Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN TRIẾT TỔNG HỢP
TIỂU LUẬN TRIẾT TỔNG HỢP
1) LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Con người là một đề tài được nghiên cứu nhiều trong các ngành khoa học và xã
hội trong đó có triết học .Xã hội ngày càng phát triển con người cũng ngày càng
phát triển việc này đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho xã hội loài người tuy nhiên
bên trong nó tồn tại nhiều bất cập và trong đó có “sự tha hóa con người”. hiện
trạng cho thấy vấn đề “ tha hóa con người” ngày nay vẫn đang diễn ra ngày càng
gay gắt và chưa có xu hướng giảm đi. Với vai trò nhiệm vụ của triết học đó là giải
đáp những vấn đề chung nhất của con người , ý nghĩa cuộc sống của con người , từ
tư duy phản tư duy của con người đối với bản thân mình triết học Mác –Lenin sẽ
chỉ ra bản chất của con người , sự tha hóa của chúng và từ đó dẫn đến sự giải
phóng con người và tiếp đến là giải phóng cả nhân loại.
Nhận thấy đây là một đề tài thực trạng đang diễn ra và nó rất quan trọng đối với sự
phát triển của con người và xã hội loài người, bằng kiến thức triết học của bản thân
đã học được nhóm chúng e chọn đề tài phân tích hiện tượng tha hóa chọn
người và vấn đề giải phóng con người. Liên hệ với thực trạng học sinh , sinh
viên hiện nay và làm rõ hơn về vấn đề này.
Phân tích rõ hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người từ đó
rút ra những liên hệ với thực trạng của học sinh, sinh viên ngày nay và từ đó rút ra bài
học góp phần nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên về sau.
Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người .
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu cũng như đạt được mục tiêu đề tài,
các phép nghiên cứu được sử dụng là:
- Phương pháp hệ thống hóa tài liệu: sử dụng phương pháp này để nghiên cứu cơ
sở lí luận về hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người và
hiện trạng này ở học sinh, sinh viên , đó có thể là hệ thống các văn bản ,về
hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người từ quan điểm của
MÁC-ĂNGGHEN, về hiên trạng này ở tầng lớp học sinh, sinh viên ngày nay.
Phương pháp này giúp làm rõ các khái niệm , cách hiểu , nội dung và thực
trạng của hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người một
cách có hệ thống.
- Phương pháp tổng hợp, xử lí thông tin : sau khi thu thập được cơ sở dữ liệu cần
thiết nhóm đã sử dụng phương pháp này để chắt lọc các thông tin một cách
ngắn gọn , đầy đủ và dễ hiểu nhất . Phương pháp này giúp bài tiểu luận của
nhóm không bị nhàm chán tăng sức thuyết phục hơn cho người đọc.
Trong chương này chúng em trình bày lí do chọn đề tài , mục tiêu nhiệm vụ
nghiên cứu và một số thông tin giới thiệu cho bài tiểu luận.
Chương 2 : cơ sở lí thuyết
Phần này tập trung những nội dung , lí thuyết về đề tài như là khái niệm tha hóa, cơ
sở dẫn đến hiện tượng tha hóa , hậu quả, kết quả của sự tha hóa.
Trên cơ sở phân tích thực trạng của vấn đề tha hóa con người trong đời sống ngày nay
từ đó chúng em đưa đánh giá , bình luận về vấn đề này và nêu vấn đề giải phóng con
người khỏi sự tha hóa này và từ đó liện hệ thực trạng học sinh, sinh viên ngày nay.
Chương 4: Giải pháp, kiến nghị, bài học kinh nghiệm rút ra từ vấn đề
Từ nội dung của các chương trên thống nhất lại và đưa ra những giải pháp, kiến nghị
và bài học rút ra từ vấn đề này.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Nhưng, sau khi nghiên cứu sâu về nhiều khía cạnh, C.Mác đã phát hiện ra, xuất
phát điểm của tha hóa trong quan niệm của Hêghen có cái gì đó không thực sự hợp lý.
Bởi, xuất phát điểm đó được bồi đắp và vận động dựa trên nền tảng ý thức. “Sự tha
hóa của tự ý thức là cái sinh ra tính vật thể…, C.Mác viết,- trong sự tha hóa ấy, tự ý
thức giả định mình là vật thể hoặc giả định vật thể là chính mình. Mặt khác, quá trình
đó đồng thời còn bao gồm một nhân tố khác, tức là tự ý thức đồng thời lại tước bỏ sự
tha hóa và tính vật thể đó của mình và thu hút chúng trở về với bản thân… Đấy là vận
động của ý thức”1 Hêghen cho rằng tha hóa là một thuộc tính phổ biến, một quá trình
phổ biến của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Với các nhà lý luận tôn giáo, tha hóa là
một quan hệ thuần túy mang tính tư tưởng. Ở Pruđông, tha hóa chỉ đơn giản là một
phạm trù thuần túy “kinh tế chính trị”. Ỏ Phoiơbắc, tha hóa chính là quá trình hòa tan
bản chất con người vào bản chất tôn giáo. Còn với C.Mác, tha hóa chỉ là một loại
quan hệ xã hội, tha hóa chỉ tồn tại ở con người và xã hội loài người.
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr214
Khác với các quan điểm trên, C.Mác đã khai thác phạm trù tha hóa dựa trên
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với sản xuất vật chất và
giữa con người với hoạt động kinh tế. Ông cho rằng: tha hóa là một hiện thực có thật,
một hiện trạng thực tế của xã hội và có cơ sở kinh tế của riêng nó. Ông viết: “Chúng
tôi đã xuất phát từ một sự kiện kinh tế - sự tha hóa của công nhân và của sản phẩm của
công nhân. Chúng tôi đã nêu lên khái niệm của cái thực tế này: lao động bị tha hóa.
Chúng tôi đã phân tích khái niệm đó. Như thế là đã phân tích một sự kiện của kinh
tế”2 Ngoài ra, theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, thì hiện tượng tha
hóa của con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân
chia giai cấp. C.Mác lý giải: “Chúng ta đã xét một mặt, xét lao động bị tha hóa trong
quan hệ của nó với bản thân người công dân, nghĩa là quan hệ của lao động bị tha hóa
với bản thân nó. Chúng ta đã tìm thấy quan hệ sở hữu của con người – không- phải-
công- nhân với người công nhân và với lao động với tính cách là sản phẩm hay kết
quả tất nhiên của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tính cách là biểu hiện vật chất khái
quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ của công nhân với lao
động, với sản phẩm lao động của mình và với người - không - phải - công - nhân, và
quan hệ của người - không - phải - công - nhân với người công nhân và với sản phẩm
lao động của người công dân”3
Cách tiếp cận của C.Mác với tha hóa dựa trên nền tảng hiện thực, hay nói một
cách dễ hiểu hơn, quan niệm duy vật lịch sử về tha hóa đa được áp dụng một cách triệt
để. Con người bị tha hóa là con người bị đánh mất hình tượng lao động, tức trong hoạt
động đặc trưng, bản chất của con người. Điển hình như ở lao động, lao động là hoạt
động đặc trưng của con người, cũng là phương diện khiến con người đặc biệt sáng tạo
hơn các loài khác. Thế nhưng khi con người lao động, từ hoạt động con người,, nó lại
biến thành hoạt động của con vật. Thay vì thực hiện những hoạt động sinh hoạt
thường ngày như ăn, ngủ, vận động thể lực,.. những thứ cho họ có cảm giác tự do,
thoải mái và tự sáng tạo, tự ý thay đổi, …minh chứng họ là con người. Tuy nhiên, một
khi họ bắt đầu lao động- với một tư thế bị cưỡng ép bắt buộc, không có sự lựa chọn-
họ sẽ chỉ có thể lao động để bảo đảm và duy trì chất lượng sống của bản thân, chứ
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr139
3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr144
không phải qua đó mà thể hiện phẩm chất của chính mình, tất cả những biểu hiện đó,
khiến cho lao động của con người lại chính là hoạt động của con vật. Bởi họ không
còn được là chính mình nữa Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản
xuất trên chế độ tư hữu sãn xuát, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhát trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa của lao động còn được tạo
nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội: Sự tha hóa của nền
chính trị vì thiểu số ích kỷ, sự tha hóa các tư tưởng của tầng lớp thống trị, sự tha hóa
của các thiết chế xã hội khác.
Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Như đã nói ở phần trước, tha hóa con người được đẩy lên cao nhất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm hữu tư
nhân tư liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản, chỉ có một bộ
phận ít người trở thành tư sản, chiếm hữu gần như toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã
hội. Và cũng chính vì thế, mà những người thuộc tầng lớp vô sản buộc phải làm thuê
dưới trướng các nhà tư sản và để họ bóc lột mình- sự tha hóa bắt đầu từ lúc áy. Thực
chất, lao động bị tha hóa là nội dung chính yếu, là nguyên nhân và cũng là thực chất
của sự tha hóa con người.
Theo quan niệm của C.Mác thì tha hóa là quá trình con người không trở thành
chính mình, tức đánh mất chính bản thân mình. Ông viết: “Việc quan hệ cá nhân
chuyển biến thành mặt đối lập của nó,…, tức là thành quan hệ thuần túy khách thể,
việc cá nhân tự mình phân biệt cá tính và tính ngẫu nhiên, như chúng tôi đã chỉ rõ, là
một quá trình lịch sử và mang những hình thức khác nhau, ngày càng gay gắt và phổ
biến ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Trong thời đại hiện nay, sự thống trị của
những quan hệ khách thể đối với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên đối với cá
tính đã mang một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất, do vậy đã đặt ra trước những
cá nhân đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ ràng. Sự thống trị đó đã đặt ra trước
họ nhiệm vụ sau đây: xác lập sự thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu nhiên và
những quan hệ để thay thế cho sự thống trị của những quan hệ và của tính ngẫu nhiên
đối với cá nhân”4
Tha hóa lao động cũng là một hiện tượng rất quen thuộc, xuất hiện từ rất lâu,
trước khi có chủ nghĩa tư bản. Là hiện tượng đi liền với xã hội nơi con người sản xuất
ra những điều kiện sống chủ yếu cho xã hội, nhưng lại được hưởng quá ít từ những
điều kiện sống do chính mình sản xuất ra đó (như trường hợp tầng lớp tư sản và vô
sản đã đề cập ở trên). Chế độ tư hữu từ vị trí là kết quả của sự tha hóa của lao động,
trở thành nguyên nhân cho sự tồn tại và phát triển của lao động bị tha hóa. Nó chỉ có
thể tồn tại và phát triển trong chế độ sở hữu tư nhân mà chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa lại là hình thức cao nhất.
Cũng có thể nói, tha hóa xuất phát từ chính con người, chính xã hội loài người,
và do nhiều nguyên nhân, đã trở thành cái khác xa lạ, đứng trên cả con người và xã
hội loài người, từ đó, quay trở lại chi phối và nô dịch con người, xã hội loài người.
Cách hiểu về tha hóa của C.Mác khác về chất so với cách hiểu của những nhà lý luận
tôn giáo khác như Phoiơbắc, Pruđông và kể cả Hêghen. Mặc dù trong giai đoạn đầu
của sự nghiệp triết học, C.Mác đã vài lần dùng thuật ngữ mà Hêghen thường hay dùng
để luận giải về sự tha hóa. C.Mác phân tích: “Cho đến nay, chúng ta xét sự tha hóa
của công nhân chỉ về một phương diện, cụ thể là phương diện quan hệ của anh ta với
sản phẩm lao động của anh ta. Nhưng sự tha hóa xuất hiện không chỉ trong kết quả
cuối cùng của sản xuất mà cả trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt
động sản xuất. Người công nhân có thể đứng đối lập với sản phẩm của hoạt động của
anh ta như một cái gì đó xa lạ hay không, nếu trong chính ngay hành vi sản xuất, anh
ta không tha hóa khỏi bản thân anh ta? Trên thực tế, sản phẩm chỉ là kết quả của hoạt
động, của sản xuất. Vậy, nếu sản phẩm của lao động là sự tha hóa thì bản thân sản
xuất phải là sự tha hóa bằng hành động, là sự tha hóa của hoạt động, là hoạt động của
4
C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t.3, tr.643
sự tha hóa. Sự tha hóa của đối tượng lao động chỉ là kết quả tổng kết sự tha hóa trong
hoạt động của bản thân lao động”5
- C.Mác đi đến kết luận rằng, chính vì tha hóa, con người dần mất đi tính loài, ông viết:
“Vậy, sự tha hóa của lao động dẫn tới những kết quả như sau:
+ Bản chất có tính loài của con người, - giới tự nhiên (cơ thể con người) cũng như tài
sản tinh thần có tính loài của con người, - bị biến thành một bản chất xa lạ với con
người, thành phương tiện duy trì sự tồn tại cá nhân của con người. Lao động bị tha
hóa làm cho thân thể của bản thân con người, cũng như giới tự nhiên ở bên ngoài con
người, cũng như bản chất tinh thần của con người, bản chất nhân loại của con người,
trở thành xa lạ với con người.
+ Kết quả trực tiếp của việc con người bị tha hóa với sản phẩm lao động của mình, với
hoạt động sống của mình, với bản chất có tính loài của mình, là sự tha hóa của con
người với con người. Khi con người đối lập với bản thân mình thì con người khác đối
lập với nó...
Nói chung, luận điểm cho rằng bản chất có tính loài của con người bị tha hóa với con
người, có nghĩa là một người này bị tha hóa với người khác và từng người trong số họ
bị tha hóa với bản chất người”6
Trong hoạt động lao động, con người là chủ thể trong quan hệ với tư liệu sản
xuất. Nhưng trong chế độ tư bản chủ nghĩa thì người lao động phải phụ thuộc vào các
tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất lại do con người tạo ra, vậy, con người bị lệ thuộc vào
chính sản phẩm do mình tạo ra. Mặt khác, để có tư liệu sinh hoạt, người lao động buộc
phải lao động cho các chủ tư bản, sản phẩm của họ làm ra cũng trở nên xa lạ với chính
họ và được chủ sở hữu dùng để trói buộc họ, bắt họ lệ thuộc nhiều hơn vào chủ sở hữu
và vào các vật phẩm lao động. Lao động bị tha hóa làm đảo lộn mối quan hệ xã hội của
người lao động. Các đồ vật đã trở thành xa lạ, trở thành công cụ thống trị và trói buộc
con người. Trong khi đúng ra, thì đó phải là mối quan hệ giữa người với người, thì
trong thực tế, nó lại được thực hiện thông qua số vật phẩm do người lao động tạo ra và
5
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.132
6
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.138-139
số tiền công mà họ được trả. Quan hệ giữa người và người cuối cùng bị thay thế bằng
quan hệ giữa người và vật.
Khi lao động bị tha hóa, con người cũng trở nên “què quặt”, phiến diện, khiếm
khuyết đa phương diện. Sự tha hóa như thế, tất yếu không thể đầy đủ và cũng không thể
phát huy được sức mạnh bản chất con người. Người lao động từ đó cũng dần bị bần
cùng hóa, sự phân cực xã hội ngày càng lớn. Sản xuất, công nghiệp, khoa học và công
nghệ ngày càng phát triển, lợi nhuận của các chủ sở hữu tư liệu ngày càng nhiều, người
lao động lại càng bị máy móc thay thế. Ta có thể thấy, quá trình lao động bình thường
của con người dần bị thay thế bằng những thao tác vô cùng đơn giản với máy móc, từ
đó, người lao động bị đẩy ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp. Lao động lại càng bị tha
hóa...Người công nhân trở thành một bộ phận của máy móc và cũng ngày càng phụ
thuộc vào nó, lao động trở nên “dã man”7
1. Tạp chí lý luận chính trị số 2-2018 (Diễn đàn- PGS.TS Ngô Đình Xây
2. Giáo trình Triết học Mác- Lênin (BGD & ĐT, Nxb chính trị quốc gia sự thật)
3. P đã có chú thích footnote tất cả các trích đoạn được trích từ “C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập” (các tập, trang khác nhau, không trùng lặp)
Khác nhau - Khi lao động bị tha - Con người coi trọng - Tha hóa quyền lực
hóa con người trở nên vật chất mà quên những tất yếu dẫn đến sự suy
què quặt, phiến diện, phẩm chất, truyền thoái về tư tưởng
thiếu khuyết trên thống tốt đẹp của dân chính trị, đạo đức, lối
nhiều phương diện tộc. sống của người được
khác nhau. - Tha hóa đạo đức giúp trao quyền và là
- Trong bối cảnh hiện cho con người thích nguyên nhân quan
nay, tha hóa lao động nghi được với nhịp trọng nhất dẫn đến tha
càng phổ biến khiến sống của thời đại hóa đạo đức xã hội.
cho sự phân cực giàu nhưng lại làm con
nghèo trong xã hội người mất đi những giá
ngày càng lớn. trị, bản chất tốt đẹp sẵn
có, đánh mất chính
mình.
Kết luận:
Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ
4.0 đang phát triển nhanh như vũ bão thì bên cạnh những thành tựu mà cuộc cách
mạng này đem lại thì con người đang phải chịu nhiều sự chi phối từ hiện tượng tha
hóa. Hiện tượng tha hóa đem lại nhiều tiêu cực cho các cá nhân nói riêng và toàn thể
xã hội nói chung. Tuy nhiên, do kinh tế thị trường nước ta đang trong thời kì phát
triển, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước chỉ mới ở những chặng đầu tiên, nó
là điều kiện cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan những triết lý sống tiêu cực, trái đạo đức,
thiếu nhân tính xuất hiện và đi vào trong tư tưởng và lối sống của con người, dẫn đến
tình trạng tha hóa về ở họ. Những khía cạnh này của sự tha hóa ngày càng thể hiện tập
trung và rõ nét khiến cho sự phân cực giàu nghèo trong xã hội hiện đại ngày càng dãn
rộng theo chiều tỉ lệ thuận với sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ.
Chính điều này buộc chúng ta phải nhìn nhận một cách đúng đắn quan điểm về sự tha
hóa con người trong triết học Mác – Lênin. Quan điểm này có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển của cá nhân con người nói riêng và xã hội loài người nói chung.
* Nguồn trích dẫn, tham khảo
https://123docz.net/document/4609244-triet-hoc-macle-trong-ven-de-tha-hoa-
con-nguoi.htm
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2530-tu-cach-tiep-can-
cua-cmac-ve-tha-hoa-den-cac-hien-tuong-tha-hoa-o-viet-nam-hien-nay.html
Trên lập trường duy vật triệt để, C.Mác đã cho rằng, không thể thực hiện được một sự
giải phóng thực sự nào khác nếu không thực hiện sự giải phóng ấy trong thế giới hiện
thực, bằng những phương tiện hiện thực. Sự giải phóng là một sự kiện lịch sử chứ
không phải là một sự kiện tư tưởng. Nó nảy sinh từ những sự kiện lịch sử.
Bởi vậy, để giải phóng con người khỏi sự tha hóa, cần phải xóa bỏ trạng thái xã hội
hiện đang tồn tại và thống trị con người. Và đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở
hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để
giải phóng con người về phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu
Muốn đạt được điều đó, chỉ có nhận thức thôi thì chưa đủ, mà cần phải có hành động
cộng sản chủ nghĩa hiện thực – nghĩa là – phải có cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng cộng
sản chân chính. Đây là cuộc cách mạng khác về chất so với các cuộc cách mạng trước
đó, bởi nó đưa đến việc thủ tiêu trước hết chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xóa
bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản, xác lập sự thống trị của giai cấp vô sản.
Quá trình xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là quá trình xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột nói
chung, thiết lập một xã hội công bằng, tốt đẹp và đây là một quá trình lâu dài, phức
tạp. Nó không chỉ cần có sự phát triển cao của lực lượng sản xuất mà còn cần cả sự
trưởng thành của con người. Sau khi xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản
và nhân dân lao động bắt đầu xây dựng một xã hội mới mà ở đó, sự tự do và phát triển
toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự tự do và phát triển toàn diện của mọi
người.
Do đó tiền đề của tư tưởng “ vĩnh viễn giải phóng con người khỏi ách bóc lột, ách áp
bức” chính là sự tự do. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng giải phóng về con người
của chủ nghĩa Mác – Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các
phương diện cụ thể như: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc,
con người nhân loại,…
Trong các tôn giáo cũng có một số quan niệm về giải phóng con người. Đó là sự giải
thoát khỏi cuộc sống tạm bợ, khỏi bể khổ của cuộc đời để lên cõi Niết bàn, lên Thiên
đường ở kiếp sau hay đơn giản là được giải thoát khỏi cuộc sống được coi là ải trần
gian với một số người. Đã có một số nhà triết học duy vật đề xuất tư tưởng giải phóng
con người bằng một vài phương tiện trong đời sống xã hội như: Pháp luật, đạo đức,
chính trị,…Nhưng bởi vì tính chất phiến diện, hạn hẹp, siêu hình trong nhận thức về
con người, về các quan hệ xã hội và do những hạn chế về điều kiện lịch sử đã vô tình
khiến những quan điểm đó sa vào lập trường duy tâm, siêu hình.
Triết học có khẳng định rằng: “ Bất kì sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả
thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người”, hay là
“Giải phóng con người khỏi lao động bị tha hóa” – Vì có thể nói rằng sự tha hóa của
con người được thể hiện rõ nhất ở phương diện lao động ( Nếu lúc trước lao động vì
mục đích để phát triển về sự sáng tạo, nhận thức và các năng lực của bản thân con
người, thì bây giờ con người lại vì lao động mà bị thống trị, lệ thuộc. Sử dụng lao
động để duy trì sự tồn tại cho thể xác chứ không còn như ở mục đích ban đầu)
Do là tiền đề của giải phóng tha hóa nên chúng ta nên hiểu rằng: “Sự phát triển tự do
của mỗi người sẽ là điều kiện cho sự phát triển tự so cho tất cả mọi người”. Sau khi
thực hiện đấu tranh để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị thủ tiêu, lao
động không còn bị tha hóa, con người được giải phóng, khi đó xã hội sẽ bắt đầu có sự
liên hiệp giữa các cá nhân, con người bắt đầu được phát triển một cách tự do nhất.
Như triết học đã viết: Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với
giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
Do vậy, sự phát triển tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện để phát triển sự tự do
của mọi người và đồng thời sự phát triển của xã hội cũng là tiền đề cho sự phát triển
tự do của mỗi cá nhân trong đó.
Kết luận
Nói tóm lại ta chỉ có thể kết luận được con người phát triển tự do khi mà thực sự thoát
khỏi sự tha hóa, thoát khỏi sự nô dịch do chế độ tư hữu. Các tư liệu sản xuất bị thủ
tiêu triệt để và khi sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữ lao động trí óc và lao
động chân tay không còn, khi con người không còn bị trói buộc bởi sự phân công lao
động xã hội.
Nếu chúng ta nhìn vào những gì đã và đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, ta sẽ
thấy hiện tượng tha hóa đạo đức là một hiện tượng tuân theo “quy luật nhân quả”;
những hành vi đáng tiếc đó được “lập trình” từ trước do những ảnh hưởng không
mong muốn của xã hội.
Ngày nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp hiện tượng học sinh quậy phá lôi kéo bè cánh để
đánh nhau (không chỉ ở nam mà còn có cả nữ), thậm chí hành hung cả thầy cô giáo,
rồi con giết cha, anh giết em, do đó trẻ ở lứa tuổi vị thành niên cũng gây ra nhiều vụ
án mạng,…
Theo số liệu mà vụ Công tác học sinh, sinh viên, thực trạng đạo đức lối sống của học
sinh tiểu học là khá nhất (Đây là một thông tin gây nhức nhói), có vẻ càng lên cao thì
lối sống, đạo đức của học sinh, sinh viên càng kém và càng đáng báo động.
Những hành vi tàn bạo được đăng lên trên mặt báo chỉ là một phần nổi của “tảng
băng”. Nếu muốn tìm hiểu nguyên do, ta nên đi sâu vào gia đình. Khái niệm “gia đình
chính là một phần tử của xã hội, gia đình mà tốt đẹp thì xã hội mới tốt đẹp được” đây
chẳng phải là bài học giáo dục công dân của cấp hai hay sao? Thế mà gia đình trong
xã hội ta ngày nay lại có những “lỗ hổng” rất lớn, hầu như người nào sống thì tự biết
người đó: Cha có việc của cha, mẹ có việc của mẹ,, ai cũng phải vật lộn với cuộc sống
vật chất (đây lại là một mặt phản ánh rất rõ của tha hóa lao động). Sau giờ làm, cha lại
tiếp tục bận với việc “tiếp khách” ở quán nhậu, mẹ lại bận việc nhà, thế là cha mẹ lại
vô tình không có được thời gian để dành cho con cái. Bữa cơm gia đình muốn có đầy
đủ các thành viên trong gia đình lại trở thành một điều xa xỉ, chưa kể cha mẹ còn có
những khi cãi vã, xích mích. Do đó sự “quan tâm” của cha mẹ dành cho con cái của
mình giờ chỉ là về mặt tiền bạc cho con đi học: học chính quy, học thêm, học đàn, học
nhạc, học võ,…và những lời khuyên giờ đây chỉ còn là lời quở trách và la mắng. Thời
gian lâu dần con cái trở nên không biết nương tựa vào ai, không biết tâm sự cùng ai.
Thành ra một số sẽ sinh ra cách sống đơn độc, nhút nhát, khó gần, số khác lại tập tụ
với những kẻ “cùng tâm trạng” để quậy phá xưng hùng, xưng bá, sống bất cần đời. Và
để lấy “số má” với bạn bè, chúng sẽ làm bất cứ gì, chơi bất cứ thứ gì chỉ để chứng tỏ
“đẳng cấp”, đây chẳng phải là “thua trời một vạn không bằng kém bạn một li” sao?
Bên cạnh gia đình thì xã hội cũng có ảnh hưởng đáng kể đến sự tha hóa của học sinh,
sinh viên. Xã hội chưa quan tâm đến việc tạo ra nhiều nơi giải trí cho lứa tuổi thanh
thiếu niên (nếu có thì cũng quá đắt đỏ đối với học sinh). Thế là học sinh, sinh viên
không biết giải trí ở đâu sau giờ học, chỉ biết vùi đầu vào các tiệm net với đủ các trò
chơi bạo lực hay thậm trí là những thước phim bệnh hoạn. Nếu giới trẻ không bị tiêm
nhiễm những văn hóa đồi trụy và bạo lực này thì mới là điều lạ chứ giới trẻ bị ảnh
hưởng bởi những thứ rác rưởi trên mạng thì không có gì là bất bình thường. Thế
nhưng các chủ nhân của các trang web này, trò chơi này vẫn hoạt động bình thường,
họ có công ty trụ sở hẳn hoi, có panô quảng cáo vẫn nhan nhản khắp nơi với đủ màu
sắc và hình ảnh bắt mắt. Và những tác hại của các web đó thì xã hội đã rõ nhưng
không hiểu sao chính quyền các cấp chưa có hành động đáng kể nào để ngăn chặn
những hoạt động kinh doanh của những thứ bạo lực, đòi trụy đó.
Đó là những điểm ảnh hưởng của gia đình và xã hội đối với sự tha hóa. Vậy còn giáo
dục ở nhà trường thì sao? Nước ta là nước có truyền thống “Tôn sư trọng đạo, tiên học
lễ hậu học văn” do đó các bậc giáo dục dường như chỉ chú trọng vào việc “dạy chữ”
mà ít quan tâm đến việc “dạy người”. Thậm trí có một số nhà giáo không thể làm
gương cho học sinh, sinh viên của mình noi theo.
Giới trẻ nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng rất dễ bị ảnh hưởng bởi văn hóa xấu,
hay chịu ảnh hưởng từ những thói xấu của người lớn. Nếu người lớn làm những việc
xấu, những việc vi phạm đạo đức thì khó tránh khỏi con em mình học theo. Ở nhà cha
mẹ chửi tục thì làm sao con cái tránh được việc chửi thề. Ra đường thấy xe cộ chạy
lạng lách, đường ai nấy chạy, bất kể đèn đỏ, đèn vàng thì làm sao tránh được việc cấy
vào đầu bọn trẻ những thói xấu, rồi chuyện vứt rác lung tung,…Nếu liệt kê thì có lẽ
khó mà kể hết được.
Chưa kể về tình trạng không trung thực trong thi cử vẫn còn khá nhiều trong các
trường. Có đến 18,59% học sinh, sinh viên được hỏi cho rằng hiện tượng quay cóp khi
làm bài kiểm tra trong lớp còn tương đối nhiều, chỉ có 32,38% là không có.
Câu kết luận về thực trạng này
Nhìn chung sự tha hóa của học sinh, sinh viên hay rộng hơn là giới trẻ đa phần là do
sự ảnh hưởng của yếu tố tác động bên ngoài. Phải chăng xã hội ngày càng phát triển,
cuộc sống ngày càng bận rộn hơn, chật vật hơn, con người lại trở nên tha hóa đến
không ngờ. Cho dù có giải phóng con người thoát khỏi sở hữu tư nhân, khỏi nô dịch
cho giai cấp thống trị thì con người cũng bị lệ thuộc vào những thứ khác hơn như:
thành tích, vật chất, quyền hạn,... Cứ mãi đuổi theo những thứ như thế nên con người
không còn đủ thời giờ để lo cho những người thân yêu của mình, nói đơn giản hơn là
không còn đủ tâm trí, tâm lực. Do đó sự tha hóa của các học sinh, sinh viên đã ngày
càng trở thành hiện trạng nhức nhói đến khó lường trong cuộc sống hiện tại.