1. Tác giả - Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút tiên phong của văn học thời kì đổi mới. - Từ 1980, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh, thể hiện tư duy nghệ thuật mới mẻ, sâu sắc: khám phá, phát hiện mối quan hệ nhiều chiều của con người và đời sống. - Một số tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Bến quê (1985), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Chiếc thuyền ngoài xa (1987 ... 2. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”: - Xuất xứ, nhan đề Xuất xứ: Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn minh Châu. Năm 2001, truyện ngắn này được in trong Nguyễn Minh Châu toàn tập. Nhan đề: - Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc. - Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống. - Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống. - Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật ! -Nội dung: + Chuyến đi đến vùng biễn, cuộc gặp gỡ của Phùng với vẻ đẹp trời cho và cảnh người đàn ông đánh người đàn bà một cách dã man. - Câu chuyện cảm động, chân thực, đầy nghịch lí về cuộc đời của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện. + Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Con người, nhất là nghệ sĩ không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống. Nghệ thuật cần luôn nỗ lực để tiếp cận và phản ánh chân thực nhất đời sống hàng ngày đang diễn ra. - Nghệ thuật: + Xây dựng cốt truyện độc đáo: tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. + Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo. + Ngôn ngữ kể chuyện (tác giả hoá thân vào nhân vật Phùng) điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể chuyện khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục. + Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. II. Luyện tập. Dạng đề cơ bản Đề bài 1: “ ... Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình: - Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối… - Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề. - Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. - Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi. - Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! - Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi. - Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh… - Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên. - Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông… - Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo? - Phải- Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp: - Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười- vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. - Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi. - Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…” (Trích Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12,Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.75-76) Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Hướng dẫn làm bài: 1.1. Phân tích đề - Xác định vấn đề cần nghị luận: nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, từ đó thấy được cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. - Thao tác lập luận: phân tích, bình luận - Dẫn chứng: hình ảnh người đàn bà hàng chài trong đoạn trích là chủ yếu, có thể lấy thêm các chi tiết trong toàn bộ tác phẩm để làm rõ đối tượng phân tích 1.2. Lập dàn ý MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật người đàn bà hàng chài. TB: - Khái quát chung: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức ảnh “trời cho”, đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng chài sống trên chiếc thuyền ấy : người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn với thái độ cam chịu . Được toà án mời đến giải quyết chuyện gia đình, người đàn bà van xin đừng bắt mình phải bỏ chồng. Trước sự ngạc nhiên của chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng, người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình. - Cảm nhận về người đàn bà hàng chài trong đoạn trích. + Cuộc đời, số phận (nghèo khổ, bất hạnh); + Tính cách, phẩm chất (cam chịu, giàu đức hi sinh, thấu hiểu lẽ đời, sống nhân hậu, vị tha…); - Bình luận về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu: + Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều (cuộc sống của người dân chài còn nhiều nghịch lí, nhân vật người đàn bà vừa nhẫn nhục đến mức phi lí vừa có những phẩm chất đẹp đẽ…) + Qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài tác giả Nguyễn Minh Châu thể hiện cái nhìn cảm thông trước số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài, từ đó thấu hiểu: mỗi người trong cõi đời nhất là người nghệ sĩ không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống của con người. + Gióng lên hồi chuông cảnh báo về nạn bạo hành gia đình là hậu quả do cái đói. - Đánh giá: + Đặt nhân vật vào một tình huống bi đát để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn +Nhân vật người đàn bà trong đoạn trích thể hiện cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn trong tác phẩm. KB: Khái quát lại vấn đề nghị luận Đề 2 Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, khi miêu tả gia đình thuyền chài, Nguyễn Minh Châu viết: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Ở đoạn khác, ông lại viết: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. (Nguyễn Minh Châu – Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, trang) Từ việc cảm nhận hai đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. 1.1. Phân tích đề - Xác định vấn đề cần nghị luận: cảm nhận hai đoạn văn trên, từ đó làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. - Thao tác lập luận: phân tích, bình luận - Dẫn chứng: 2 đoạn văn bản đề bài cho 1.2. Lập dàn ý MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, 2 đoạn trích, quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. TB: - Khái quát chung: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ Phùng tại vùng biển để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức ảnh “trời cho”, đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng chài sống trên chiếc thuyền . Những phát hiện ấy đã giúp Phùng hiểu hơn về nghệ thuật và cuộc đời - Cảm nhận 2 đoạn trích, là 2 phát hiện của Phùng. * Phân tích: - Phát hiện thứ 1: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ”. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. + Đây là cảnh một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương mà Phùng đã chớp được: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ” . Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. + Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hạnh phúc tột cùng. => Chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong sương sớm chính là cái đẹp của nghệ thuật được con người chiêm ngưỡng ở tầm xa. - Phát hiện thứ 2: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. + Cảnh tượng nghiệt ngã kinh hoàng: Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ. + Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được. => Phát hiện nghịch lí cuộc sống ngay sau bức tranh thiên nhiên đẹp. * Bình luận, đánh giá ý kiến: - Hai phát hiện của Phùng cho thấy: Đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Từ đó tác giả làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: + Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. + Cuộc đời chính là nơi sản sinh ra cái đẹp nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật. + Người nghệ sĩ trước khi sáng tạo cái đẹp cần phải biết rung động trước những buồn, vui, đau khổ của cuộc con người. + Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng để thưởng thức nghệ thuật thì cần phải có khoảng cách. * Đánh giá: -Tạo tình huống hấp dẫn -Cách kể chuyện tự nhiên - Xây dựng nhân vật gần gũi với đời thường Đề 3 Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu (SGK Ngữ văn 12, tập Hai) để thấy được những khám phá của nhà văn về đời sống. 1.1. Phân tích đề - Xác định vấn đề cần nghị luận: cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài, qua đó để thấy được những khám phá của nhà văn về đời sống. - Thao tác lập luận: phân tích, bình luận - Dẫn chứng: văn bản truyện ngắn CTNX 1.2. Lập dàn ý MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận: nhân vật người đàn bà hàng chài, qua đó để thấy được những khám phá của nhà văn về đời sống. TB: - Giới thiệu khái quát tác phẩm và nhân vật (chú trọng hoàn cảnh và bi kịch) - Nhân vật người đàn bà hàng chài với cách hành xử đầy mâu thuẫn: Những hành xử trong cuộc sống của chị đã khiến cho Phùng đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khi chứng kiến và tìm hiểu: Bất ngờ thứ nhất: chị đồng ý thỏa thuận với chồng về việc hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng; khi đánh thì lên bờ để đánh, không đánh trước mặt các con. Đặc biệt sự cam chịu đến nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài trong cơn cuồng nộ của người chồng vũ phu. Bất ngờ thứ hai: tại tòa án huyện, mặc những lời khuyên can, sự can thiệp của pháp luật, người đàn bà chấp nhận bị bỏ tù không chấp nhận bỏ người chồng vũ phu tàn bạo. Lập luận tưởng như phi logic lại hàm chứa một lý lẽ sắc sảo, đời thường khiến nghệ sĩ Phùng và Chánh án Đẩu – người đại diện cho lẽ phải và công lý phải tâm phục khẩu phục, và tự thêm cho mình một bài học về lẽ sống về cách nhìn nhận con người sự việc. - Đằng sau những mâu thuẫn đó là những khám phá bất ngờ về con người và về cuộc sống: + Ẩn bên trong hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là một trái tim vĩ đại với những phẩm chất cao đẹp. ++ Sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh: Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển, hiểu những tháng ngày sóng gió và phải chấp nhận vì đó là cuộc sống của chị. ++ Tình thương con vô hạn: Với chị các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng. Lí do chị đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Chị muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. ++ Tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng: Thấu hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. + Đằng sau hình ảnh thô kệch, xấu xí và cuộc đời của người đàn bà là sự khẳng định giá trị và vẻ đẹp cuộc đời. Vẻ đẹp của đời sống thô mộc và bình dị nhưng đó là những giá trị vĩnh hằng, giàu tính nhân văn để nâng đỡ con người và làm cuộc sống ý nghĩa hơn. *Đánh giá, khái quát lại: - Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. - Người đàn bà đó hiểu được giá trị đích thực của cuộc sống:Trong khổ đau triền miên, chị vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay. - Trong ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Đó là cái bản chất tốt đẹp được phủ bằng một bề ngoài thô kệch, dốt nát Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”… Đề 4 Nhận xét về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: Vẻ đẹp sâu xa trong tâm hồn của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người. Quan điểm của anh/chị về nhân vật này? 1.1. Phân tích đề - Xác định vấn đề cần nghị luận: cảm nhận về nhân vật Phùng qua 1 ý kiến bàn luận - Thao tác lập luận: phân tích, bình luận - Dẫn chứng: văn bản truyện ngắn CTNX 1.2. Lập dàn ý MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến về nhân vật TB: * Bày tỏ quan điểm về nhân vật: - Khái quát: Trong tập tiểu luận Trang giấy trước đèn, Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ quan điểm: Tôi không tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong lòng mình tình yêu thương cuộc sống và nhất là yêu thương con người. Tình yêu này của một người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê, vừa là nỗi đau đớn khắc khoải một nỗi quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh. Nhà văn đã gửi gắm quan điểm ấy qua nhân vật nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa. Đối với Nguyễn Minh Châu, ngoài thiên chức của một nghệ sĩ là phải biết cảm thụ cái đẹp và sáng tạo cái đẹp thì cái căn cốt đòi hỏinghệ sĩ trước hết phải là người có tâm, cụ thể hơn tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Bởi xét cho cùng, mối quan tâm lớn nhất của người cầm bút là con người, nhất là những cảnh đời khổ đau, bất hạnh. - Phân tích, chứng minh: + Là người nghệ sĩ giàu tâm huyết, Phùng luôn khát khao tìm kiếm cái đẹp, yêu cái đẹp và rung động tinh tế trước mọi vẻ đẹp của cuộc sống và con người. Khát khao tìm kiếm và khám phá đã khiến anh không ngại vượt đường xa để đến với vùng biển miền Trung. Niềm đam mê nghệ thuật khiến anh kiên trì, công phu phục kích hàng tuần liền trên bờ biển và thu được những tấm ảnh tuyệt đẹp về cảnh chiếc thuyền thu lưới trong sương sớm tại một vùng bờ phá (...). + Nhưng không phải chỉ có vậy, Phùng còn là người nghệ sĩ với tấm lòng đầy băn khoăn, trăn trở hướng về cuộc đời. Ngỡ như anh đã phát hiện ra một nghệ thuật tuyệt đỉnh, đắt giá, trời cho trong cả cuộc đời bấm máy của mình; nhưng chiều sâu đích thực của cuộc sống chỉ thực sự xuất hiện khi anh khám phá ra bình diện thứ hai về con thuyền lưới vó đẹp như mơ ấy đó là cảnh bạo hành gia đình đặc biệt nỗi thống khổ của một người phụ nữ hàng chài trạc ngoài 40 tuổi (...); ++Ngay sau khoảnh khắc tuyệt vời của sự khám phá cái đẹp, chiếc thuyền mộng từ ngoài xa kia đâm thẳng vào chỗ Phùng đứng. Bất ngờ anh chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình hàng chài bước ra từ đây. Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên: Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. ++Thái độ của Phùng: anh thấy kinh ngạc và bức xúc, vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới nhưng không kịp. Lần thứ hai, sau ba ngày, vẫn trong làn sương sớm ấy anh lại chứng kiến cảnh bạo hành của người đàn ông hàng chài đối với vợ con, Phùng không thể nén chịu được hơn nữa, anh xông ra buộc gã đàn ông phải chấm dứt hành động tàn độc. Lão đàn ông đánh trả khiến Phùng bị thương. Phùng xót xa cay đắng nhận ra cái xấu, cái ác, cái bi kịch trong gia đình hàng chài kia giống như câu chuyện cổ đầy quái đản và chiếc thuyền vó thơ mộng kia phút chốc cũng biến mất. ++Khi ở tòa án huyện, anh được chứng kiến câu chuyện của người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu kia ở tòa án huyện. Anh được hiểu sâu hơn sự thật về một cuộc đời, một thân phận, những nghĩ suy và những cam chịu của người đàn bà hàng chài. Anh lắng nghe, day dứt, thế ra đằng sau cái vẻ xấu xí, thô kệch, khổ ải của người đàn bà hàng chài lam lũ kia lại là một người phụ nữ cao thượng am hiểu lẽ đời. Cái thiên chức của người phụ nữ là sinh con và sống cho con nên chị hi sinh bản thân mình. Đúng là hạt ngọc lấp lánh giấu trong lớp quặng thô, chị là một người phụ nữ nhân hậu đáng thương, đáng trọng. ++ Trong lòng Phùng nặng trĩu nỗi đau về thân phận con người, nhất là những người làm nghề cá trên biển. Họ luôn phải đối mặt với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, đời sống nghèo đói, bấp bênh. Anh ngồi bên ông lão ngoài sáu mươi mà vẫn phải đeo đuổi nghề cá, mắt vẫn không rời khỏi những chiếc thuyền đang chống chọi với sống gió giữa phá. ++Bộ lịch năm ấy và mãi mãi về sau vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những gia đình sành chơi nghệ thuật. Nhưng lạ thay, mỗi lần Phùng ngắm kĩ, nhìn lâu tấm ảnh thuyền và biển, hình ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ lại hiện ra, vừa xót xa thương cảm, vừa nhắc nhở Phùng về nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật phục vụ con người, vì con người. Trước khi biết rung động trước cái đẹp nghệ thuật, người nghệ sĩ phải biết rung động trước mọi lẽ đời. * Bình luận: - Ý kiến đề cập đến vẻ đẹp trong phẩm chất của nghệ sĩ chân chính là tấm lòng trăn trở, lo âu về số phận con người. Qua phát hiện của Phùng về sự thật cay đắng, đầy bi kịch của những con người lao động nghèo khổ, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người; bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. - Nguyễn Minh Châu coi văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người, còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương đối với con người nên có thể thấy được tài năng cũng như tấm lòng của ông trong việc thể hiện hình tượng nhân vật, đồng thời khẳng định gái trị và sức hấp dẫn trường tồn của tác phẩm. Đề 5 Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu hai lần miêu tả hành động van xin của người đàn bà hàng chài. Tại bờ biển, khi bị chồng đánh và chứng kiến cảnh đứa con trai - thằng Phác - đánh lại bố: “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. - Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.” Và tại tòa án huyện, khi chánh án tòa án huyện - Đẩu – yêu cầu bỏ chồng: “Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa: - Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Hãy phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài trong hai lần miêu tả trên, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật này. 1.1. Phân tích đề - Xác định vấn đề cần nghị luận: cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài qua 2 lần miêu tả, qua đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật này - Thao tác lập luận: phân tích, bình luận - Dẫn chứng: văn bản truyện ngắn CTNX 1.2. Lập dàn ý MB: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận: nhân vật người đàn bà hàng chài qua 2 lần miêu tả, qua đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật này TB: * Giới thiệu khái quát về người đàn bà hàng chài - Không tên tuổi, vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác - Ngoại hình xấu xí, thô kệch - Số phận đau khổ, bất hạnh: + Nghèo khổ, lam lũ, vất vả + Nạn nhân của nạn bạo hành gia đình: thường xuyên bị chồng đánh đập *Phân tích chi tiết hành động vái lạy đứa con trai - Nguyên cớ của hành động: + Người đàn bà, sau một đêm thức trắng kéo lưới, theo người đàn ông lên bờ, chờ chồng đánh. Bị chồng đánh dã man, tàn bạo, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, không hề kêu, không chống trả, không chạy trốn. + Thằng Phác lao tới, giằng chiếc thắt lưng, quật vào lão đàn ông. Gã đàn ông tát thằng bé hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát…. - Ý nghĩa của hành động: + Cầu xin thằng bé tha thứ, mụ day dứt, mặc cảm vì chưa trọn phận làm mẹ. Mụ đã không thể che chở cho tâm hồn ngây thơ non nớt ấy tránh được vết thương tâm hồn. + Van nài thằng bé giữ trọn đạo hiếu của kẻ làm con. => Đó là nghịch lí của cuộc đời và cũng là hành động của người mẹ rất mực thương con, xót đau khi phải chứng kiến đứa con vì thương mẹ mà lỗi đạo với cha nó. * Phân tích chi tiết hành động vái lạy quý tòa - Nguyên cớ của hành động: Chứng kiến cảnh ngộ của người đàn bà “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, với tư cách là người bảo vệ công lí cho nhân dân, chánh án Đẩu đã mời người đàn bà đến và yêu cầu người đàn bà li hôn. - Ý nghĩa của hành động: + Cầu xin không ly hôn với chồng, quyết không giải phóng cuộc đời mình => nghịch lí, trớ trêu, khó hiểu + Thể hiện sự cam chịu, nhẫn nhục thậm chí nhu nhược, đớn hèn không dám đấu tranh để giải phóng số phận của nhân vật => cái nhìn bề ngoài. => Đó là hành động của con người chấp nhận đớn đau để có hạnh phúc. Nghịch lí đó khiến Phùng và Đẩu nhận ra, cuộc đời không đẹp, không lãng mạn nên thơ như chiếc thuyền ngoài xa bồng bềnh trong sương hồng. Đây cũng là cơ hội để họ thấu hiểu về cuộc đời. *Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài qua hai chi tiết - Vẻ đẹp của một người đàn bà từng trải, sâu sắc lẽ đời. Đây là vẻ đẹp đặc biệt nhất của chị bởi chị là người đàn bà ít học: chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng (do hoàn cảnh), thấu hiểu tình thương và cả sự nông nổi của con thơ, chị hiểu cuộc đời của người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi phong ba bão táp. Vì vậy, chị không thể bỏ chồng, càng không thể để đứa con phạm đạo hiếu. - Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, hi sinh, vị tha: Chị cương quyết không chịu bỏ chồng có nghĩa chị chấp nhận đòn roi của chồng. Chị coi đó như một cách giải tỏa những bức bách, u uất trong lòng người chồng. Thậm chí chị không đổ lỗi cho chồng mà kéo lỗi về phía mình (nhà nghèo mà mình lại đẻ nhiều quá) - Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng: + Chị luôn tìm mọi cách để bảo vệ con, bảo vệ tâm hồn non nớt của thằng Phác: xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, và phải gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại. + Chị không bỏ chồng vì “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình” và niềm hạnh phúc của người đàn bà ấy là “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…” => Đánh giá + Đây là những chi tiết nghệ thuật độc đáo mà NMC đã dụng công xây dựng để khắc họa vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài. Từ hành động ấy, tác giả đã giúp ta phát hiện ra “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của nhân vật”. + Người đàn bà hàng chài là đại diện tiêu biểu cho cuộc đời và phẩm chất của người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ VN nói chung. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả không chỉ bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của con người mà còn là cái nhìn ấm áp trước vẻ đẹp tâm hồn con người, thức tỉnh con người về cách nhìn nhận cuộc đời. Đề 6. Cảm nhận đoạn kết của tác phẩm. MỞ BÀI Nguyễn Minh Châu(1930-1989) là người không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát vọng chân chính và ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học, ông đã trở thành “người mở đường tinh anh và tài năng” cho công công cuộc đổi mới văn học nước nhà từ sau năm 1975.“Chiếc thuyền ngoài xa”được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê” (1985) sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.Truyện ngắn này là một thể hiện tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Đoạn kết tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. GIÁ TRỊ CỦA TẤM ẢNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG : -Tấm ảnh Phùng đã chụp đã chụp được là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh thật huyền ảo, tinh khôi, tinh khiết như “một bức tranh mực tàu của một danh họa đời cổ”.Tất cả khung cảnh ấy được nhìn qua một cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt một cánh dơi. Tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy và góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh :“trưởng phòng rất bằng lòng”.Tấm ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” có giá trị nghệ thuật cao, được mọi người yêu thích ,“được treo rất nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau” Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng đựơc treo trong những phòng khách sang trọng của những người sành điệu. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới chộp đựơc nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất. Và ai đã sưu tầm được nó, chắc hẳn đã tự hào rất nhiều. Nghệ thuật là vô giá! Tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó phản ánh hiện thực đời sống. ẤN TƯỢNG CỦA PHÙNG VỀ TẤM ẢNH MÌNH CHỤP : Nhưng đối với Phùng ( hay nói cách khác, đối với Nguyễn Minh Châu ) chưa hẳn là như vậy. Tuy chụp được tấm ảnh toàn mĩ nhưng dường như tâm trạng của Phùng vẫn còn nhiều băn khoăn, ray rứt. Bởi vì Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh , những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có thể nhiều người chỉ nhìn bề ngoài thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu . . . rồi quên lãng! Còn Phùng “mỗi lần ngắm kĩ”, nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại “nhìn lâu hơn” . Điều đó nói lên, đằng sau tấm ảnh, vẫn còn có điều gì khiến anh trăn trở. *Vẻ đẹp nghệ thuật gợi lên từ tấm ảnh: Một điểm nữa, Nguyễn Minh Châu cũng làm cho người đọc không thể bỏ qua trong cách nhìn lại tấm ảnh của Phùng “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” ..Đó là ấn tượng đặc biệt về hiệu ứng màu sắc của Phùng lúc chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.Cũng là màu sắc thể hiện niềm tin vào tương lai của gia đình hàng chài nghèo khổ, đầy nghịch lí sống trên chiếc thuyền ấy. Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng . Nhưng nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng kia bị che lấp bởi vô vàn cái bùng nhùng, rối rám của cuộc đời – cũng như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ hàng chài kia tưởng như không có gì đáng nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện ở chị những phẩm chất đáng quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quanh niệm về con người và cuộc sống. *Vẻ đẹp cuộc sống đời thường sau tấm ảnh: Hình ảnh người đàn bà hàng chài “cao lớn với những đường nét thô kệch,tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau khi ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh. Điều đó cho thấy Phùng luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống của gia đình hàng chài, đặc biệt là số phận đáng thương của những người phu nữ ở vùng biển này .Đó là người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Người phụ nữ hàng chài nghèo khổ vừa phải lo cái ăn, cái mặc cho một lũ con, vừa bị chồng đánh liên miên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cái khổ, cái nghèo của chị hiện ra trong hình dáng “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ mệt mỏi, đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Hình ảnh nhẫn nhục, cam chịu của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Ngoài ra, còn thằng Phác, chị nó, và cả lão đàn ông cục mịch, vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng vẫn là hình ảnh người phụ nữ hàng chài.Chị là đại biểu cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều. Hạnh phúc trong cuộc đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng không phải bao giờ cũng có được . Hạnh phúc của chị là những lúc được ngắm nhìn “đàn con chúng nó được ăn no”, vợ chồng con cái “hòa thuận vui vẻ”, dẫu đó là những niềm vui hiếm hoi trong cuộc đời nhiều cay đắng, nghiệt ngã của chị. *Nghịch lí của đời sống Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, vô danh không ai biết đến nhưng họ là số đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất nầy “bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Họ chính là đám đông đã bám gốc rễ trên trên hành tinh nầy từ thuở có loài người. Nhưng khổ nỗi, đám đông ấy dường như xa lạ với những bức ảnh tuyệt mĩ thể hiện cuộc sống của họ, nói cách khác, tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những cuộc sống rách rưới, đói nghèo. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật! Và đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Bởi lẽ thật cảm phục làm sao khi một người ít học, quanh năm bị chồng đày đọa mà vẫn nhìn nhận hành động độc ác của chồng với tấm lòng bao dung, độ lượng, vẫn suy xét mọi vấn đề có lí, có tình. *Niềm tin vào con người : Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh “bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông …”. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống. *Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống : Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Điều nầy không mới. Cách ta hơn sáu mươi năm, Nam Cao chẳng đã từng nói “Nghệ thuật không cần phải là . . .không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than. . .” ( Trăng sáng – 1943 ). Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bị ám ảnh mỗi khi nhìn lại tấm ảnh, vì có thể anh nghĩ rằng tấm ảnh đó sang trọng quá, xa cách quá với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc của những mảnh đời bất hạnh mà những người không trực tiếp chứng kiến như anh thì sẽ không bao giờ cảm nhận được một cách đầy đủ đằng sau tấm ảnh kia chứa đựng những gì. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn cón một khoảng cách. Anh muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thế mà anh “ngắm kĩ” rồi lại “nhìn lâu hơn”, Phùng muốn đào bới những gì trong một tấm ảnh rất quen thuộc của chính mình? Âu đó cũng là cái tâm của người say mê nghệ thuật.Có lẽ vì vậy mà Phùng dường như còn muốn làm điều gì xa hơn, cụ thể hơn chăng để cho nghệ thuật gắn liền với cuộc đời. Bằng không thì tấm ảnh đẹp như một giấc mơ đó mãi mãi vẫn là Chiếc thuyền ngoài xa ! *Quan niệm về nghệ thuật của nhà văn : Những ấn tượng của Phùng đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả : nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận ; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ. ĐÁNH GIÁ VỀ NGHỆ THUẬT : Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn : mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ KẾT BÀI : Đoạn kết không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Đoạn kết đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin vào cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào nhoáng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời th