You are on page 1of 38

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT
------ oOo ------

BỘ MÔN : LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ


BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ƯỚC LA HAYE 1993
VỀ BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC NUÔI
CON NUÔI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT NUÔI
CON NUÔI TẠI VIỆT NAM

GVHD : ThS. LÊ THỊ HỒNG LIỄU

LỚP HỌC PHẦN : 420300247201

NHÓM THỰC HIỆN : NHỮNG NÀNG TIÊN WINX

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021


LỜI CẢM ƠN
Trong cuộc sống này không có sự thành công nào mà không có sự giúp đỡ, hỗ
trợ dù ít hay nhiều từ những người khác. Đối với bản thân chúng em cũng vậy, trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường Đại học đến nay, chúng em đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn
sâu sắc nhất, chúng em xin gửi đến Ban giám hiệu trường Đại học Công Nghiệp
Tp.HCM cùng quý thầy cô ở khoa Luật của trường đã tạo điều kiện cho chúng em có
được một môi trường học tập thật tốt; đã cung cấp cho chúng em những tài liệu học
tập hay và bổ ích; đã tận tình, tâm huyết truyền đạt vốn kiến thức quý báu mà các Thầy
Cô đã tích lũy trong suốt quá trình làm việc và học tập trước đó cho chúng em.

Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Lê Thị Hồng Liễu đã
tận tâm hướng dẫn chúng em qua từng buổi học cũng như những buổi thảo luận về đề
tài tiểu luận. Nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của cô thì chúng em nghĩ
bài tiểu luận của chúng em rất khó có thể hoàn thiện được. Một lần nữa, chúng em xin
chân thành cảm ơn cô.

Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người
luôn tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận,
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân chúng em rất mong nhận được
những góp ý đến từ cô để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!


PHÂN CÔNG

ĐÁNH GHI
STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ
GIÁ CHÚ

- Phần mở đầu
- Phần kết luận Nhóm
1 Chu Thị Thu Hà 19442411 100%
- Tổng hợp, chỉnh sửa trưởng
word

Nguyễn Quốc - Việt Nam sau khi Luật


2 19504881 90%
Huy NCN được ban hành

- Chương 1: CƯLH 1993


Nguyễn Vĩnh về bảo vệ trẻ em và hợp
3 19488691 80%
Kỳ tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế

- Thực trạng CƯLH tại


Vũ Trần Hồng
4 19521651 Việt Nam 100%
Ngân
- Chỉnh sửa word

- Việt Nam trước khi


Luật NCN được ban
5 Trần Đại Phát 19455231 hành 80%
- Tổng hợp tài liệu tham
khảo

- Đề xuất giải pháp hoàn


thiện pháp luật Việt Nam
Lê Huỳnh Hữu
6 19472981 nâng cao hiệu quả thực 100%
Phúc
thi CƯLH 1993
- Tổng hợp word

- Chương 2: Luật NCN


7 Lê Quốc Việt 19491831 80%
2010
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CƯLH Công ước La Haye

UBND Uỷ ban nhân dân

Luật NCN Luật Nuôi con nuôi

Luật HN&GĐ Luật Hôn nhân và gia đình

Bộ LĐTBXH Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

ĐƯQT Điều ước quốc tế


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích, yêu cầu ......................................................................................... 1
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 2
6. Bố cục của bài tập nghiên cứu đề tài ............................................................ 2
CHƯƠNG 1. Công ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế ................................................................................. 4
1.1.1. Sự hình thành của Công ước La Haye 1993 ........................................... 4
1.1.2. Mục đích của Công ước La Haye 1993 .................................................. 4
1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản của Công ước La Haye 1993 ........................ 4
1.2.2. Điều kiện của người xin con nuôi và của trẻ em được nhận làm con
nuôi .................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: Luật Nuôi con nuôi 2010 ............................................................ 8
2.1.1. Quá trình hình thành và căn cứ pháp lý Luật Nuôi con nuôi 2010 ......... 8
2.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi ......................................................................... 8
2.2.1. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi ...................................................... 8
2.2.2. Điều kiện nuôi con nuôi .......................................................................... 9
2.2.2.1. Điều kiện đối với người nhận nuôi ...................................................... 9
2.2.2.2. Điều kiện đối với con nuôi ................................................................... 9
2.2.2.3. Điều kiện về ý chí ................................................................................ 9
CHƯƠNG 3. Ảnh hưởng của Công ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế đối với pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi 13
3.1.1. Quy định của pháp luật ......................................................................... 13
3.1.2. Thực tiễn công tác thi hành pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ................................................................................................................ 13
3.2.1. Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ........................... 14
3.2.2. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với Công ước La Haye 1993 . 17
CHƯƠNG 4. Thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
nâng cao hiệu quả thực thi công ước La Haye 1993 ....................................... 21
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 33
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay vấn đề nuôi con nuôi thực sự đã trở thành mối quan
tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế, với mục đích duy nhất là nhằm bảo vệ các
quyền cơ bản của trẻ em, mang lại cho trẻ em một mái ấm gia đình với sự thương
yêu của cha mẹ nuôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là một tất yếu, đó cũng là vấn đề mang tính pháp lý quốc tế đòi hỏi sự quan
tâm đặc biệt của Chính phủ các nước.

Nghiên cứu nội dung cũng như quá trình thực hiện các quy định pháp luật
hiện hành, các Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi, các công ước quốc tế về nuôi con
nuôi mà Việt Nam đã tham gia để rút ra những bài học kinh nghiệm, nhằm hoàn
thiện hành lang pháp lý trong hoạt động cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
giúp chúng ta hợp tác quốc tế có hiệu quả trong lĩnh vực này. Trong đó phải kể đến
CƯLH 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (CƯLH
1993) mà Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên tháng 2 năm 2012. Từ khi
Luật NCN có hiệu lực và Việt Nam tham gia CƯLH 1993, vấn đề con nuôi có yếu
tố nước ngoài có xu hướng phát triển mới, đây là hệ quả của sự thay đổi chính sách
pháp luật rất cần được nghiên cứu kịp thời và nghiêm túc.

Nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của việc nghiên cứu, xem xét và đánh
giá tầm ảnh hưởng của CƯLH 1993 với pháp luật Việt Nam, nhóm nghiên cứu lựa
chọn Đề tài “Ảnh hưởng của CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế đối với pháp luật nuôi con nuôi tại Việt Nam” để thực hiện bài tiểu
luận môn Luật ĐƯQT.

2. Mục đích, yêu cầu

2.1. Mục đích

Nêu một số nội dung cơ bản của CƯLH 1993, Luật NCN 2010 thông qua đó,
chỉ ra ảnh hưởng và bình luận về sự ảnh hưởng của CƯLH 1993 với pháp luật Việt
Nam về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

1
2.2. Yêu cầu

Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ những điểm mới trong qui định pháp luật về vấn
đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá quá trình thực hiện CƯLH của Việt
Nam từ khi tham gia công ước.

Phương pháp khảo sát: Khảo sát dựa trên những văn bản quy phạm pháp luật,
các bộ giáo trình, sách, các tài liệu nghiên cứu và phương tiện truyền thông đại
chúng có nội dung liên quan tới đề tài đang nghiên cứu, từ đó chọn lọc ra những
thông tin phù hợp cần thiết cho bài tiểu luận.

3. Đối tượng nghiên cứu

CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc
tế.

Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

4. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định
của pháp luật về con nuôi có yếu tố nước ngoài trước và sau khi Luật NCN có hiệu
lực thi hành.

5. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên
cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp như: phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.

6. Bố cục của bài tập nghiên cứu đề tài

Nội dung chính của phần bài tập nghiên cứu đề tài gồm 4 chương:

Chương 1: CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế.

Chương 2: Luật NCN 2010.

Chương 3: Ảnh hưởng của CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế đối với pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2
Chương 4: Thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
nâng cao hiệu quả thực thi CƯLH 1993.

3
CHƯƠNG 1. CƯLH 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG
LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI QUỐC TẾ

1.1. Khái quát chung về CƯLH 1993

1.1.1. Sự hình thành của CƯLH 1993

Công ước năm 1965 là Công ước đầu tiên của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực
bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Sau đó, Hội
nghị La Haye về tư pháp quốc tế với mục đích “thống nhất hóa tiến bộ những quy
phạm của tư pháp quốc tế”, tại kỳ họp lần thứ XXII Hội nghị La Haye (từ 10 –
29/5/1993), các đại biểu của 66 nước tham gia, trong đó có Việt Nam (Việt Nam
tham gia với tư cách là khách mời của nước chủ nhà Hà Lan) đã nhất trí thông qua
và ký văn kiện cuối cùng về nội dung CƯLH về Bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực nuôi con nuôi. CƯLH số 33 hay còn gọi là CƯLH 1993 đã được
thông qua ngày 29/5/1993 và có hiệu lực ngày 1/5/1995.

1.1.2. Mục đích của CƯLH 1993

Cũng theo điều 1 của Công ước này, mục đích ra đời là nhằm để:

Thiết lập những bảo đảm để việc nuôi con nuôi quốc tế diễn ra vì lợi ích tốt
nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật
pháp quốc tế;

Thiết lập một hệ thống hợp tác giữa các nước ký kết để những đảm bảo
trên được tôn trọng và để ngăn ngừa việc bắt cóc, bán hoặc buôn bán trẻ em;

Đảm bảo tại các nước ký kết sự công nhận việc nuôi con nuôi được tiến
hành theo Công ước.

1.2. Nội dung cơ bản của CƯLH 1993

1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản của CƯLH 1993

CƯLH 1993 có những nguyên tắc cơ bản sau đây (là những nguyên tắc có
giá trị bắt buộc – jus cogens – đối với mọi quốc gia thành viên; pháp luật trong
nước không được trái với những nguyên tắc này):

Một là, bất cứ biện pháp nào tiến hành để bảo vệ trẻ em phải vì lợi ích tốt
nhất của trẻ em và thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em;

4
Hai là, tôn trọng quyền ưu tiên của trẻ em là được cha mẹ đẻ chăm sóc;

Ba là, nếu trẻ em vì một lý do nào đó mà không được cha mẹ đẻ chăm sóc,
thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm bảo vệ trẻ em, phải xem
xét tất cả những giải pháp chăm sóc lâu dài khác nhau để giúp trẻ em có mái ấm gia
đình, kể cả bằng những biện pháp thay thế như con nuôi, giám hộ hoặc được chăm
sóc ở trung tâm nuôi dưỡng;

Bốn là, việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ lâu dài giữa cha mẹ và
con;

Năm là, chỉ cho phép việc nhận nuôi trẻ em ngoài gia đình ruột thịt của các
em khi không thể tìm thấy một nơi phù hợp;

Sáu là, ưu tiên cho trẻ em làm con nuôi trong nước, việc cho trẻ em làm con
nuôi nước ngoài phải là giải pháp cuối cùng sau khi đã chắc chắn không thể tìm
được gia đình thay thế ở nước gốc của trẻ;

Bảy là, không được coi việc nuôi con nuôi là một nguồn thu lợi bất minh,
việc lạm dụng và buôn bán trẻ em cần được xử lý nghiêm minh.

Như vậy, CƯLH 1993 đã đề cập đến hàng loạt các nguyên tắc nhằm bảo vệ
trẻ em và bảo đảm các quyền, lợi ích tốt nhất cho trẻ em, kể cả việc nuôi con nuôi.
Đây là những nguyên tắc quan trọng, có tính quyết định đối với việc nuôi con nuôi
nước ngoài có được công nhận hay không.

1.2.2. Điều kiện của người xin con nuôi và của trẻ em được nhận làm con
nuôi

CƯLH 1993 quy định trẻ em được nhận làm con nuôi và cha mẹ nuôi phải
thường trú ở các nước khác nhau. Công ước không áp dụng đối với trường hợp trẻ
em thường trú ở một quốc gia thành viên và cha mẹ nuôi thường trú ở một quốc gia
không phải là thành viên và ngược lại.

Công ước chỉ áp dụng cho việc nuôi con nuôi với một cặp vợ chồng khác
giới hoặc một người đã hoặc chưa kết hôn. Công ước chỉ áp dụng đối với trường
hợp nuôi con nuôi làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con, không phụ thuộc vào
việc quan hệ pháp lý của trẻ em với cha mẹ đẻ đã chấm dứt hay chưa. Công ước

5
không áp dụng đối với trường hợp nuôi con nuôi đơn giản mà không phát sinh quan
hệ giữa cha mẹ và con.

Công ước chỉ áp dụng cho việc nuôi con nuôi đối với trẻ em dưới 18 tuổi.

1.2.3. Thành lập Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế

CƯLH 1993 có yêu cầu các quốc gia thành viên phải lập một cơ quan có
thẩm quyền ở cấp Trung ương về vấn đề con nuôi quốc tế, cả ở Nước nhận và Nước
gốc, nhằm tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin và giải quyết các vấn đề phát
sinh. Đây là quy định bắt buộc, giống như mô hình của một loạt Công ước đa
phương khác về tư pháp quốc tế.

1.2.4. Tổ chức được chỉ định phù hợp với pháp luật và thực tiễn của mỗi
nước

Công ước yêu cầu thành lập tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi con
nuôi mà cụ thể ở đây là tổ chức được chỉ định hoặc tổ chức được ủy quyền. Tổ chức
này có nhiệm vụ:

Đầu tiên, tổ chức theo đuổi mục đích phi lợi nhuận, trên cơ sở những điều
kiện và trong giới hạn đã được các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó cho
phép;

Tiếp đó, tổ chức được đặt dưới sự lãnh đạo và điều hành của những người
đủ tiêu chuẩn về đạo đức, đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm để làm trong lĩnh
vực con nuôi quốc tế;

Ngoài ra, tổ chức hịu sự giám sát của những nhà chức trách quốc gia có
thẩm quyền về cơ cấu, hoat động, tình trạng tài chính;

Và cuối cùng, tổ chức chỉ có thể hoạt động ở một quốc gia kí kết khác, nếu
được nhà chức trách có thẩm quyền của cả hai quốc gia cho phép.

1.2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi

Công ước quy định người thường trú ở một quốc gia thành viên được gọi là
Nước nhận muốn xin nhận một trẻ em ở một quốc gia thành viên khác được gọi là
Nước gốc, thì phải liên hệ với cơ quan Trung ương có thẩm quyền của Nước nhận.
Đây là quy định có tính bắt buộc. Tuy nhiên, đơn xin phép nuôi con nuôi không

6
nhất thiết phải nộp tại Cơ quan Trung ương mà có thể nộp tại cơ quan nhà nước
khác hoặc một tổ chức được chỉ định ở Nước nhận, nếu pháp luật cho phép.

Công ước nghiêm cấm việc cha mẹ nuôi tiếp xúc với trẻ em, trước khi hoàn
thành thủ tục cho nhận con nuôi. Đồng thời, Công ước không cho phép việc cha mẹ
nuôi được nộp đơn trực tiếp cho Cơ quan Trung ương hoặc bất cứ cơ quan nhà nước
khác hoặc cho một tổ chức được chỉ định của Nước gốc, trừ trường hợp được pháp
luật nước này cho phép.

1.2.6. Hệ quả của việc nuôi con nuôi

Việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và trẻ em là một trong
những yêu cầu được Công ước quy định tại Khoản 1c Điều 26. Mục đích là để đảm
bảo trẻ em được nhận làm con nuôi theo hình thức trọn vẹn, có địa vị pháp lý và
được bảo vệ như bất kỳ trẻ em nào của nước nhận. Tuy nhiên, việc chấm dứt quan
hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và trẻ em cũng không phải là giải pháp chắc chắn, vì vẫn
bao gồm trường hợp đặc biệt, khi việc nuôi con nuôi bị hủy.

Đồng thời, Công ước còn đề cập đến việc chuyển đổi hình thức nuôi con
nuôi. Đó là việc cho phép chuyển đổi từ hình thức nuôi con nuôi đơn giản thành
hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn. Theo đó, có hai điều kiện đặt ra đối với việc
chuyển đổi: pháp luật Nước nhận cho phép; và sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi
đã được đưa ra vì mục đích như vậy. Tuy nhiên, việc chuyển đổi sẽ không diễn ra,
nếu pháp luật của Nước gốc không chấp nhận việc chuyển đổi này hoặc pháp luật
của Nước nhận không quy định hệ quả làm chấm dứt quan hệ cha mẹ và con.

1.3. Việt Nam là thành viên của CƯLH 1993

Trong khi, trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi chiếm tỉ lệ rất
lớn so với các nước trong khu vực thì pháp luật Việt Nam cũng như những ĐƯQT
về tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết chưa đảm bảo các vấn đề như bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ, mối quan hệ với cha mẹ nuôi của đứa trẻ… Do
đó đặt ra yêu cầu Việt Nam cần chú trọng quan tâm và phát triển hơn nữa quy định
về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã phê chuẩn CƯLH 1993. Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của Công ước từ tháng 2 năm 2012.

7
CHƯƠNG 2: LUẬT NCN 2010

2.1. Khái quát về Luật NCN 2010

2.1.1. Quá trình hình thành và căn cứ pháp lý Luật NCN 2010

Trước khi Luật NCN được ban hành, vấn đề nuôi con nuôi đã được quy định
trong các văn bản pháp luật như: Luật HN&GĐ; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.

Pháp luật Việt Nam cũng đã cụ thể hóa những quy định về nuôi con nuôi
trong Luật NCN 2010, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Khoá XII và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.

2.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi là việc một người đã trưởng thành hoặc một cặp vợ chồng có
quan hệ hôn nhân hợp pháp nhận một hay nhiều trẻ em không do mình trực tiếp
sinh ra làm con. Việc nhận nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha, mẹ – con giữa
người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, tức là kể từ thời điểm nhận
con nuôi, người nhận con nuôi có tư cách là cha, mẹ của trẻ em được nhận làm con
nuôi.

Luật NCN năm 2010 của Việt Nam quy định: Nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
Cha, mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đăng ký. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi
việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.

2.2. Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

2.2.1. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật nước nơi người đó thường trú đồng thời phải đảm bảo các điều kiện
quy định sau đây:

Thứ nhất, khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc.

8
Thứ hai, việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân
biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Thứ ba, chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia
đình thay thế ở trong nước.

2.2.2. Điều kiện nuôi con nuôi

2.2.2.1. Điều kiện đối với người nhận nuôi

Theo Điều 29 Luật NCN thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài thường trú tại nước ngoài, nhận người Việt Nam làm con nuôi thì phải
đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nơi người đó thường trú và quy định tại
Điều 14 Luật NCN, cụ thể:

Một là, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

Hai là, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

Ba là, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con nuôi;

Bốn là, có tư cách đạo đức tốt.

Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc luật nơi thường trú
và Luật Việt Nam để điều chỉnh điều kiện nhận nuôi. Điều này là cần thiết để đảm
bảo con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường tốt nhất.

2.2.2.2. Điều kiện đối với con nuôi

Nhà nước đã đưa ra một số điều luật cơ bản dành cho trẻ em - người được
nhận nuôi để đảm bảo quyền lợi của trẻ em và ngoài ra cũng khuyến khích nhận
nuôi trẻ em mồ côi để chúng có thể sinh sống trong điều kiện tốt nhất và những điều
trên đã được thể hiện tại Điều 8 của Luật NCN 2010 quy định điều kiện đối với con
nuôi.

2.2.2.3. Điều kiện về ý chí

Thứ nhất, người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc
mong muốn đứa trẻ được sống trong tình yêu thương, mong muốn đứa trẻ được lớn
lên trong sự nuôi dưỡng và giáo dục tốt nhất và đặc biệt đó là phải muốn nhận nuôi

9
đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý chí, mong muốn đó của
người nhận nuôi phải được thể hiện và thay thế thông qua đơn xin nhận nuôi con
nuôi.

Thứ hai, về ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho
làm con nuôi được quy định trong Điều 21 Luật NCN. Ý chí của những người này
trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh bạch, và xuất phát từ sự tự nguyện
thật sự của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn
hoặc một áp lực nào. Nói cách khác, ý chí đó phải hoàn toàn độc lập. Nội dung của
ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi của người khác. Sự đồng ý đó có thể
thể hiện bất cứ lúc nào nhưng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ được sinh ra mà còn
sống.

Thứ ba, ý chí của bản thân người con nuôi cũng rất quan trọng vì đó chính là
quyết định có thể thay đổi cuộc đời của họ. Trong trường hợp này đứa trẻ tuy chưa
được coi có năng lực hành vi đầy đủ nhưng đã có khả năng nhận thức nhất định về
cuộc sống, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong
muốn làm con nuôi người khác, cũng như cảm nhận được sự an toàn hay không an
toàn khi được cho làm con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống…
Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc
lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm
con nuôi của đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi
có giá trị pháp lí.

Cuối cùng, ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận (hay
không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi
(hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lí của việc nuôi con nuôi.

2.2.3. Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi và chấp dứt việc nuôi con nuôi

2.2.3.1. Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi

Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 24 Luật NCN
2010. Khi việc nhận nuôi con nuôi được đăng kí thì người nhận nuôi và người được
nhận nuôi đã phát sinh quan hệ pháp luật. Vì vậy kể từ ngày nhận nuôi, giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con, giữa con nuôi

10
và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi như: giữa ông bà nội, ông bà ngoại
với cháu, giữa anh chị em trong nhà, giữa cô, dì, chú, bác với cháu cũng có các
quyền, nghĩa vụ đối với nhau.

Cha mẹ có quyền đổi tên của con nuôi tuy nhiên nếu con nuôi trên 9 tuổi thì
cha mẹ nuôi có nghĩa vụ phải tôn trọng quyết định của con nuôi có đồng ý hay
không về việc đổi tên. Ngoài ra khi có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về cha mẹ
trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi thì UBND cấp xã nơi đã
đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy
khai sinh cũ và tại cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi.
Nhưng về dân tộc của con nuôi sẽ không được thay đổi.

2.2.3.2. Hệ quả pháp lý khi chấm dứt việc nuôi con nuôi

Nếu như việc nhận nuôi con nuôi sẽ làm hình thành mối hệ của các bên liên
quan cụ thể là người nhận nuôi và người được nhận nuôi thì hệ quả của việc chấm
dứt nuôi con nuôi thì hoàn toàn ngược lại. Và cụ thể là sau khi được Tòa án thông
qua việc chấm dứt nhận nuôi con nuôi thì ngay tại thời điểm đó quan hệ và các
quyền, nghĩa vụ của các bên có liên quan sẽ được chấm dứt. Điều đó có nghĩa là sau
khi được Tòa án thông qua việc chấm dứt nuôi con nuôi thì các bên có liên quan sẽ
trở về thời điểm trước khi hình thành mối quan hệ với nhau.

Theo quy định tại Điều 25, khoản 1 Điều 27 Luật NCN, hệ quả và ảnh hưởng
đầu tiên của việc chấm dứt việc nuôi con nuôi đó là kết thúc quan hệ về pháp luật
giữa cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ cũng chất dứt theo quyết định theo các yêu cầu của các chủ thể mà
pháp luật quy định.

2.2.4. Thẩm quyền giải quyết của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Tại Khoản 2 Điều 9 của Luật NCN 2010 có quy định về thẩm quyền giải
quyết của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau: UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương còn được gọi chung là UBND cấp tỉnh nơi thường trú của
người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đăng ký việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.

11
2.2.5. Trình tự, thủ tục đăng kí nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Để đăng ký việc nuôi con nuôi thì cần thực hiện theo trình tự thủ tục như
sau:

Bước 1: Nộp hồ sơ

Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới
thiệu làm con nuôi tại UBND cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường
trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.

Hồ sơ của người nhận con nuôi được quy định tại Điều 31 Luật NCN.

Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài được quy định tại
Điều 32 Luật NCN.

Lưu ý: Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày UBND
cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Bước 2: Kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người có liên quan

UBND cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, tiến hành xong việc lấy ý kiến của những
người quy định tại Điều 21 Luật NCN năm 2010. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn
bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.

Bước 3: Đăng ký việc nuôi con nuôi

Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có
đủ điều kiện theo quy định của Luật này thì UBND cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con
nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ
hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người quy
định tại Điều 21 của Luật này.

Trường hợp UBND cấp xã từ chối đăng ký thì phải trả lời bằng văn bản cho
người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi
dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có ý kiến của người liên
quan.

12
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA CƯLH 1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM
TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI
3.1. Việt Nam trước khi Luật NCN được ban hành

3.1.1. Quy định của pháp luật

Trước khi có Luật NCN, Pháp luật Việt Nam đã trải qua các giai đoạn với
các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:

Trước năm 1959, Pháp luật Việt Nam chưa có quy định gì về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.

Từ năm 1959 -> 1986, Việt Nam ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với:
Đức (1980), Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984), Hungari (1985),
Bungari (1986).

Giai đoạn từ năm 1986 -> 2000, Luật HN&GĐ 1986 quy định về quan hệ
hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại chương IX
nhưng vẫn chung chung.

Giai đoạn từ năm 2000 -> 2010, Luật HN&GĐ 2000 chương XI quy định cụ
thể hơn các vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

3.1.2. Thực tiễn công tác thi hành pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài

Nguyên tắc xuyên suốt của Luật NCN là bảo đảm phù hợp với chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích
tốt nhất của trẻ em. Trong khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền trẻ
em là được sống trong môi trường gia đình gốc; việc nuôi con nuôi chỉ là biện pháp
thay thế gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ; ưu tiên giải quyết cho trẻ em làm con
nuôi trong nước, việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài chỉ là giải pháp
cuối cùng.

Đối tượng được lựa chọn gia đình thay thế (Điều 5 Luật NCN) vì là đạo luật
điều chỉnh chung cả vấn đề nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Do đó, đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật NCN sẽ là quan hệ nuôi
con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau, giữa công dân Việt Nam với người

13
nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam, cũng
như quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà cả hai bên hoặc
một bên định cư ở nước ngoài. Đây là những đối tượng cơ bản chịu sự tác động của
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình
nói riêng, trong đó có vấn đề nuôi con nuôi. Những đối tượng này có thể là cha
dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; Công
dân Việt Nam thường trú ở trong nước; Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; Người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài. Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin nhận một người làm con
nuôi thì xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con nuôi tốt nhất.

3.2. Việt Nam sau khi Luật NCN được ban hành

3.2.1. Những điểm mới của Luật NCN năm 2010

So với các quy định của pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi, thì Luật NCN
có những điểm mới cơ bản như sau:

Thứ nhất: Về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi được quy định tại
Điều 4 Luật NCN. Những nguyên tắc có giá trị chi phối toàn bộ quá trình giải quyết
và thực hiện việc nuôi con nuôi ở Việt Nam, bao gồm:

1) Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được
sống trong môi trường gia đình gốc.

2) Gia đình nơi trẻ em sinh ra được coi là môi trường lý tưởng nhất cho sự
phát triển của trẻ em. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên trẻ em cần được bảo
vệ và chăm sóc đặc biệt trong bầu không khí yêu thương, hạnh phúc và cảm thông
của những thành viên trong gia đình.

3) Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân
biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

4) Trong quá trình nuôi con nuôi, lợi ích của trẻ em phải được tính đến trước
tiên trong mối tương quan với lợi ích của cha mẹ nuôi. Việc nuôi con nuôi phải
được thực hiện trên tinh thần tự nguyện của các bên liên quan, không phân biệt giữa

14
người nhận con nuôi là nam hay nữ, đơn thân hay đã kết hôn; đồng thời không phân
biệt giữa con nuôi là trai hay gái.

5) Chỉ cho làm con người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay
thế ở trong nước. Đây cũng là nguyên tắc được thừa nhận trong các văn kiện pháp
lý quốc tế.

Thứ hai: Về biện pháp bảo đảm việc nuôi con nuôi trong nước. Điều 15 Luật
NCN ra quy định về việc tìm gia đình thay thế trong nước, nhằm bảo đảm trẻ em có
cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước. Việc tìm mái ấm được thực hiện ở ba
cấp: xã, tỉnh và Trung ương. Ở cấp xã, việc tìm gia đình thay thế được thực hiện
bằng cách niêm yết tại trụ sở UBND trong thời hạn 60 ngày; ở cấp tỉnh, được thực
hiện bằng cách thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh trong
thời hạn 60 ngày; ở Trung ương được thực hiện bằng việc đăng trên cổng thông tin
điện tử của Bộ Tư pháp. Nếu hết thời hạn này mà không có người trong nước nhận
làm con nuôi, thì trẻ em mới được giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài.

Ngoài ra, Điều 36 Luật này còn quy định, nếu hết thời hạn nêu trên, trẻ em
đang được xem xét để giới thiệu cho làm con nuôi người nước ngoài nhưng Sở Tư
pháp chưa giới thiệu cho người xin con nuôi cụ thể nào đó, mà có người trong nước
nhận trẻ em làm con nuôi thì vẫn được xem xét giải quyết. Như vậy, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt được tạo cơ hội đến mức tối đa để tìm được mái ấm gia đình thay thế.
Luật còn quy định công dân trong nước có nhu cầu và nguyện vọng nhận trẻ em làm
con nuôi mà chưa xác định được trẻ em cần nhận làm con nuôi, thì có thể đăng ký
nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú quy định tại Điều 16, nếu có trẻ em để giới
thiệu thì Sở Tư pháp giới thiệu người đó đến UBND cấp xã nơi thường trú để xem
xét giải quyết. Đây là biện pháp tích cực nhằm bảo đảm việc nuôi con nuôi trong
nước, bảo đảm trẻ em có cơ hội tìm được mái ấm gia đình thay thế ngay trên lãnh
thổ Việt Nam.

Thứ ba: Luật quy định điều kiện của người được nhận làm con nuôi trong
nước và nước ngoài là như nhau, đồng thời nâng độ tuổi của trẻ em được cho làm
con nuôi từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 8 Luật NCN). Đặc biệt, người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi cũng có thể được cho làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế, cô,
cậu dì, chú bác ruột.

15
Thứ tư: Quy định người nhận con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi
được quy định tại Điều 12 Luật NCN. Ngoài ra, người nước ngoài không thường trú
ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam phải trả một khoản tiền bù đắp một phần chi
phí cho việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng,
chăm sóc trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục
giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi,
giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng. Luật giao
Chính phủ quy định chi tiết thẩm quyền thu, mức thu, việc miễn giảm... Ngoài hai
khoản lệ phí và chi phí nêu trên, luật khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ nhân
đạo cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc hỗ
trợ này không ảnh hưởng đến việc cho nhận con nuôi.

Quy định này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao trong đó có UNICEF và
các nước có quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam...thể hiện quyết tâm
của Việt Nam trong việc đấu tranh chống lại hành vi thu lợi bất chính từ các hoạt
động liên quan đến việc nuôi con nuôi.

Thứ năm: Đổi mới cách thức giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài. Thực tế hiện nay, việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi là do các cơ sở nuôi
dưỡng trẻ em thực hiện. Theo báo cáo của các địa phương, đặc biệt tham khảo kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy, nếu để các cơ sở nuôi dưỡng vừa tiếp nhận trẻ em
để nuôi dưỡng, vừa tiếp nhận các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước
ngoài và trực tiếp giới thiệu trẻ em làm con nuôi, dễ dẫn đến tiêu cực, thỏa thuận
ngầm trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Do đó, để khắc phục tình trạng này,
Điều 36 Luật NCN quy định việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài
thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp. Khi tiến hành giới thiệu trẻ em, Sở Tư pháp phải
căn cứ vào các tiêu chí được quy định tại Điều 35 Luật NCN.

Thứ sáu: Về việc cho phép đăng ký đối với nuôi con nuôi thực tế. Tuy rằng
các nghị định của Chính phủ về đăng ký hộ tịch đã quy định việc nuôi con nuôi mà
không được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì không có giá trị pháp lý, nhưng
do nhiều nguyên nhân khác nhau nên thực tiễn cho thấy còn tồn tại nhiều việc nuôi
con nuôi giữa công dân với nhau chưa được đăng ký. Do đó, để bảo vệ quyền lợi
của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, Điều 50 Luật NCN quy định việc nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có
16
thẩm quyền trước ngày Luật này có hiệu lực thì sẽ được đăng ký trong thời hạn 5
năm nếu các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại
thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; đến thời điểm luật có hiệu lực mà quan
hệ cha mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con. Luật giao
Chính phủ quy định về thủ tục đăng ký đối với việc nuôi con nuôi này, bảo đảm
thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của người dân ở các vùng, miền. Đây chỉ
là giải pháp quá độ. Kể từ khi luật mới có hiệu lực, cần tăng cường tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân để nâng cao nhận thức của người dân
trong việc đăng ký nuôi con nuôi; việc nuôi con nuôi không đăng ký kể từ ngày luật
mới có hiệu lực sẽ không được công nhận giá trị pháp lý.

Thứ bảy: Luật quy định rõ ràng, minh bạch các điều kiện cấp phép hoạt động
cho các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức con nuôi nước ngoài đủ
điều kiện theo quy định tại Điều 43 của luật sẽ được xem xét để cấp phép hoạt động
tại Việt Nam.

3.2.2. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với CƯLH 1993

3.2.2.1. Điểm tương thích, phù hợp

Cơ bản pháp luật Việt Nam đã có sự phù hợp với CƯLH như:

Thứ nhất, nguyên tắc thể hiện rõ hướng tới bảo vệ quyền của người được
nhận nuôi – trẻ em được nhận nuôi. Các nguyên tắc này đều hướng tới mục đích
chung nhất là bảo vệ trẻ em và bảo đảm cho trẻ có được một gia đình tốt nhất cho
sự phát triển. Khi chưa có Luật NCN, tinh thần của một số nguyên tắc của CƯLH
mới chỉ được thể hiện chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp
luật Việt Nam (Bộ luật Dân Sự, Luật HN&GĐ, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em) như nguyên tắc tôn trọng quyền ưu tiên của trẻ em là được cha mẹ chăm sóc và
nguyên tắc coi việc cho trẻ làm con nuôi ở nước ngoài là giải pháp cuối cùng. Tuy
nhiên, hiện nay, với sự ra đời của Luật NCN ghi nhận nguyên tắc giải quyết việc
nuôi con nuôi cụ thể, rõ ràng hơn như đã đề cập ở chương 2.

Một là, tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong gia đình gốc. Nguyên tắc
này được thể hiện cụ thể bởi các điều luật có liên quan như Điều 5 quy định về thứ

17
tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế thì cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột
của người được nhận làm con nuôi là ưu tiên đầu tiên.

Hai là, việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
được nhận làm con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái
pháp luật và đạo đức xã hội. Nội dung này cũng được cụ thể hóa bằng các quy định
như: Điều 5. Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế; Điều 7. Khuyến khích hỗ trợ
nhân đạo cho việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; Điều 13. Các hành vi bị
cấm; Điều 28. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Điều 39. Thông
báo tình hình phát triển của con nuôi…

Ba là, chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được gia
đình thay thế ở trong nước. Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 28 quy định
những trường hợp cụ thể của nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Thứ hai, về điều kiện nhận con nuôi. Điều 29 Luật NCN có quy định điều
kiện đối với người nhận con nuôi trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Các điều kiện của pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa hai yêu cầu: “đủ tư cách” và
“thích hợp” của CƯLH đối với người nhận con nuôi. Như vậy, ta thấy các điều kiện
đối với người nhận con nuôi theo pháp luật Việt Nam đã tương thích với CƯLH. Cả
công ước và pháp luật Việt Nam đều ghi nhận điều kiện đối với người nhận con
nuôi do pháp luật nước người đó thường trú quy định và người nhận nuôi con nuôi
phải có đủ khả năng nuôi dưỡng các em.

Nhìn chung thì CƯLH 1993 hay Luật NCN đều hướng đến bảo vệ tẻ em và
bảo đảm các quyền, lợi ích tốt nhất cho trẻ em, kể cả việc nuôi con nuôi, hướng tới
xây dựng và duy trì môi trường và điều kiện ổn định, hài hòa, bền vững trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế.

Thứ ba, về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi. Các quy định về
trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định
cụ thể từ Điều 31 đến Điều 37 Luật NCN. Về cơ bản, các quy định này đã phù hợp
với quy định của CƯLH.

3.2.2.2. Điểm chưa tương thích, chưa phù hợp

18
Thứ nhất, về điều kiện người được nhận nuôi được quy định tại Điều 8 Luật
NCN. Nhận thấy, phạm vi trẻ em có thể được nhận làm con nuôi theo pháp luật Việt
Nam hẹp hơn so với CƯLH. Trẻ em Việt Nam dưới 16 tuổi và một số trường hợp
nhỏ từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi mới có thể được nhận làm con nuôi trong khi theo
CƯLH thì người có thể được nhận làm con nuôi là người dưới 18 tuổi. Nên chẳng
cần mở rộng phạm vi trẻ em có thể được làm con nuôi theo pháp luật Việt Nam cho
phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, việc quy định trẻ em từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi có thể được làm con nuôi sẽ mang đến nhiều cơ hội hơn cho trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn bởi phần lớn trẻ em trong độ tuổi này ở nước ta khó có thể tìm được
một công việc ổn định để tự nuôi sống bản thân.

Thứ hai, về một số nguyên tắc của Luật NCN chưa tương thích, phù hợp với
CƯLH. Một số nguyên tắc trong CƯLH chưa được Luật NCN quy định cụ thể như:
Không được coi việc nuôi con nuôi là một nguồn thu lợi bất minh, việc lạm dụng và
buôn bán trẻ em cần được xử lý nghiêm minh. Xét thấy, Luật NCN nên đưa nội
dung này thành một nguyên tắc để đảm bảo cho việc nuôi con nuôi nói chung và
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng được phát triển theo đúng tinh thần
nhân đạo và giá trị của nó, phòng chống được những tiêu cực và hạn chế tối đa tội
phạm phát sinh vừa đảm bảo cho môi trường nuôi con nuôi quốc tế an toàn vừa đảm
bảo trật tự công cộng của quốc gia.

Việc quy định các nguyên tắc của Luật NCN Việt Nam còn chung chung và
chưa cụ thể, chưa chỉ rõ tinh thần của nguyên tắc. Đơn cử như đối với nguyên tắc
Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong
môi trường gia đình gốc vô tình có phần trùng lặp với nguyên tắc Chỉ cho làm con
nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước
song lại không thể hiện rõ tinh thần và ý nghĩa của mỗi nguyên tắc này như CƯLH.
Đây có thể hiểu là vấn đề về mặt lập pháp thể hiện trong Luật NCN, tinh thần của
Luật NCN tương ứng với CƯLH xong về sự thể hiện thì chưa rõ ràng và chính xác
được như CƯLH

Một số nguyên tắc đã được thể hiện thông qua các điều luật nhưng lại không
được nâng lên thành nguyên tắc trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi. Ví dụ
nguyên tắc Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ lâu dài giữa cha mẹ và
con quy định tại Điều 24. Hệ quả của việc nuôi con nuôi nhằm hướng tới quan hệ
19
cha mẹ và con có tính bền vững, lâu dài nhưng lại không được nâng lên thành
nguyên tắc để đảm bảo cho quan hệ nuôi con nuôi được phát triển an toàn và hiệu
quả hơn.

20
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CƯLH
1993

4.1. Thực trạng

4.1.1. Kết quả đạt được

4.1.1.1. Số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài.

Theo số liệu thống kê, kể từ khi Luật NCN 2010 có hiệu lực (01/01/2011) và
từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em
trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế cho đến hết năm 2020, ở một số địa bàn các
tỉnh trên cả nước đã thu được nhiều kết quả khả quan.

Chỉ tính riêng tới năm 2019, trên cả nước đã có hơn 3291 trường hợp trẻ em
được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài. Có thể thấy được đây là thành quả
sau 10 năm nỗ lực của các cơ quan chức năng, các Bộ, Ban, Ngành và các tổ chức
có thẩm quyền trong việc đăng kí, giải quyết thủ tục cho trẻ em được nhận làm con
nuôi kể từ khi Luật NCN được ban hành và có hiệu lực và đặc biệt là kể từ khi Việt
Nam trở thành thành viên của CƯLH 1993.

Phần lớn trẻ em được nhận nuôi nước ngoài thuộc đối tượng cần được chăm
sóc đặc biệt (như trong bản báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật NCN 2010 của
Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương có tới 147 trường hợp là trẻ em bị bỏ rơi), với sự nhiệt
tình, tích cực hỗ trợ tìm kiếm gia đình thay thế của các nước như Pháp, Canada,
Italy và Tây Ban Nha đã giúp cho nhiều trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, bị bỏ rơi,
khuyết tật,.. được giải quyết làm con nuôi nước ngoài tại chính những quốc gia đó.

So với những năm trước khi Luật NCN 2010 chính thức có hiệu lực và trước
thời điểm Việt Nam tham gia CƯLH 1993, số lượng trẻ em dược giải quyết cho làm
con nuôi nước ngoài đã có sự biến chuyển rõ rệt, thậm chí số lượng trẻ em được
nhận nuôi còn tăng mạnh hơn thời điểm Luật này vừa có hiệu lực, mà cụ thể là tại
năm 2013. Không chỉ số lượng trẻ em được nhận nuôi tăng cao mà, điều kiện, cơ
hội cho nhiều trẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo, trẻ em khuyết tật, không có nơi
nương tựa, bị bỏ rơi từng không được nhận nuôi trong nước, đã được ba mẹ, gia
đình nuôi nước ngoài có đầy đủ điều kiện chăm sóc ở một môi trường có các điều

21
kiện về giáo dục, y tế, văn hóa xã hội thật sự tốt hơn, phát triển hơn. Có thể thấy
chất lượng đã được cải thiện rất nhiều đáp ứng được các yêu cầu của CƯLH.

4.1.1.2. Sự hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền, có liên quan tại Việt
Nam và nước ngoài

* Giữa các cơ quan có thẩm quyền, liên quan tại Việt Nam

Từ những quy định của Luật NCN 2010 và Nghị định 24/2019/NĐ-CP sửa
đổi Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật NCN để đảm bảo giải quyết việc
nuôi con nuôi được chặt chẽ, minh bạch, khách quan và nhanh chóng để bảo vệ
được quyền cho những trẻ em được nhận làm con nuôi cũng như cha mẹ ruột, cha
mẹ nuôi trong quan hệ nuôi con, nhất thiết phải có sự phối hợp của các cơ quan từ
Trung ương đến địa phương. Ở cấp Trung ương, các cơ quan này bao gồm Bộ Tư
pháp, Bộ LĐTBXH, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an. Ở địa phương, các cơ quan này
chủ yếu là Sở Tư pháp, Sở LĐTBXH, Công an tỉnh, Văn phòng UBND cấp tỉnh và
đặc biệt là các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em.

* Giữa các cơ quan có thẩm quyền, liên quan của Việt Nam và nước ngoài

Trong quá trình giải quyết các thủ tục nhận nuôi con nuôi theo Luật NCN
2010, Bộ Tư pháp luôn phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan về nuôi con nuôi của
các quốc gia khác, các Đại sứ quán của các nước đặc biệt là trong quá trình giải
quyết hồ sơ xin nhận con nuôi, cấp thị thực nhập cảnh nước ngoài cho trẻ em được
nhận nuôi, tiếp tục theo dõi tình hình, điều kiện môi trường sống và quá trình hòa
nhập, phát triển của trẻ em sau khi được nhận nuôi.

Quá trình phối hợp này được thực hiện dưới hình thức trao đổi thông tin là
chủ yếu nên đôi khi sẽ xảy ra tình trạng chậm trễ thông tin khó kịp thời nắm bắt và
giải quyết các vấn đề phát sinh. Tuy nhiên do có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư
pháp và các cơ quan có thẩm quyền của các nước ngoài có liên quan nên những
vướng mắc phát sinh dễ dàng được giải quyết, đảm bảo quyền và các lợi ích của trẻ
em.

4.1.1.3. Về việc hợp tác với các nước thành viên CƯLH 1993

Trước khi tham gia CƯLH, trên cở sở các thỏa thuận và hiệp định song
phương về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với 08 nước, gồm:

22
Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Thụy Điển, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Hoa Kì và Canada. Đến
nay cả 08 quốc gia này và cả Việt Nam đều là thành viên của CƯLH.

Đến ngày 01/02/2012, đây là thời điểm mà CƯLH có hiệu lực đối với Việt
Nam, thì Việt Nam chỉ còn duy trì hợp tác trên cơ sở hiệp định song phương về nuôi
con nuôi với 06 nước trong đường có Hoa Kì và Thụy Điển đã không còn tiếp tục
hợp tác. Sau khi Công ước có hiệu lực tại Việt Nam ngoại trừ Canada thỏa thuận
tiếp tục hợp tác với Việt Nam trên cơ sở CƯLH thì 05 quốc gia còn lại vẫn tiếp tục
giữ sự hợp tác trên cơ sở hiệp định song phương.

Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đã và đang chính thức thiết lập quan hệ
hợp tác với hơn 07 quốc gia thành viên thuộc Công ước La Haye, gồm: Ireland,
Thụy Điển, Vương quốc Bỉ, CHLB Đức, Na-uy, Hoa Kì và Luxembourg.

Như vậy, có thể thấy sau thời gian thực hiện Luật NCN 2010 và CƯLH, Việt
Nam đã có những bước chuyển mình rõ rệt trong việc giải quyết việc trẻ em được
nhận làm con nuôi và đạt được những kết quả tích cực.

4.1.2. Một số khó khăn, hạn chế và bất cập

4.1.2.1. Đối với việc lập danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế và danh
sách trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài

Việc thành lập danh sách cho trẻ em cần tìm gia đình thay thế là một trong
những nhiệm vụ bắt buộc và tối quan trọng, như quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều
15 Luật NCN 2010, các cơ sở nuôi dưỡng được chỉ địch cho việc giới thiệu trẻ em
làm con nuôi phải tiến hành lập danh sách cho các em trước khi giới thiệu các em
làm con nuôi nước ngoài hoặc tìm kiếm gia đình thay thế trong nước. Từ đây có thể
thấy sự ưu tiên tìm kiếm gia đình thay thế cho các em vần là ở trong nước, chỉ giải
quyết cho làm con nuôi nước ngoài khi không tìm kiếm được gia đình thay thế tại
Việt Nam.

Thực tế cho thấy, danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế tại các cơ sở
được chỉ định đã thuyên giảm rất nhiều. Chỉ có khoảng 1/3 số tỉnh thành thực hiện
nhiệm vụ tìm kiếm gia đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại Điều 15 Luật
NCN 2010 và từ đây có thể thấy sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, Sở Tư
pháp, Sở LĐTBXH chưa đồng nhất, có thể nói là quá qua loa trong công tác chỉ đạo

23
của các cơ quan thuộc cấp Trung ương, cũng như sự thiếu quan tâm một cách xác
đáng trong việc tìm kiếm gia đình thay thế cho các trẻ em và cũng như việc lập
danh sách các em. Hệ quả là danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế trên phạm
vi cả nước không phản ánh đúng thực trạng nhu cầu cần tìm tình thương gia đình
của những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

4.1.2.2. Công tác kiểm tra xác minh hồ sơ, lấy ý kiến của cha/mẹ đẻ hoặc
người giám hộ và xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài

Theo quy định của Luật NCN 2010, cụ thể là tại Điều 33, việc xác định trẻ
em đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài là kết quả của công tác kiểm tra, xác minh
hồ sơ của trẻ em và lấy ý kiến từ những người có liên quan. Mặc dù có thể nói công
tác xác minh nguồn gốc của trẻ em bị bỏ rơi đã dần có hiệu quả và nề nếp hơn, tuy
nhiên vẫn chưa đảm bảo thời hạn được quy định. Tình trạng này càng kéo dài thì
thời gian giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài càng trì trệ, việc tìm kiếm
cha, mẹ đẻ của trẻ em để lấy ý kiến vốn rất khó khăn và phức tạp. Ngoài ra nội
dung thuộc nhóm cần được xác minh đôi khi cũng không đầy đủ theo quy định.

Theo quy định của CƯLH, mà tại Điều 30 của Công ước này có thể hiểu,
công tác xác minh nguồn gốc của trẻ em là nhiệm vụ của nước sở tại, công tác này
nếu được thực hiện tốt sẽ bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em, cũng như góp
phần phòng ngừa nạn buôn bán trẻ em, lợi dụng trẻ em cho mục đích bất hợp pháp,
cũng như các trường hợp thu lợi bất chính từ những việc liên quan tới việc cho nhận
con nuôi trái với mục đích của Công ước.

Trên thực tế, việc xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài vẫn
còn gây nhiêu lúng túng cho các Sở Tư pháp của các tỉnh thành trên địa bàn cả nước
nhất là đối với trẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo hoặc khuyết tật, sự bất cập này tiếp
tục tồn tại cho tới khi Nghị định 24/2019/NĐ-CP có hiệu lực. Từ quy định này lại
nảy sinh một vấn đề, khi nào thì Cục con nuôi được tiến hành lấy ý kiến.

4.1.2.3. Công tác giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài

Cũng như công tác giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài từ Cục Con
nuôi thuộc Bộ Tư pháp về các tỉnh có tiến độ rất chậm chạp, cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan liên ngành có liên quan trong công tác giới thiệu trẻ em cũng còn chưa

24
được thực hiện tốt hay thậm chí có thể nói là cực kì rề rà, kéo theo thời gian giới
thiệu trẻ em bị đình trệ và kéo dài.

Tình trạng sức khỏe của trẻ em được giới thiệu cũng là một vấn đề mà các cơ
quan của Việt Nam thực hiện chưa được rõ ràng, thiếu trách nhiệm, thậm chí trong
một vài trường hợp còn có thể nói là có tính chất lừa dối, giấu diếm đặc biệt là đối
với trẻ em thuộc nhóm được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài, điển hình là với
tình trạng sức khỏe của trẻ em thuộc Danh sách 1- Những trẻ em ở cơ sở nuôi
dưỡng cần tìm gia đình thay thế mà không phải là trẻ em khuyết tật mắc bệnh hiểm
nghèo còn chưa được đảm bảo, một số trẻ mắc các bệnh hiểm nghèo, hay các bệnh
như chậm phát triển, các ảnh hưởng tiêu cực về tâm lí… nhưng hồ sơ y tế lại không
có đề cập tới và vẫn được giới thiệu. Cho tới khi Nghị định 24/2019/NĐ-CP có hiệu
lực thì việc lập danh sách trẻ em theo hình thức phân loại dựa trên tình trạng sức
khỏe (Danh sách 01 và 02) để làm con nuôi nước ngoài không còn nữa, điều này
không đồng nghĩa với việc cơ sở nuôi dưỡng và các bên chịu trách nhiệm giới thiệu
trẻ em có thể bỏ qua hoặc không báo cao trung thực tình trạng sức khỏe của trẻ em
càng không giúp cho tình trạng này thuyên giảm.

4.1.3. Nguyên nhân dẫn tới những khó khăn, hạn chế và bất cập

4.1.3.1. Nguyên nhân khách quan

Cả Luật NCN 2010 và CƯLH vẫn còn “rất mới”, sự tách biệt giữa hỗ trợ
nhân đạo và nhận nuôi con nuôi. Để hiểu và thực hiện được cần có sự có sự cố gắng
của cả phía chính quyền, cán bộ làm công tác giải quyết nuôi con nuôi và người
dân. Điều này yêu cầu nhận thức của các bên liên quan tới việc thống kê, rà soát,
lập danh sách, giới thiệu trẻ em, giải quyết thủ tục và nhận nuôi con nuôi. Chính vì
những điểm mới của Luật NCN và CƯLH làm cho những đối tượng liên quan
không kịp thích ứng và thay đổi nhận thức, việc thực hiện Luật NCN dù đã ra đời
10 năm và CƯLH đã có hiệu lực 09 năm tại Việt Nam vẫn còn chậm trễ, thiếu hiệu
quả.

Nhiều quy định trong Luật NCN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành
khá phức tạp và rườm rà chưa cụ thể, thậm chí văn bản hướng dẫn sau còn mâu
thuẫn với văn bản trước. Cũng như thực trạng các văn bản luật ở các ngành Luật
khác, những quy dịnh của Luật NCN 2010 chỉ mang tính chất dự đoán và rào trước

25
những khả năng xảy ra trong thực tế, dẫn tới không thể điều chỉnh hết những tình
huống phát sinh trong thực tế, tạo thành thế “điều luật đuổi theo sự việc”.

4.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Xuất phát từ đòi hỏi nhận thức của người dân phải kịp thời thích ứng với
những quy định vẫn còn tương đối mới của pháp luật về việc nuôi con nuôi và
CƯLH thì công tác tuyên truyền khuyến khích người dân phải được quan tâm đúng
mực. Nhưng trên thực tế mối quan tâm này vẫn chưa thực sự đủ, công tác tuyên
truyền cũng chưa mang lại hiệu quả, dẫn tới việc nhận thức về vấn đề nuôi con nuôi
và đăng kí nuôi con nuôi chưa phổ biến trong người dân, ảnh hưởng tới quá trình
thực hiện CƯLH tại Việt Nam.

Nguồn lực về nhân sự và tài chính vẫn còn chưa được đảm bảo, chưa được
đầu tư một cách nghiêm túc để việc triển khai thực hiện Luật NCN và CƯLH còn
gặp nhiều khó khăn. Theo như những nghiên cứu từng được thực hiện, có thể thấy
hầu hết các cán bộ làm công tác đăng kí nuôi con nuôi ở địa phương làm việc theo
chế độ kiêm nhiệm, thường xuyên chuyển đổi vị trí khiến cho công tác của đội ngũ
cán bộ không có tính chuyên nghiệp.

4.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi CƯLH 1993

4.2.1. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về con nuôi có yếu tố nước ngoài

4.2.1.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật NCN 2010

Một là, bổ sung quy định về thu hồi hoặc hủy giấy chứng nhận việc nhận
nuôi con nuôi trong một số trường hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những trẻ
em sau khi được nhận nuôi, đồng thời cũng khẳng định sự trách nhiệm của các cơ
quan có liên quan.

Theo quy định của pháp luật, những cá nhân muốn nhận con nuôi đều phải
đáp ứng những yêu cầu nhất định, cụ thể là tại Điều 14 Luật NCN 2010 quy định về
điều kiện đối với người nhận con nuôi. Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp
trẻ em sau khi được nhận nuôi đều được cha mẹ nuôi đảm bảo điều kiện sông tốt
đẹp, thậm chí có những trường hợp trẻ em còn bị cha mẹ nuôi bạo hành. Ví dụ
trường hợp của bé Jung In bị cha mẹ nuôi bạo hành dẫn tới tử vong tại Hàn Quốc,

26
dù vụ án này không xảy ra ở Việt Nam nhưng có thể xem đây như một lời nhắc nhở
cho các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam, nhất thiết phải có một cơ chế giám
sát, kiểm tra nghiêm ngặt quá trình trẻ em sau khi được nhận nuôi.

Giám sát quá trình sau khi trẻ em được nhận nuôi, không những có thể theo
dõi quá trình hòa nhập và phát triển trong môi trường sống mới của trẻ em mà còn
có thể loại bỏ sớm những mối nguy bị bạo hành, lạm dụng, môi trường sống và điều
kiện chăm sóc của ba mẹ nuôi không phù hợp. Nếu phát hiện những tình trạng như
điều kiện chăm sóc của ba mẹ nuôi không còn đảm bảo được cho quá trình phát
triển của trẻ hoặc hành vi bạo hành, làm dụng đốii với trẻ em thì phải có sự can
thiệp, thu hồi, hủy giấy chứng nhận nuôi con nuôi và có các quyết định xử lí phù
hợp.

Hai là, sửa đổi Khoản 3 Điều 24 quy định “Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị
bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi” thành con nuôi được thay
đổi dân tộc theo cha mẹ nuôi, để giúp các em dễ dàng hòa nhập với gia đình, môi
trường và cuộc sống mới.

Sau khi được nhận nuôi, trẻ em có thể được sống trong một môi trường hoàn
toàn mới và khác biệt, điều này đòi hỏi một sự thích ứng từ chính những đứa trẻ
được nhận nuôi. Giả sử khi một trẻ em người H’Mông được một cặp vợ chồng
người Hoa nhận nuôi, người Hoa thường có xu hướng sống trong một ngôi nhà có
hơn 02 thế hệ, điều này đồng nghĩa với việc trẻ em được nhận nuôi sẽ phải thích
ứng khó khăn hơn, việc pháp luật chỉ cho phép ba mẹ nuôi thay đổi họ và tên con
nuôi vô hình chung vẫn để lại một rào cản khá lớn cho việc hòa nhập vào một môi
trường sống mới của trẻ em.

Ba là, hình sự hóa các quy định xử phạt những hành vi vi phạm pháp luật về
nuôi con nuôi.

Trên thực tế, tình trạng lợi dụng các vấn đề liên quan tới nuôi con nuôi vốn
diễn ra rất nhiều và khá phức tạp, thậm chí có những trường hợp diễn ra với quy mô
rất lớn hay tạo một vỏ bọc là tổ chức nhân đạo tư nhân nhằm lợi dụng công tác hỗ
trợ nhân đạo cho trẻ em hay tìm kiếm gia đình thay thế trong và ngoài nước cho trẻ
em nhằm thu lợi bất chính. Với các hành vi này thì đối tượng bị tác động chủ yếu là
trẻ em, những người đủ khả năng nhận thức và bảo vệ bản thân có thể gây ra những

27
ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình phát triển và để lại những ảnh hưởng xấu tới thể
xác và tinh thần của trẻ em.

Vậy có nên hình sự hóa các hành vi vi phạm đối với vấn đề nuôi con nuôi
hay không? Nếu như hình sự hóa cho cá hành vi trên thì mức chế tài như thế nào thì
sẽ phù hợp? Từ những vướng mắc này nhóm xin đưa ra một vài kiến nghị cụ thể
như sau: Nên hình sự hóa các hành vi vi phạm nhưng các mức chế tài hình sự cần
có tính linh hoạt, phù hợp cho từng tình tiết, từng hành vi, từng vụ việc cụ thể và
từng mức độ hậu quả có thể để lại cho đối tượng bị tác động.

Đối với các hành vi vi phạm gây ảnh hưởng tiêu cực tới tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và quá trình phát triển về sau của trẻ em nên xử phạt dựa
trên cơ sở là hành vi hoặc hậu quả tương tự như những hành vi được quy định trong
Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như tội Giết người; Vô ý làm chết
người; Cố ý gây thương tích; Hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Cưỡng dâm;.. đồng thời
có thể áp dụng các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho từng
hành vi cụ thể.

4.2.1.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Nghị định 19/2011/NĐ-CP
(những quy định còn hiệu lực) và Nghị định 24/2019/NĐ-CP

Một là, sửa đổi Khoản 1 Điều 49 Nghị định 19/2011/NĐ-CP thành “Cơ
quan thu chuyển 95% mức chi phí theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Nghị định
này cho địa phương” thay vì “Cơ quan thu chuyển 95% mức chi phí quy định tại
khoản 1 Điều 47 của Nghị định này cho ngân sách cấp tỉnh để phân bổ sử dụng
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa phương” vừa
đảm bảo được tính công khai minh bạch, vừa có thể linh hoạt trong quá trình chi
tiêu cho mục đích nâng cao, cải thiện dịch vụ bảo vệ và chăm sóc cho trẻ em.

Hai là, đơn giản hóa thẩm quyền giải quyết thủ tục nuôi con nuôi. Theo pháp
luật Việt Nam, thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy
định tại Điều 9 Luật NCN và được hướng dẫn chi tiết thi hành tại Khoản 2 Điều 2
Nghị định 19/2011/NĐ-CP:

“Ủy ban nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi thường trú
của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường
hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp

28
Tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con
nuôi.

Sở Tư pháp thực hiện đăng kí việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết
định của Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh.”

Vậy thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thuộc Bộ Tư
pháp, Sở Tư pháp và UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, Bộ
Tư pháp là đầu mối trong việc bảo đảm thực thi, tạo điều kiện trao đổi thông tin với
các nước.

Ta có thể dễ dàng nhận thấy là ở Việt Nam có quá nhiều cơ quan tham gia
vào việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư
pháp với tư cách là Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế của Việt Nam chưa
phát huy được như chức năng của mình, chưa có đầy đủ khả năng và thẩm quyền
cần thiết giống như các nước thành viên CƯLH.

Trước những hạn chế như trên, để giảm thiểu cơ quan tham gia vào việc giải
quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đồng thời trình tự, thủ tục giải quyết
được rút gọn, nhanh chóng hơn dẫn tới nhóm thảo luận đưa ra đề xuất: Thẩm quyền
giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi thuộc Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản và cũng
là cơ quan duy nhất giải quyết từ đó đưa ra cách thức thực hiện thủ tục nhanh gọn
hơn.

4.2.2. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

Để đảm bảo thực thi CƯLH ở Trung ương, Việt Nam đã có tổ chức công tác
liên ngành đảm nhận trách nhiệm đó theo Quyết định số 1836/QĐ-BTP ngày
16/07/2013, nhưng thành viên của tổ này chỉ tham gia với tư cách cá nhân, trong khi
các Bộ ngành có liên quan ở cấp Trung ương như Bộ Tư pháp, Bộ LĐTBXH,.. thì
vẫn chưa có sự hợp tác chặt chẽ. Cần tăng cường hơn nữa công tác phối hợp trong
công tác chỉ đạo, giải quyết những bất cập những vướng mắc phát sinh trong quá
trình quản lí công tác thực hiện Luật NCN và CƯLH.

Cần có thêm những thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp và các Bộ ngành có
liên quan nhằm đảm bảo quá trình hòa nhập với gia đình mới, quá trình phát triển

29
của những trẻ em được nhận nuôi, định hình một bộ khung nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của trẻ em trong những tình huống cấp bách.

4.2.3. Hoàn thiện công tác kiểm tra các hoạt động nuôi con nuôi quốc tế

Cần có những quy định cụ thể cho các cơ quan có liên quan để chỉ đạo, kiểm
tra thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi và CƯLH cần phải được tiến hành thường
xuyên và ở tất cả các cấp để mau chóng phát hiện nhũng khó khăn, tình huống khẩn
cấp phát sinh để kịp thời có hướng xử lý đúng đắn và giải quyết cụ thể.

Kiên quyết, dứt khoát xử lý những cá nhân, tổ chức lợi dụng công tác giải
quyết đăng kí nhận nuôi con nuôi, giới thiệu trẻ em nhằm thu lợi bất chính.

4.2.4. Tăng cường nguồn lực cán bộ

Cũng như đã nói ở phần trước, thực tế cho tới tận ngày nay, đội ngũ cán bộ
làm công tác thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam chưa có trình độ
chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao. Nhất thiết phải có sự nâng cấp cải thiện về số
lượng cũng như chất lượng của đội ngũ cán bộ.

Đối với cấp Trung ương, tiếp tục bổ sung nhân sự cho Cục Con nuôi để đảm
bảo nguồn lực cho bộ phận thường trực của cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi
quốc tế. Xây dựng một đội ngũ chuyên trách với trình độ chuyên môn cao.

Đối với địa phương, nên hạn chế việc để cho cán bộ kiêm nhiệm và chuyển
vị trí công tác quá nhiều, đảm bảo một nguồn nhân lực luôn có kinh nghiệm tính
chuyên nghiệp cao giúp cho những công việc từ thành lập danh sách, rà soát, xác
minh nguồn gốc trẻ em… trở nên nhanh chóng và hiệu quả hơn.

4.2.5. Đảm bảo nguồn kinh phí, nguồn lực về tài chính cho các cơ quan có
trách nhiệm quản lí công tác về nuôi con nuôi

Kinh phí hoạt động và nguồn lực về tài chính là một trong những yêu cầu cấp
thiết nhất để các cơ quan làm công tác thực hiện Luật NCN và CƯLH có thể hoạt
động một cách hiệu quả hơn.

Ở Trung ương, Bộ Tư pháp cần phải đảm bảo kinh phí hoạt động cho Cục
Con nuôi đối với việc hợp tác với các cơ quan chuyên trách khác của nước ngoài ở
mỗi chuyến công tác. Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng cá kênh thông tin nhằm
dễ dàng cho việc thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em, các phần mềm quản lí

30
thông tin, những phần mềm hỗ trợ thủ tục đăng kí nuôi con nuôi cũng như những
phần mềm hỗ trọ cho công tác quản lí của đội ngũ cán bộ.

Ở cấp địa phương, UBND các tỉnh cần đầu tư ngân sách một cách nghiêm
túc đảm bảo cho quá trình thực hiện Luật NCN và CƯLH, đầu tư vào trang thiết bị
điện tử nhằm xây dựng hệ thống thông tin lưu trữ và liên kết với những cơ quan cấp
trên một cách nhanh chóng và hiệu quả.

31
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng Việt Nam tham gia CƯLH số 33 ngày 29/5/1993 về
bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế là một bước tiến quan
trọng và cần thiết cho sự phát triển của thực tiễn xã hội trong việc nuôi con nuôi
quốc tế ở Việt Nam. Từ khi Luật NCN có hiệu lực và Việt Nam tham gia CƯLH
1993, vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài có xu hướng phát triển mới, đây là hệ
quả của sự thay đổi chính sách pháp luật rất cần được nghiên cứu kịp thời và
nghiêm túc. Bài tiểu luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản của CƯLH 1993, Luật
NCN 2010 về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngooài, từ đó chỉ ra ảnh hưởng của
CƯLH 1993 về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế đối với pháp luật
nuôi con nuôi tại Việt Nam.

Trong khi trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi chiếm tỉ lệ rất
lớn so với các nước trong khu vực thì việc đặt ra yêu cầu đối với pháp luật Việt
Nam cần chú trọng quan tâm và phát triển hơn nữa những quy định về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của trẻ em trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và bổ
sung quy định của pháp luật về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nói riêng cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Để đảm bảo cho ý nghĩa và
mục đích của việc nuôi con nuôi được thực hiện một cách triệt để, bài tiểu luận đề
xuất thay đổi trong pháp luật Việt Nam những vấn đề nảy sinh từ việc nuôi con nuôi
quốc tế.

32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Công ước La Haye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con
nuôi quốc tế.
2. Quốc hội (2010), Luật nuôi con nuôi 2010
3. Chính phủ (2011), Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
4. Chính phủ (2019), Nghị định 24/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
5. Quốc Hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình
6. Bộ Tư pháp - Cục con nuôi (2012), Sách hướng dẫn số 2 theo công ước La
Haye ngày 29 tháng 3 năm 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con
nuôi quốc tế, Hà Nội.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. Lưu Thị Phượng (2014), Thực hiện công ước La Hay và vấn đề nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. UNICEF-ISS (2009), Nhận con nuôi từ Việt Nam – những phát hiện và
khuyến nghị của đánh giá, Hà Nội.

9. Báo cáo số 41/BC-UBND Báo cáo tổng kết thi hành luật nuôi con nuôi và
Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi
quốc tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

10. Xem xét đề nghị của Chính phủ về việc ký và phê chuẩn Công ước La
Haye về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế,
https://dangcongsan.vn/phap-luat/xem-xet-de-nghi-cua-chinh-phu-ve-viec-ky-va-
phe-chuan-cong-uoc-lahay-ve-bao-ve-tre-em-va-hop-tac-trong-linh-vuc-nuoi-con-
nuoi-quoc-te-34371.html
11. Danh sách các nước thành viên Công ước La Haye (The Hague Apostille
Convention), https://www.vietnam-legal.com/vi/hop-phap-hoa-lanh-su/danh-sach-
cac-nuoc-thanh-vien-cong-uoc-lahay-hague-apostille-member-countries/
12. Tư pháp quốc tế _ Bình luận về sự tương thích của pháp luật Việt Nam
với Công ước Lahay 1993 về bảo.html

33

You might also like