You are on page 1of 10

A.

MỞ ĐẦU
I. Mục đích tiểu luận
- Có thể nhận thấy rằng nguồn nhân lực là tài sản quý giá của một quốc gia, đó là
tiền đề, mục tiêu và động lực để phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Điều này
càng trở nên quan trọng hơn khi đánh giá sức mạnh kinh tế của một quốc gia. Vì
vậy, chúng ta cần ưu tiên hàng đầu đến các vấn đề liên quan đến người lao động.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát biểu về vai trò của người lao động trong lực lượng
sản xuất, và điều này cũng có liên quan đến thực tế tại Việt Nam hiện nay. Chúng
ta cần phải liên hệ điều đó tới thực tiễn . Cụ thể nhất đó chính là ngành thiết kế nội
thất mà tôi đang theo học.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Bài luận sẽ tập trung vào phân tích và làm rõ các khái niệm theo chủ nghĩa Mác -
Lê nin, từ đó suy luận về ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lê nin về vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất. Ngoài ra, bài luận
cũng sẽ đánh giá tình hình phát triển nguồn nhân lực trong ngành thiết kế nội thất
ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, sẽ đưa ra nhận định về vai trò của bản thân và của
sinh viên trong việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành này tại đất nước.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu đề bài, tra cứu thông tin qua, tổng hợp, chắt lọc thông tin, tài liệu, từ đó
có những nhận xét khách quan, liên hệ chặt chẽ tới thực tiễn ngành nghề thiết kế
nội thất đang theo học
IV. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Bài tiểu luận được trình bày gồm 5 phần chính :
1. Lý luận của triết học Mác – Lê nin về người lao động và lực lượng sản xuất.
2. Vai trò của người lao động, yêu cầu của xã hội đối với người lao động và một
số tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất.
3. Thực trạng và những nguyên nhân cơ bản trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng lao động. Đề xuất một số giải pháp cải thiện các tình trạng xấu của
nguồn nhân lực chất lượng lao động nói chung và ngành thiết kế nội thất nói
riêng
4. Liên hệ trách nhiệm của bản thân cũng như sinh viên ngành học trong việc phát
triển nguồn nhân lực của ngành.

B. NỘI DUNG
I. Lý luận của triết học Mác – Lê nin về người lao động và lực lượng sản xuất:

a) Khái niệm:
- Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình động chinh phục tự nhiên của
con người. Trong quá trình sản xuất trong đời sống xã hội, con người chinh phục
giới tự nhiên bằng tổng hợp tất cả các sức mạnh hiện thực của mình. Sức mạnh đó
được triết học duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm “lực lượng sản xuất”.
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ
của lực lượng sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong
quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của loài người.
b) Các nhân tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
1. Nhân tố người lao động :
- Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động.
Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và
kỹ năng lao động của mình, cùng với việc sử dụng tư liệu lao động, trước hết là
công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con
người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của lao động ngày càng cao. Với
xu hướng xã hội hiện nay, đội ngũ lao động trí thức, trình độ cao đóng vai trò quan
trọng, là nhân tốt quyết định năng suất, sự phát triển của một đất nước
2. Nhân tố tư liệu sản xuất
- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động và đối tượng lao động.
- Đối tượng lao động
 Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người
dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục
đích sử dụng của con người. Có thể phân loại đối tượng lao động như sau:
Đối tượng lao động là các loại, các phần đã có sẵn ở thế giới tự nhiên (lâm sản,
thủy hải sản, các tài nguyên khoáng sản…) và việc duy nhất con người phái tác
động đó là tách các đối tượng này ra khỏi chủ thế tự nhiên. Nói đến đây, chúng ta
có thể hình dung ra phân loại thứ nhất về đối tượng lao động này thường được sử
dụng ở các ngành công nghiệp là chính, như công nghiệp khai thác khoáng sản,
công nghiệp chế biến hải sản,...
Đối tượng lao động là các loại, các thành phần đã trải qua quá trình tác động của
con người, và chúng lại được sử dụng làm đối tượng lao động một lần nữa. Chẳng
hạn như: gỗ để làm bàn ghế, sắt thép để chế tác máy móc,... hay chúng còn được
gọi là nguyên vật liệu.
Khi nói đến nguyên liệu chính là đối tượng lao động, nó có thể đúng, tuy nhiên
không mang tính tuyệt đối. Bởi vì có thể đối tượng lao động là mọi nguyên liệu,
nhưng chưa chắc mọi nguyên liệu đã là đối tượng lao động. Và đôi khi đối tượng
lao động cũng không hoàn toàn là từ các loại vật phẩm thuộc về thế giới tự nhiên.
Vậy nó được xem là đối tượng lao động khi nào? Đó là khi con người hướng sự
lao động của họ vào nó, tác động và làm thay đổi nó.
- Tư liệu lao động
 Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó
để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản
phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động bao gồm:
Phương tiện lao động là yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất
vật chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật
chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội.
Công cụ lao động là yếu tố vật chất trung gian truyền dẫn giữa người lao động và
đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. đây chính là khí quan của bộ óc, là tri
thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng là
phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết
định đến năng suất lao động. Ngày nay trong điều kiện cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ đang phát triển, công cụ lao động ngày càng được hiện đại hóa.
C.Mác từng khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng khác nhau cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư
liệu lao động nào”
3. Mối quan hệ giữa nhân tố lao động và lực lượng sản xuất
- Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết
định. Bởi vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Tư
liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả
thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao
động. Trong quá trình sản xuất nêu như công cụ sản xuất hao phí và di chuyển vào
giá trị sản phẩm thì người lao động do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình
lao động họ không chỉ tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sự
sáng tạo ra vật chất, nguồn gốc của sự sáng tạo ra vật chất.

Đây là phần chính của một tiểu luận được chia thành nhiều phần nhỏ, mục nhỏ thể hiện
quá trình từng bước giải quyết vấn đề nêu trong đề tài. Là phần thể hiện công sức và trình
độ nghiên cứu của người thực hiện.
II. Vai trò của người lao động, yêu cầu của xã hội đối với người lao động và một số
tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất.
a) Vai trò của người lao động
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, người lao động là yếu tố quan trọng
nhất, có ý nghĩa quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất bởi vì:
1. Người lao động là một loại động vật biết chế tạo công cụ
- Người lao động là một “động vật biết chế tạo công cụ” vì ngoài việc sử dụng
những công cụ lao động có sẵn, người lao động đã làm cho mọi vật “do tự nhiên
cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, người lao
động đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội.
2. Người lao động biết kết hợp với phương tiện lao động để đạt mục đích
- Người lao động với tri thức và ý chí của mình biết sử dụng và kết hợp các yếu tố
cấu thành của tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động, phương
tiện lao động; hiện thực hóa vai trò và tác động của những yếu tố đó để tạo nên
sức mạnh tổng hợp nhằm cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. C.Mác
viết: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng
muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và
một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những
tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” (C.
Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr.
40)
3. Người lao động tự xây dựng được đời sống xã hội
- Tiền đề đầu tiên cho sự tồn tại của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu. Đó là việc sản xuất ra chính đời sống vật chất
của con người. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng sáng tạo ra các mặt của
đời sống xã hội.
- C. Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính
mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại
tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm
pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người
ta” ( C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 19, tr. 500 )
4. Người lao động tự tạo nên lịch sử
- Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác
khẳng định: “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ trong
đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản
xuất do tất cả những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái
hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt
khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”.
( C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 65 )
5. Người lao động nâng cao kỹ năng nghề nghiệp
- Trong khi các yếu tố của tư liệu sản xuất đều hữu hạn và thường bị hao mòn nhanh
theo thời gian thì người lao động, ngoài yếu tố thể lực bị hao mòn chậm thì các kỹ
năng lao động, trình độ tay nghề... luôn có khả năng tự đổi mới, tự nâng cao thông
qua quá trình tự học hỏi, bồi dưỡng, trau dồi tri thức không ngừng để có thể đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất.
- Bằng những nghiên cứu khoa học, ông đã đưa ra một phán đoán: “Sự phát triển
của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge)
đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng
là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục
tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến
mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã
được tạo ra đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản
xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức,
mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp
của quá trình sống hiện thực”. (C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 46,
phần II, tr. 372)
6. Người lao động áp dụng khoa học công nghệ thành một lực lượng sản xuất trực
tiếp
- Theo luận điểm nói trên của C. Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định
như nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ
nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói cách khác, tri thức
khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất và
được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp đã được C. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ thống
máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một
trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản,
còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy,
phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa
học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích”. (C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 46, phần II,
tr. 367)
b) Yêu cầu của xã hội đối vời người lao động
7. Yêu cầu của xã hội đối với người lao động bao gồm:
1. Tích cực tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Người lao động cần tích cực tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
để đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Việc làm này không chỉ tạo ra giá trị kinh tế
mà còn góp phần vào sự phát triển xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
2. Có trách nhiệm và năng lực hoàn thành công việc được giao:
- Người lao động cần có trách nhiệm và năng lực để hoàn thành công việc một cách chính
xác, hiệu quả. Điều này đảm bảo sự tin cậy từ phía nhà tuyển dụng và duy trì môi trường
làm việc tích cực.
3. Tuân thủ các quy định, chính sách của nhà nước và đảm bảo an toàn lao động.
- Người lao động cần tuân thủ các quy định, chính sách của nhà nước và đảm bảo an toàn
lao động để bảo vệ bản thân và đồng nghiệp khỏi nguy cơ tai nạn lao động.
4. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, năng lực để đáp ứng yêu cầu của công
việc và thị trường lao động.
- Việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, năng lực giúp người lao động cải thiện
khả năng làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và sự nghiệp.
5. Đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện và hỗ trợ cộng đồng.
- Người lao động cần tham gia vào các hoạt động từ thiện, hỗ trợ cộng đồng để xây dựng
một xã hội văn minh, hòa bình và phát triển.
6. Tôn trọng đồng nghiệp, giữ gìn văn hóa doanh nghiệp và tạo mối quan hệ hài
hòa với mọi người trong xã hội.
- Việc tôn trọng đồng nghiệp, giữ gìn văn hóa doanh nghiệp và tạo mối quan hệ tốt với
mọi người trong xã hội giúp xây dựng một môi trường làm việc tích cực và góp phần vào
sự hài hòa xã hội.
c) Một số tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất
1. Tác động của công nghệ: Sự phát triển công nghệ có thể tạo ra cơ hội mới cho
người lao động, nhưng đồng thời cũng có thể làm thay đổi yêu cầu về kỹ năng và
trình độ lao động. Công nghệ có thể làm thay đổi cách thức làm việc, tạo ra sự
cạnh tranh mới và yêu cầu người lao động phải nâng cao trình độ chuyên môn và
kỹ năng để đáp ứng yêu cầu mới.
2. Tác động của thị trường lao động: Sự biến đổi trong thị trường lao động, bao gồm
cả sự gia tăng hoặc giảm sút về cơ hội việc làm, cũng có thể ảnh hưởng đến người
lao động. Điều này có thể tạo ra áp lực tăng cường năng lực cạnh tranh, hoặc có
thể tạo ra tình trạng thất nghiệp và không chắc chắn về tương lai nghề nghiệp.
3. Tác động của chính sách và quy định: Các chính sách và quy định của nhà nước
cũng có thể ảnh hưởng đến người lao động, bao gồm các quy định về lao động, an
toàn lao động, bảo hiểm xã hội, và các chính sách hỗ trợ người lao động trong quá
trình làm việc và nghỉ hưu.
4. Tác động của môi trường làm việc: Môi trường làm việc, bao gồm cả văn hóa
doanh nghiệp, mức độ cạnh tranh, cơ hội thăng tiến, và các yếu tố tâm lý xã hội,
cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và tinh thần làm việc của người lao
động.
5. Tác động của biến đổi xã hội: Các biến đổi trong xã hội, bao gồm cả sự thay đổi
về giá trị, lối sống, và yêu cầu về công bằng xã hội, cũng có thể ảnh hưởng đến
người lao động và tạo ra những yêu cầu mới về vai trò và trách nhiệm của họ trong
lực lượng sản xuất.
III. Thực trạng và những nguyên nhân cơ bản trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng lao động. Đề xuất một số giải pháp cải thiện các tình trạng xấu của nguồn
nhân lực chất lượng lao động nói chung và ngành thiết kế nội thất nói riêng

1. Thực trạng:

a) Thực trạng nói chung

- Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý II năm 2019, dân số nước ta đạt 96,2
triệu người. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính 55,46 triệu người,
chiếm hơn một nửa dân số. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 76,21%.Các chuyên gia
kinh tế nhận định, nền Kinh tế số đòi hỏi có một lực lượng sản xuất tương ứng về trình
độ, nhất là Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực trong giai đoạn chuyển đổi số phải được thể
hiện trên các phương diện: Có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình
tương tác của các hoạt động kinh tế; có khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với
môi trường lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ mới; có tác phong kỷ luật và đạo đức
trong công việc; có khả năng tư duy đột phá sáng tạo trong công việc. (“Theo báo Nhân
dân - Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”)
- Có thể thấy trong lĩnh vực nguồn nhân lực nói chung, chúng ta thiếu hụt số lượng lớn
lao động có trình độ, tay nghề cao đây là một khó khăn lớn trong việc phát triển trong
thời đại công nghệ mới

b) Thực trạng ngành thiết kế nội thất

- Trong ngành thiết kế nội thất, sự cạnh tranh gay gắt và sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ và xu hướng thiết kế có thể tạo ra áp lực lớn đối với nguồn nhân lực, đặc biệt
là trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường.

- Nhiều chuyên gia ngành xây dựng nhận định, tuy tình hình xây dựng đang chậm lại
nhưng nhu cầu cho nghề thiết kế nội thất vẫn khá cao. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là
nhân lực ngành thiết kế nội thất thừa nhân lực chất lượng thấp – trung bình nhưng lại
thiếu nhân lực chất lượng cao. Đội ngũ nhân lực làm thiết kế nội thất được đào tạo chưa
đáp ứng đúng nhu cầu thực tế của xã hội. Các kiến trúc sư và họa sĩ nội thất sau khi tốt
nghiệp gần như phải học lại từ đầu và tự học thiết kế thông qua công việc. Điều này dẫn
đến hiện trạng là nguồn nhân lực có kinh nghiệm và tâm huyết dần mai một”. Nhu cầu thị
trường thiết kế nội thất đang tăng lên nhanh chóng. Việt Nam là thị trường rất lớn và là
quốc gia đang phát triển cộng thêm xu hướng tiêu dùng của người Việt hiện nay không
nghĩ tới giá rẻ mà họ yêu cầu sản phẩm phải phù hợp với phong cách, kiến trúc của ngôi
nhà. Đây cũng là điều dễ hiểu khi những đơn vị thiết kế nội thất có các mẫu sản phẩm
độc đáo, cao cấp ăn khách. *

Trích từ: https://noithat3p.vn/tinh-hinh-nganh-noi-that-va-thiet-ke-noi-that/

2. Nguyên nhân cơ bản:

- Sự thiếu hụt giáo dục và đào tạo: Trong nhiều trường hợp, các chương trình đào tạo
không đáp ứng được nhu cầu thực tế của thị trường lao động, dẫn đến sự thiếu hụt nguồn
nhân lực có kỹ năng và kiến thức chuyên môn.

- Sự không phù hợp giữa nhu cầu thị trường và chương trình đào tạo: Khi chương trình
đào tạo không cập nhật và không phản ánh đúng nhu cầu thực tế của thị trường lao động,
người học sẽ không có đủ kỹ năng và kiến thức để làm việc hiệu quả trong các ngành cần
chất xám cao.

- Thiếu hụt cơ hội phát triển nghề nghiệp: Người lao động có thể gặp khó khăn trong việc
tiếp cận cơ hội phát triển nghề nghiệp và sự nâng cao kỹ năng do thiếu hụt các chương
trình đào tạo và phát triển nghề nghiệp.

- Liên hệ với ngàng thiết kế nội thất hiện nay:


Tình hình đào tạo ngành thiết kế nội thất tại Việt Nam đang gặp phải một số thách thức.
Một số vấn đề cụ thể bao gồm:

+ Chương trình đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế: Có thể thấy rằng chương
trình đào tạo ngành thiết kế nội thất tại Việt Nam chưa thực sự linh hoạt và thích nghi với
nhu cầu thực tế của thị trường. Sinh viên sau khi tốt nghiệp thường cần phải học thêm và
tự rèn luyện kỹ năng thiết kế thông qua công việc.

+ Thiếu sự kết nối với doanh nghiệp: Chương trình đào tạo hiện tại chưa tạo ra sự kết nối
chặt chẽ với doanh nghiệp trong ngành, dẫn đến việc sinh viên thiếu cơ hội thực tập và
học hỏi từ các chuyên gia có kinh nghiệm.

+ Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao: Ngành thiết kế nội thất đang đối diện với tình
trạng nguồn nhân lực chất lượng thấp - trung bình, trong khi nhu cầu thị trường đang tăng
lên nhanh chóng.

- Những nguyên nhân này cùng nhau tạo ra sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng và
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, cả ở mức độ chung và trong ngành
thiết kế nội thất cụ thể. Để giải quyết vấn đề này, cần có sự đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục
và đào tạo, cũng như việc tạo ra cơ hội phát triển nghề nghiệp và thúc đẩy sự phù hợp
giữa nguồn cung và nguồn cầu lao động.

3. Đề xuất phương hướng giải quyết:

- Đối với toàn thể các ngành lao động:

+ Đầu tư vào đào tạo và phát triển: Doanh nghiệp cần đầu tư vào các chương trình đào
tạo chuyên sâu để nâng cao kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm cho nhân viên. Điều
này có thể bao gồm việc tổ chức các khóa học, hội thảo, và các chương trình đào tạo nội
bộ để giúp nhân viên cập nhật và nâng cao kiến thức và kỹ năng của họ.

+ Xây dựng môi trường làm việc tích cực: Tạo ra môi trường làm việc khuyến khích sáng
tạo, động lực và phát triển cá nhân. Điều này có thể bao gồm việc tạo ra cơ hội cho nhân
viên thể hiện ý kiến, đề xuất ý tưởng, và tham gia vào quá trình ra quyết định trong công
việc hàng ngày.

+ Tuyển dụng và giữ chân nhân tài: Doanh nghiệp cần tìm kiếm và giữ chân nhân tài có
kỹ năng và kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi quá trình tuyển dụng chặt chẽ và công bằng,
cũng như việc xây dựng chính sách phúc lợi và cơ hội phát triển để giữ chân nhân viên.

- Đối với ngành thiết kế nội thất, để cải thiện tình hình, cần có sự đầu tư mạnh mẽ từ các
trường đại học và cơ sở đào tạo, cùng với sự hỗ trợ từ doanh nghiệp và người điều hành
ngành nghề. Chương trình đào tạo cần được cải thiện để đáp ứng đúng nhu cầu thực tế,
kết nối chặt chẽ với doanh nghiệp và tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội tiếp xúc với
thực tế ngành nghề.

IV. Liên hệ trách nhiệm của bản thân cũng như sinh viên ngành học trong việc phát
triển nguồn nhân lực của ngành.
- Trách nhiệm của sinh viên ngành học thiết kế nội thất trong việc phát triển nguồn
nhân lực của ngành này rất quan trọng. Đầu tiên, sinh viên cần nắm vững kiến
thức chuyên ngành và cập nhật các xu hướng mới trong lĩnh vực thiết kế nội thất.
Họ cần phát triển kỹ năng sáng tạo và tư duy logic để tạo ra các sản phẩm thiết kế
độc đáo và hiệu quả.
- Ngoài ra, sinh viên cũng có trách nhiệm tìm kiếm cơ hội thực tập và làm việc tại
các doanh nghiệp hoặc công ty thiết kế nội thất để tích luỹ kinh nghiệm thực tế và
rèn luyện kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm và quản lý dự án.
- Bản thân sinh viên cần không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn và
kiến thức về công nghệ và vật liệu mới trong lĩnh vực thiết kế nội thất. Họ cũng
cần tham gia các hoạt động ngoại khóa, sự kiện chuyên ngành và các khóa học bổ
sung để mở rộng tầm nhìn và nâng cao kỹ năng.
- Cuối cùng, sinh viên cần xây dựng mối quan hệ và kết nối với cộng đồng ngành
nghề, các doanh nghiệp và các chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế nội thất để có cơ
hội học hỏi và phát triển bản thân. Đồng thời, họ cũng cần tham gia hoạt động xã
hội và từ thiện để xây dựng hình ảnh tích cực của ngành nghề và đóng góp vào sự
phát triển của nguồn nhân lực trong lĩnh vực thiết kế nội thất.
C. KẾT LUẬN
- Trải qua 30 năm đổi mới và phát triển, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở
Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể so với trước kia chẳng hạn như
công cụ lao động và đối tượng lao động ngày càng được cải tiến, khoa học - công
nghệ được ứng dụng ngày càng nhiều vào quá trình sản xuất, góp phần đáng kể
trong việc giải phóng sức lao động, tăng năng suất lao động và hiện đại hóa nền
sản xuất. Công nghệ tự động hóa ngày càng rộng rãi. Đặc biệt, với quan điểm: Coi
con người là trung tâm của mọi sự phát triển, Đảng ta đã rất chú trọng đến việc
phát triển nhân tố con người, coi việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược quan trọng. Do
đó, người lao động Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể về trình độ, tay
nghề, khả năng thích nghi, tính sáng tạo hơn thế nữa là những ứng dụng công nghệ
vào lao động cực kỳ thành công và được cả thế giới công nhận.
- Tuy nhiên, nhìn chung, con người Việt Nam nói chung và người lao động nước ta
vẫn còn còn nhiều hạn chế cả về trình độ tay nghề, ý thức đạo đức nghề nghiệp,
khả năng quản lí thời gian, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái chưa cao. Điều đó
ảnh hưởng đáng kể đến tính chuyên nghiệp, năng suất cũng như khả năng đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại ở người lao động nước ta. Việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ rất cấp thiết và quan trọng. Đặc biệt là
ngành thiết kế nội thất, một trong những ngành “nóng” ngày nay. Ngành này đòi
hỏi lao động có trình độ cao, có nhiều kĩ năng để có thể hoàn thành công việc.
- Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi người thực hiện phải hiểu biết thấu đáo về đặc
điểm dân cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu
điểm và nhược điểm của lực lượng lao động,... để từ đó có thể đề ra những chính
sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả tốt nhất. Riêng
với ngành thiết kế nội thất, người lao động cần phải thông thạo các kĩ năng liên
quan đến máy tính, công nghệ, có thái độ tích cực, đề cao tính chuyên nghiệp, ham
học hỏi và cập nhật các công nghệ, tri thức mới liên tục.
- Như vậy, phát triển nhân tố người lao động chính là cách thức quan trọng, đóng
vai trò quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay,
góp phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế tri thức và tăng cường
hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng vào chất lượng lao động ngành
thiết kế nội thất, nâng cao trình độ, thái độ kĩ năng để có thể giảm thiểu các tình
trạng tiêu cực trong ngành.

You might also like