nhóm
1, nhóm 2 cần cương quyết loại bỏ. Đối với các loại công việc ở nhóm 3 có thể cho

97
phép trẻ em từ 12 tuổi trở lên tham gia nhưng cần có sự quản lý chặt chẽ; những
loại công việc ở nhóm 4 là hoàn toàn phù hợp với trẻ em, cần cho trẻ tham gia nhằm
duy trì và phát triển tài năng của các em.

3.2.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật và tăng cƣờng công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến
vấn đề LĐTE

3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật

Tổ chức tuyên truyền giáo dục thường xuyên và các chiến dịch truyền thông
rộng khắp trong cả nước cũng như các vùng trọng điểm, các nhóm đối tượng trọng
điểm nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi cấp, mọi
ngành, cộng đồng và mọi gia đình đối với công tác bảo vệ trẻ em.

Công tác tuyên truyền cần đi sâu tuyên truyền về quyền trẻ em, lên án các
bậc cha mẹ, những người lớn lợi dụng lao động trẻ em, các bậc cha mẹ cho con đi
lang thang...

Công tác tuyên truyền cần được tiến hành thường xuyên, liên tục trên tất cả
các phương tiện thông tin đại chúng: truyền thanh, truyền hình, báo chí, cổ động,
văn hóa nghệ thuật...

Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò hết sức quan trọng trong việc tuyên
truyền đến mọi người dân để họ có thể hiểu được các vấn đề nghiêm trọng liên quan
đến lao động trẻ em. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về vấn đề trẻ em cũng cần
thận trọng, tránh tác động phụ, ảnh hưởng không tốt đén trẻ em. Quyền lợi cũng
như nhân phẩm của các em phải được đặt lên hàng đầu.

98
3.2.2.2. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy
định của pháp luật có liên quan đến vấn đề lao động trẻ em

Để có thể tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật có liên quan đến lao động trẻ em thì lực lượng Thanh tra nhà
nước nói chung và Thanh tra Lao động - Xã hội núi riờng phải đảm bảo đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng.

Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật có liên quan
đến lao động trẻ em ở các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hiện tượng lạm dụng
sức lao động trẻ em. Hoàn thiện các cơ chế thanh tra, kiểm tra phối hợp liên ngành
ở các địa phương để xoá bỏ các cơ sở đào đãi sa khoáng bất hợp pháp có sử dụng
lao động trẻ em, triệt phá các nhà hàng, khách sạn có hiện tượng lạm dụng tình dục
tẻ em.

Song song với những biện pháp trên, cần phải có quy định về chế tài để xử lý
các trường hợp vi phạm lao động trẻ em, tăng mức xử phạt cả về lĩnh vực hành
chính và hình sự nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các vi phạm về sử dụng trẻ em
làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Tập trung vào công tác thanh tra tình hình trẻ em lao động ở thành phần
kinh tế tư nhân, cá thể..

Việc thanh tra tình hình lao động trẻ em trên thế giới hiện nay cũng như ở
Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn đó là việc sử dụng lao
động trẻ em thường xảy ra ở trong khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, mà đây là khu
vực mà rất khó quản lý. Hiện nay, thanh tra lao động chỉ thực hiện thanh tra hoặc
giám sát đối với những đơn vị sản xuất kinh doanh có đăng ký chính thức, mà
những đơn vị này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số các đơn vị sản xuất kinh
doanh toàn quốc, và những đơn vị này thì chỉ sử dụng rất ít lao động trẻ em. Chính
vì vậy, muốn kiểm soát và tiến tới ngăn chặn tình trạng lao động trẻ em thì cần tập
trung vào việc thanh kiểm tra tình hình sử dụng lao động trẻ em trong các cơ sở sản
xuất thuộc thành phần kinh tế tư nhân, cá thể.

99
Để có thể nắm bắt được tình hình lao động trẻ em làm việc trong thành phần
kinh tế tư nhân, cá thể cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức thanh tra và
các cấp chính quyền địa phương, ngành công an, hội phụ nữ các cấp.

3.2.3. Giải phỏp về chớnh sỏch xó hội

3.2.3.1. Cần tổ chức các hoạt động cộng đồng hoặc các hình thức tổ chức
chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn

Tập trung vào đối tượng là lao động trẻ em thông qua các mô hình chăm sóc
hay tư vấn cho các em. Cần thiết phải có quỹ hỗ trợ để gia đình nghèo có thể được
vay vốn, tổ chức lao động phù hợp và bổ ích tạo thu nhập ngay tại cộng đồng.

Các chương trình kinh tế - xã hội của địa phương phải ưu tiên trước hết cho các
gia đình có trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Đối với những vùng có tiềm năng chăn nuôi
gia súc, cần hỗ trợ vốn để gia đình nghèo có thể mua các loại gia súc về để chăn nuôi
tăng thêm thu nhập. Đối với những vùng khác có thể hỗ trợ vốn tín dụng quay vòng cho
các gia đình nghèo vay vốn phát triển kinh tế gia đình ...

3.2.3.2. Xã hội hóa công tác bảo vệ trẻ em

Nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công tác bảo vệ trẻ
em. Xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ trẻ em. Xây dựng và thực hiện
quy chế phối hợp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình, nhà trường và
xã hội. Khuyến khích thiết lập các mạng lưới và hoạt động liên kết, hợp tác giữa cơ
quan bảo vệ pháp luật và cơ quan chuyên trách về trẻ em, cơ quan truyền thông,
đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, gia đình, các đơn vị kinh tế và các cá nhân có
lòng hảo tâm.

Việc xã hội hoá công tác bảo vệ trẻ em bao gồm một hệ thống các hoạt động
như cải thiện sự hiểu biết của trẻ em về những công việc nguy hiểm, gia tăng sự
hiểu biết của các bậc cha mẹ về sự mất mát vốn con người có thể có khi con em họ
đi làm, và thay đổi hướng tập trung của các nhà làm luật. cải thiện sự hiểu biết về
vấn đề LĐTE sẽ dẫn đến sự hợp tác giữa chính quyền địa phương và chính phủ để
gia tăng áp lực lên các nhà tuyển dụng. Tuy nhiên, gia tăng áp lực sẽ không giải

100
quyết được vấn đề nếu những nguồn thu nhập khác được tạo ra cho các gia đình bị
ảnh hưởng. Tương tự như trên, gia tăng sự hiểu biết tại các quốc gia phát triển có
thể dẫn đến những hành động chống lại LĐTE mà không chú ý đến hậu quả của
những hành động này.

3.2.3.3. Hợp tác với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để nhận
đƣợc sự hỗ trợ về kinh nghiệm, kinh phí và kỹ thuật trong việc ngăn ngừa, bảo
vệ và giúp đỡ lao động trẻ em

Những tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao mức độ quan
tâm của cộng đồng cũng như việc bảo vệ trẻ em. Sự độc lập của các tổ chức này cho
phép họ có thể can thiệp vào vấn đề lạm dụng lao động trẻ em mà không chịu áp lực
chính trị.

3.2.3.4. Tăng cƣờng sự tham gia của tổ chức công đoàn vào giải quyết
vấn đề lao động trẻ em

Công đoàn là tổ chức tin cậy để giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Công
đoàn có thể giám sát các điều kiện làm việc của trẻ em và tố cáo sự lạm dụng lao
động trẻ em; thông tin cho người lao động những kiến thức quan trọng, bảo vệ
người lao động đấu tranh chống lại việc làm nặng nhọc, độc hại, nguy hiẻm đối với
trẻ em và ngăn không cho các em tham gia sớm vào thị trường lao động.

Là một tổ chức chính trị- xã hội có uy tín lớn, Công đoàn có vai trò quan
trọng không chỉ trong thương lượng tập thể ngay tại nơi làm việc mà còn huy động
trợ giúp để xoá bỏ vấn đề lao động trẻ em cũng như vận động thay đổi chính sách
đối với chính quyền.

3.2.3.5. Đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo

Như chúng ta đã thấy, nghèo đói và không công bằng là nhân tố xô đẩy trẻ
em đến với các công việc nặng nhọc, nguy hiểm. Chính vì thế, việc xoá đói, giảm
nghèo sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các gia đình nghèo thoát khỏi hố sâu của sự bất
lực và đó là yếu tố cơ bản cần thiết để mang lại những thay đổi lâu dài đối với vấn
đề lao động trẻ em.

101
Nghèo đói tràn lan chính là nguyên nhân của LĐTE ở các quốc gia phát
triển. Trong các hộ gia đình nghèo, trẻ em có thể đóng góp một phần đáng kể vào
thu nhập gia đình, và điều này có nghĩa là bởi vì những hộ gia đình đó chi tiêu một
phần thu nhập vào thực phẩm, thu nhập từ LĐTE có thể rất quan trọng đối với sự
tồn tại của gia đình. Những chương trình cải thiện thu nhập của LĐTE, hay cải cách
những khiếm khuyết của thị trường vốn hoặc cung cấp lưới an sinh xã hội rất thích
hợp trong trường hợp này. Việc giảm nghèo là cách tiếp cận có tính dài hạn và rất
hiệu quả. Nhưng đây là một quá trình lâu dài, do vậy, khi thành công, sẽ có khuynh
hướng gia tăng cách biệt thu nhập của những người nghèo một cách không công
bằng, vì thế gây ra những lỗ hổng cho sự xuất hiện trở lại của LĐTE.

3.2.3.6. Giáo dục trẻ em

Các giải pháp hướng đến việc gia tăng sự tham gia vào các lớp học tiểu học
cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ, đặc biệt nếu được lồng vào các chiến lược xóa đói,
giảm nghèo. Những giải pháp này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nguồn
nhân lực với những lợi ích thiết thực cho cả cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, tác động
đối với vấn đề LĐTE lại phụ thuộc vào bản chất của các giải pháp này. Có 3 cách
tiếp cận: phổ cập giáo dục tiểu học, tạo điều kiện vừa đi làm việc vừa đi học, và
giảm học phí. Cách tiếp cận thứ nhất có thể không giảm được trẻ em lao động nhiều
nếu áp lực buộc trẻ phải rời bỏ công việc lớn và hiệu lực bắt buộc thấp. Bắt buộc
mạnh có thể giảm trẻ em lao động nhưng sẽ tạo ra gánh nặng cho những gia đình
nghèo phụ thuộc nhiều vào nguồn thu nhập từ lao động của trẻ. Phổ cập giáo dục là
một cách chống đỡ quan trọng đối với vấn đề nô lệ trẻ em và những hình thức bóc
lột trẻ em khác, khi bắt trẻ em phải bỏ việc để học hành. Tuy nhiên sẽ có rủi ro là
quá tải trẻ em làm việc trong những giờ không đi học. cách tiếp cận thứ hai có lẽ là
chọn lựa tốt và thích hợp cho khu vực nông thôn nếu thời gian biểu không cản trở
những ngày cao điểm vụ mùa. Nguyên tắc này đã được áp dụng rất thành công tại
Ấn Độ và Việt Nam. Cách tiếp cận thứ ba cung cấp động lực cho các gia đình
hướng trẻ em vào việc học. cách thức này có thể dùng các phương pháp như học

102
bổng, tài liệu học tập, hay dịch vụ chăm sóc trẻ nhỏ… để cho các đứa bé gái có thể
đến trường… Vấn đề của cách thức này là chi phí và sự duy trì.

3.2.4. Cần xóa bỏ các hình thức lạm dụng LĐTE thông qua các giải pháp
“phi luật pháp”

Bên cạnh các giải pháp về pháp luật, các cơ chế chủ yếu để giải quyết vấn
đề LĐTE bao gồm các giải pháp có liên quan đến thương mại. Đó là việc vận động
người tiêu dùng phản đối việc các doanh nghiệp sử dụng LĐTE để sản xuất hàng
hoá. Người tiêu dùng có thể không mua sản phẩm của các doanh nghiệp có sử dụng
LĐTE thông qua nhãn mác hay tem xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
lên sản phẩm của doanh nghiệp đó.

Những giải pháp này không hoàn toàn loại trừ lẫn nhau và được áp dụng theo
nhiều cách trong các chiến lược xóa bỏ LĐTE nhằm phát huy hiệu quả tích cực và
hạn chế những tiêu cực để đạt đến mục tiêu là xóa bỏ LĐTE.

3.3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện giải pháp

3.3.1. Đối với các địa phƣơng có ngành nghề truyền thống

- Tổ chức tuyên truyền về Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Bộ
luật Lao động, Luật Giáo dục; vận động các gia đình dành thời gian thích đáng cho
con em học tập. Phối hợp với các đoàn thể, nhà trường có những việc làm thiết thực
hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn để con họ không phải bỏ học, các cháu ở
nơi khác đến học nghề nhưng chưa học hết tiểu học tổ chức các lớp học bổ túc.

- Phối hợp với cơ quan lao động của các quận, huyện để xây dựng một số
quy định chung nhất về dạy nghề, học nghề, về quản lý lao động của trẻ em phù hợp
với đặc thù của từng ngành nghề truyền thống của địa phương mình.

- Tổ chức, quản lý nắm chắc số trẻ em đang học nghề và lao động trên địa
bàn. Thực hiện chế độ báo cáo tình hình sử dụng LĐTE lên cơ quan lao động.

3.3.2. Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc về lao động, trẻ em cấp quận,
huyện; cấp tỉnh, thành phố

103
- Coi trọng trách nhiệm nắm tình hình và quản lý vấn đề LĐTE, xác định đây
là một trong những nội dung về quản lý lao động nói chung trên địa bàn thành phố.
Có bộ phận trực tiếp theo dõi vấn đề lao động vị thành niên và LĐTE để có thể định
kỳ báo cáo và tham mưu đề xuất với lãnh đạo thành phố về các chính sách, chế độ
có liên quan đến trẻ em.

- Phổ biến và hướng dẫn cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh
hiểu các quy định của pháp luật về LĐTE.

- Định kỳ tổ chức kiểm tra, thanh tra và xử lý những trường hợp cố ý vi


phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp ngăn ngừa việc lạm dụng sức lao động của
trẻ em hoặc núp dưới danh nghĩa học nghề để bóc lột sức lao động của trẻ em.

3.3.3. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố

- Đối với các khu vực có ngành nghề truyền thống cần được bảo tồn và phát
triển, chính quyền cấp tỉnh, thành phố có chính sách và biện pháp tổ chức để giúp
cho việc truyền nghề và học nghề đi đúng hướng, có chất lượng.

- Có chủ trương dành một phần vốn vay hỗ trợ việc làm để cho các gia đình
gặp khó khăn về đời sống mà con em họ có nguy cơ phải nghỉ học để kiếm sống,
được vay, nhằm tạo thêm việc làm, giảm bớt khó khăn về kinh tế để các em có thể
tiếp tục đi học.

3.3.4. Đối với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

- Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có quy định danh mục nghề độc hại, nguy
hiểm cũng như quy định về thời gian lao động và độ tuổi trẻ em được tham gia vào
các danh mục nghề cụ thể, tuy nhiên quy định về loại hình lao động nặng nhọc đối
với trẻ em chưa rõ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần nghiên cứu
và có quy định cụ thể về các loại hình lao động, mức độ nặng nhọc đối với trẻ em
tham gia lao động.

- Có một cuộc điều tra, khảo sát tổng thể tình hình trẻ em lao động và sử
dụng LĐTE.

104
- Có quy định cụ thể về nghĩa vụ công dân trong việc tích cực tham gia đấu
tranh phòng ngừa, phát hiện và báo cáo các trường hợp sử dụng LĐTE trái phép, có
hành vi xâm hại và bóc lột trẻ em. Đồng thời có quy định cụ thể trách nhiệm của
chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương trong việc tuyên truyền, ngăn
chặn, phát hiện và xử lý các vi phạm về sử dụng trẻ em lao động sai pháp luật theo
một quy trình tác nghiệp.

- Phát triển mạng lưới dịch vụ, đặc biệt dịch vụ công để tiếp nhận thông tin,
báo cáo, tư vấn, hỗ trợ trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt.

- Xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung biên chế cán bộ chuyên trách
về lao động, xã hội ở xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi, thực hiện các chính
sách về lao động, thương binh và xã hội; xem xét tăng biên chế cho thanh tra
chuyên ngành lao động, xã hội; đưa chương trình bảo vệ trẻ em thành Chương trình
mục tiêu quốc gia.

Có thể nói, những giải pháp nêu trên để chấm dứt LĐTE không hoàn toàn
loại trừ lẫn nhau và được áp dụng theo nhiều cách trong các chiến lược xóa bỏ
LĐTE nhằm phát huy hiệu quả tích cực và hạn chế những tiêu cực để đạt đến mục
tiêu là xóa bỏ LĐTE.

105
Kết luận chƣơng 3

Việt Nam đã sớm phê chuẩn Công ước liên quan đến trẻ em. Bên cạnh việc
ban hành các chính sách về trẻ em, Việt Nam đã có Chương trình Quốc gia về ngăn
chặn và loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Ngoài ra, Việt Nam đã tiến
hành tuyên truyền rộng rãi, mạnh mẽ về pháp luật và những mô hình điển hình về
bảo vệ trẻ em, chống lao động trẻ em.

Nguyên nhân dẫn đến trẻ em phải lao động sớm trước hết là kinh tế gia đình
thu nhập thấp, không đảm bảo điều kiện sống tối thiểu dẫn đến trẻ phải kiếm sống
trợ giúp gia đình. Một nguyên nhân khác là do nhận thức của cha mẹ, các cấp ngành
về vấn đề lao động trẻ em và nguyên nhân cuối cùng là do chính ý thức của bản
thân các em.

Bộ Lao động, Thương bình và Xã hội đã đề ra một số giải pháp cơ bản để


giải quyết triệt để vấn đề lao động trẻ em như phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo; hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật liên quan đến lao
động trẻ em; tăng cường công tác vận động, tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao
nhận thức của mọi thành phần trong xã hội về việc ngăn chặn lao động trẻ em; hỗ
trợ các em có hoàn cảnh đặc biệt trong việc học văn hoá, học nghề; đồng thời tăng
cường sự phối hợp của các ngành, tổ chức, cơ quan để theo dõi, ngăn ngừa và hạn
chế trẻ em lao động sớm; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và phát hiện hành
vi vi phạm quyền trẻ em, xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm.

Từ năm 2000, ILO đã hỗ trợ và tham gia nhiều hoạt động trong lĩnh vực
ngăn chặn và loại bỏ tình trạng lao động trẻ em ở Việt Nam. Thời gian tới, ILO sẽ
hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu đánh giá tình trạng lao động trẻ em , tìm cách hỗ trợ
sinh kế cho trẻ. ILO cũng sẽ tiếp tục dự án "Vận động nâng cao nhận thức về xoá bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và cung cấp cơ hội học tập cho trẻ em
lao động" , cung cấp thông tin và chia sẻ thông tin nhằm làm rõ những định hướng
chiến lược cho các hoạt động về vấn đề nói trên trong tương lai.

106
KẾT LUẬN CHUNG

Nhận thức rằng, vấn đề LĐTE không thể giải quyết trong một sớm một chiều;
không chỉ của một quốc gia đơn lẻ; cũng không chỉ bằng một biện pháp, một chính
sách nào đó mà đòi hỏi sự chung tay của cả cộng đồng quốc tế. Đối với mỗi quốc
gia, đòi hỏi có một chính sách pháp luật đồng bộ, phù hợp và có hiệu lực, cũng cần
phải có một bộ máy cơ quan thực quyền, thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra,
thanh tra việc thực hiện các chính sách pháp luật về xoá bỏ LĐTE mà hành động
tức thời là loại bỏ những hìh thức lao động tồi tệ nhất.
Trong giai đoạn vừa qua, với sự nỗ lực của các nhà hoạch định chính sách, sự
nỗ lực của các cơ quan lập pháp, lập quy, Việt Nam đã bước đầu hình thành một hệ
thống chính sách pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ. Song song với việc xây
dựng, ban hành hệ thống chính sách pháp luật, Việt Nam cũng đã xác nhận cơ quan
có trách nhiệm chính trong việc theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ
các chính sách pháp luật đã được ban hành, với mục đích ngăn ngừa và từng bước
xoá bỏ tình trạng LĐTE.
Tuy nhiên, để “cuộc chiến xoá bỏ tình trạng LĐTE” đạt hiệu quả như mong
muốn, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, sự nỗ lực của các cơ quan lập pháp,
lập quy tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật. Đồng thời, đòi hỏi cơ
quan có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ
các chính sách pháp luật cần tăng cường; hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý đối
với những hành vi sử dụng LĐTE trở thành hoạt động thường xuyên, với hy vọng
tình trạng LĐTE ở Việt Nam sớm được xoá bỏ.

Vấn đề LĐTE không thể giải quyết trong một sớm một chiều; không chỉ của
một quốc gia đơn lẻ; cũng không chỉ bằng một biện pháp, một chính sách nào đó mà
đòi hỏi sự chung tay của cả cộng đồng quốc tế. Đối với mỗi quốc gia, đòi hỏi có
một chính sách pháp luật đồng bộ, phù hợp và có hiệu lực, cũng cần phải có một bộ
máy cơ quan thực quyền, thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc

107
thực hiện các chính sách pháp luật về xoá bỏ LĐTE mà hành động tức thời là loại
bỏ những hình thức lao động tồi tệ nhất.

Luận văn hoàn thành với hơn 100 trang, 2 biểu số liệu để minh hoạ và cụ
thể hoá các vấn đề cần trình bày. Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu, luận
văn mới chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản nhất trong việc đánh giá thực
trạng LĐTE ở một số địa phương, đánh giá chính sách, pháp luật LĐTE ở một số
ngành luật đặc thù. Vì vậy, cần có một số công trình khác nghiên cứu bổ sung
những vấn đề có liên quan đến toàn bộ nội dung này.
Luận văn được giải quyết với hy vọng đóng góp một phần vào việc giúp
các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan có liên quan có biện pháp hữu hiệu
nhằm ngăn ngừa và hạn chế tỡnh trạng trẻ em phải lao động sớm, vừa đảm bảo thực
hiện được chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về LĐTE, vừa thực hiện tốt
công tác bảo vệ trẻ em ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Mặc dù đã hết
sức cố gắng nhưng do thời gian và khả năng có hạn, luận văn khó tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp tham gia ý kiến của các nhà
khoa học và tất cả những người quan tâm đến vấn đề này để có điều kiện phát triển
trong các luận văn tiếp theo ở bậc học cao hơn./.

108
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị
lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998) Văn kiện hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban chỉ đạo tổng kết lý
luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi
mới (1986 - 2006), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các văn bản
hướng dẫn thi hành (2002), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
9. Bộ luật hình sự (1999), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ luật dõn sự (2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009), Báo cáo đánh giá đề xuất sửa
đổi, tăng cường thực hiện các quy định pháp luật về lao động trẻ em, Hà Nội.
12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2000), Phân tích, đánh giá chính sách
pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, Nhà xuất bản Lao
động - Xó hội, Hà Nội.

109
13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thực hiện công ước về cấm
và hành động ngay lập tức để xoá bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất, Nhµ xuÊt b¶n Lao động - Xã hội, Hµ Néi.
14. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2000), Tài liệu hội thảo về công ước số
138 và 182, Hà Nội.
15. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2007), Chính sách và dịch vụ xã hội đối
với các nhóm yếu thế, Nhµ xuÊt b¶n Lao động - Xã hội, Hµ Néi.
16. Vũ Ngọc Bình (2000), Các văn bản quốc tế về bảo vệ trẻ em, Nhµ xuÊt b¶n
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Vũ Ngọc Bình (2000), Lao động trẻ em ở Việt Nam, Nhµ xuÊt b¶n Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Vũ Ngọc Bình (2002), Giới thiệu công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Vũ Công Giao (2006), “Xoá bỏ lao động trẻ em - một nỗ lực toàn cầu”, Tạp chí
cộng sản (số 107).
20. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (2001), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. Chu Mạnh Hựng (2003), “Công ước quyền trẻ em năm 1989 - cơ sở cho việc
bảo vệ quyền trẻ em”, Tạp chớ Luật học (số 3).
22. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
23. Luật Bỡnh đẳng giới (2006), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Luật Giỏo dục (1998), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng (2006),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Luật phổ cập giỏo dục tiểu học (1991), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
27. Nguyễn Đình Lộc (1999), “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và
quyền trẻ em”, Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam.

110
28. Đinh Hạnh Nga (2008), “Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam hiện
hành”, Báo điện tử: http://www.lrc.ctu.edu.vn
29. Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Báo cáo việc triển
khai thực hiện quy trình kiểm tra, thanh tình hình trẻ em phải lao động nặng
nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm năm 2008, Hµ Néi.
30. Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009), Tài liệu tập huấn kết
quả thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em, Hà Nội.
31. Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Thanh tra Uỷ ban dân số gia
đình trẻ em (2007), Tài liệu tập huấn quy trình kiểm tra, thanh tra liên ngành về
tình trạng trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm,
Hà Nội.
32. Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Tài liệu tập huấn công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong điều kiện hội nhập kinh tế, Hà Nội.
33. Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009), Tài liệu tập huấn một
số vấn đề về lao động trẻ em và quy trình kiểm tra về tình hình trẻ em phải lao
động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm, Hà Nội.
34. Tổng cục Thống kê (2003), Điều tra mức sống dân cư các năm 1992 - 1993,
1997 - 1998, 2002 - 2003, Hà Nội.
35. Từ điển Tiếng Việt (1994), Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển
học - Hà Nội.
36. Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em (2005), Trẻ em lang thang - mối quan tâm của
chúng ta, Hà Nội.
37. Uỷ ban dân số gia đỡnh trẻ em (1997), Việt Nam và các văn kiện quốc tế về
quyền trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2005), Việt Nam và các tổ chức
kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. UNICEF (1998), Tổng quan về lao động trẻ em, trẻ em đường phố, mại dâm và
buôn bán trẻ em, trẻ em tàn tật và vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Lao động - Xó
hội, Hà Nội.

111
40. UNICEF và ILO (2000), Điều đầu tiên và trước hết trong lao động trẻ em và
xoá bỏ những hỡnh thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, Nhà xuất bản Lao động -
Xó hội, Hà Nội.
41. Wonlfgang Von Richthofen (2004), Thanh tra lao động - Hướng dẫn chuyên
ngành, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
42.

112

You might also like