Professional Documents
Culture Documents
(TLH LĐ - CK) ĐA NHIỆM
(TLH LĐ - CK) ĐA NHIỆM
Lớp: 21616
Mssv: 2156160178
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy về sự hướng dẫn và sự hỗ trợ quý báu trong
suốt quá trình giảng dạy. Khoảng thời gian qua không chỉ là một hành trình học thuật mà còn
là cơ hội để em phát triển kiến thức và kỹ năng của mình. Sự kiên nhẫn và tận tâm của Thầy
đã tạo ra một môi trường học tập tích cực và khơi gợi niềm đam mê tìm tòi, học hỏi trong
sinh viên.
Em hiểu rằng công việc của Thầy không chỉ giới hạn trong lĩnh vực giảng dạy mà còn rất
nhiều công việc khác. Vì vậy, em càng trân trọng và biết ơn Thầy đã dành thời gian và tâm trí
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn Thầy về sự hỗ trợ và đồng hành, đã giúp em có được
một trải nghiệm học tập thú vị và ý nghĩa. Kính chúc Thầy thật nhiều sức khỏe, niềm vui và
sự an lạc.
Trân trọng,
4
Trong thế kỷ 21, khái niệm đa nhiệm đã trở nên phổ biến. Theo Lin và cộng sự (2013), đa
nhiệm đã trở thành thành tựu phổ biến trong môi trường làm việc hiện đại. Và nó được coi là
một cấu trúc đặc thù của công việc hiện đại (Freude và Ullsperger, 2010). Nghiên cứu cho
thấy thanh niên Mỹ dành trung bình 7,5 giờ/ ngày cho phương tiện truyền thông và 29% thời
gian đó được dành để xử lý đồng thời các hình thức truyền thông khác nhau ( Uncapher và
cộng sự, 2017). Một nghiên cứu khác cho thấy người Mỹ trưởng thành thường tham gia vào 2
hoạt động bổ sung liên quan đến truyền thông khi đọc, chẳng hạn xem TV hoặc nghe tin tức
(Ran và cộng sự, 2016 ). Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy các sinh viên đại học thường xuyên
làm nhiều việc cùng một lúc, tức là làm nhiều việc cùng lúc với hơn ba hoạt động ( David và
Thế nhưng, đa nhiệm có thực sự đem lại năng suất trong công việc hay không vẫn là vấn đề
gây nhiều tranh cãi. Nhiều người đa nhiệm báo cáo rằng việc chuyển đổi thường xuyên giữa
các nhiệm vụ và loại phương tiện sẽ cải thiện hơn là cản trở hiệu suất của họ (Dye và cộng
sự, 2009, Small và cộng sự, 2009). Thế nhưng, những người khác cho rằng đa nhiệm làm
giảm hiệu suất và dẫn đến sự can thiệp, mất tập trung, gia tăng sai sót và căng thẳng cho
người lao động; rằng nó không cho phép có thời gian cho sự sáng tạo và suy ngẫm. Củng cố
cho quan điểm này đến từ tài liệu thực nghiệm về sự chú ý được phân chia, thực hiện nhiệm
vụ kép và chuyển đổi nhiệm vụ (Courage và cộng sự, 2015). Các nghiên cứu này cho thấy
rằng việc xử lý thông tin của con người là một nguồn tài nguyên có năng lực hạn chế và khi
đa nhiệm làm cạn kiệt tài nguyên thì sẽ gây ra chi phí phản hồi (độ chính xác, thời gian hoàn
Trong 10 năm qua, các doanh nghiệp đã cắt giảm nhân sự và tăng khối lượng công việc cho
các nhân viên khiến họ phải làm nhiều việc cùng lúc. Điều này có thể hiệu quả trong thời
gian ngắn nhưng thời gian dài sẽ gây ra căng thẳng quá mức. Các bác sĩ chăm sóc sức khỏe
ban đầu báo cáo rằng khoảng 70% - 90% số lần bệnh nhân đến khám là do căng thẳng như lo
lắng, trầm cảm, mất ngủ, ADHD ở người trưởng thành, đau lưng và đau nửa đầu…(Ron
Knaus, 2020). Ngoài ra, theo Alkahtani và cộng sự (2016), làm nhiều việc cùng lúc trong lớp
có tác động tiêu cực đến điểm trung bình đại học. Điều này được đưa ra sau khi họ thực hiện
nghiên cứu cho thấy mối quan hệ liên hệ cực đoan giữa nhiệm vụ giữa việc sử dụng máy tính
xách tay ở các lớp. Tương tự, Bellur và cộng sự (2015) đưa ra phát hiện rằng những sinh viên
thường xuyên đa nhiệm trong lớp có điểm trung bình đại học thấp hơn.
Lí giải cho điều đó, theo Rubinstein và cộng sự (2001), quá trình "kiểm soát điều hành" của
con người có hai giai đoạn bổ sung, riêng biệt. Gồm: "chuyển đổi mục tiêu" ("Tôi muốn làm
điều này ngay bây giờ thay vì điều kia") và "kích hoạt quy tắc" ("Tôi đang tắt các quy tắc
cho điều đó và bật các quy tắc cho điều này" ). Cả hai giai đoạn này đều giúp mọi người
chuyển đổi giữa các nhiệm vụ mà không cần nhận thức. Tuy nhiên, khi chuyển đổi giữa các
nhiệm vụ sẽ phát sinh “phí chuyển đổi”, đôi khi chỉ vài phần mười giây cho mỗi lần chuyển
đổi, nhưng nếu cộng chúng lại thì mọi người sẽ mất rất nhiều thời gian và nguồn lực để
chuyển đổi qua lại nhiều lần giữa các tác vụ. Do đó, đa nhiệm có thể mất nhiều thời gian hơn
và gây ra nhiều lỗi hơn. Tiến sĩ Meyer cho rằng rằng ngay cả những rào cản tinh thần ngắn
ngủi được tạo ra do việc chuyển đổi giữa các nhiệm vụ cũng có thể tiêu tốn tới 40% thời gian
Earl Miller - giáo sư khoa học thần kinh tại MIT cho rằng con người không thể tập trung vào
nhiều việc cùng một lúc nhưng có thể chuyển sự tập trung từ việc này sang việc khác với tốc
độ đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, nó sẽ gây mất thời gian và dễ mắc nhiều lỗi hơn so với thực
6
hiện từng nhiệm vụ. Một nghiên cứu của Stanford chỉ ra rằng những người làm nhiều việc
cùng một lúc thì thực hiện công việc kém hiệu suất do bị nhiễu bởi nhiều thông tin không liên
quan, làm chậm quá trình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức trước mắt. Một số nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng não phải mất thời gian lâu hơn gấp 4 lần để nhận ra những điều mới và tỷ lệ ghi
nhớ khi làm nhiều việc cùng một lúc thấp hơn (Mautz, 2017).
Hiện nay vẫn tồn tại nhiều luồng ý kiến khác nhau xoay quanh hiệu quả của đa nhiệm đối với
hiệu suất làm việc của con người. Sau đây sẽ là một số cơ sở lý luận và thực tiễn, phương
pháp để thực hiện đa nhiệm tốt hơn và phân tích ưu nhược điểm của làm việc đa nhiệm.
Đa nhiệm là tập trung vào nhiều nhiệm vụ cùng một lúc, dù là cùng lúc hay thông qua việc
chuyển đổi qua lại nhiều lần giữa các nhiệm vụ (Waller, 1997). Nói cách khác, đa nhiệm là
thực hiện đồng thời hai hoặc nhiều nhiệm vụ, điều này thường dẫn đến việc chuyển đổi liên
tục giữa các nhiệm vụ hoặc bỏ dở một nhiệm vụ để thực hiện một nhiệm vụ khác (Madore và
Wagner, 2019).
Ngoài ra, đa nhiệm còn được định nghĩa là một người thực hiện nhiều hoạt động khác nhau
trong cùng một khoảng thời gian, mỗi hoạt động đều có mục đích riêng và cần được chú ý (
Theo Buser và Peter (2012), đa nhiệm là việc mọi người chuyển đổi giữa nhiều nhiệm vụ
ngẫu nhiên. Đây cũng chính là hình thức đa nhiệm đã thu hút được sự quan tâm nhiều nhất
trên báo chí phổ thông, nơi phổ biến các bài viết về tác động năng suất của việc đa nhiệm.
Ví dụ:
Đa nhiệm tập trung chủ yếu vào các vùng não giúp tăng cường sự chú ý và khả năng tự điều
chỉnh. Đây là những kỹ năng điều hành quan trọng giúp chúng ta chống lại sự xao lãng, tập
trung vào nhiệm vụ và chuyển đổi giữa các nhiệm vụ một cách hiệu quả. Những vùng não
này rất quan trọng đối với khả năng đa nhiệm vì tổn thương ở những vùng này sẽ làm suy
giảm khả năng thực hiện đa nhiệm của con người (Rothbart & Posner, 2015).
Trong nghiên cứu “Hệ thống định hướng lại của bộ não con người: Từ môi trường đến lý
thuyết về tâm trí” của Corbetta và cộng sự (2008), các hệ thống não quan trọng liên quan đến
kiểm soát điều hành (executive control) và duy trì sự chú ý (sustained attention) quyết định
khả năng thực hiện đa nhiệm của con người. Chúng bao gồm: mạng lưới kiểm soát phía trước
(the frontoparietal control network), mạng lưới chú ý phía sau (the dorsal attention network)
và mạng lưới chú ý phía bụng (ventral attention network). Bộ não gặp khó khăn trong việc xử
lý và hoàn thành hai hoặc nhiều nhiệm vụ cùng lúc do những cách vốn có của hệ thống chú ý
vùng lưng và vùng bụng tương tác với mạng lưới kiểm soát phía trước đỉnh. Khi chúng ta tiếp
cận một nhiệm vụ, việc thể hiện mục tiêu trong mạng điều khiển phía trước được cho là sẽ
8
hướng dẫn phân bổ chú ý từ trên xuống, qua trung gian là mạng chú ý phía sau nhằm chọn
thông tin phù hợp và đạt được mục tiêu nhiệm vụ. Vì vậy, việc có nhiều mục tiêu nhiệm vụ sẽ
đặt ra yêu cầu lớn hơn đối với mạng lưới kiểm soát phía trước và phía sau, vốn bị hạn chế về
năng lực. Đồng thời, khi chúng ta thực hiện nhiều nhiệm vụ, mạng lưới chú ý ở bụng dễ bị
thu hút bởi các luồng thông tin cạnh tranh dẫn đến làm gián đoạn hiệu suất xử lý của não. Bởi
vì hành vi thực hiện nhiệm vụ xuất hiện từ sự tương tác giữa ba mạng não nên khi phải thực
hiện nhiều nhiệm vụ, sẽ có nhiều nguồn cạnh tranh về những yếu tố tạo nên mục tiêu, thông
tin phù hợp và cả thông tin không liên quan. Điều này có thể gây ra sự can thiệp và tương tác
phức tạp giữa mạng lưới chú ý và điều khiển của não (Vincent và cộng sự, 2008).
Một lượng lớn nghiên cứu về khoa học tâm lý cho rằng các cá nhân hầu như luôn mất nhiều
thời gian hơn để hoàn thành một nhiệm vụ và mắc nhiều lỗi hơn khi chuyển đổi giữa các
nhiệm vụ so với khi họ chỉ làm một nhiệm vụ. Công việc chụp ảnh thần kinh từ phòng thí
nghiệm đã làm nổi bật tác động của việc chuyển đổi nhiệm vụ trong não (Madore và Wagner,
2019). Kết quả từ nghiên cứu chụp ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI) của Wascom và
cộng sự (2014) cho thấy sức mạnh của việc thể hiện nhiệm vụ trong mạng điều khiển sẽ lớn
hơn khi các đối tượng chuyển sang một nhiệm vụ mới so với việc họ làm cùng một nhiệm vụ.
Khi con người chuyển từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác, quá trình xử lý thần kinh của
não bộ nhiều hơn vì chúng ta phải nhớ lại cách trình bày của nhiệm vụ mới và sau đó phân bổ
sự chú ý đến thông tin có liên quan để thực hiện nhiệm vụ mới. Điều này khiến chúng ta
không tận dụng được tính tự động của não bộ và hiệu suất như khi tập trung thực hiện một
1.3 Lý thuyết Nhận thức theo luồng (The Threaded Cognition Theory)
Theo Salvucci và Taatgen (2008), nhận thức theo luồng là một lý thuyết tích hợp về đa nhiệm
của con người. Trong nhận thức theo luồng, mọi nhiệm vụ đều được thể hiện bằng một luồng
9
nhận thức. Ví dụ: trong trường hợp lái ô tô và vận hành thiết bị định vị, một luồng sẽ đại diện
cho việc điều khiển ô tô và một luồng khác sẽ đại diện cho việc vận hành thiết bị định vị. Một
luồng được liên kết với mục tiêu của một nhiệm vụ, đóng vai trò là chìa khóa để huy động
kiến thức về nhiệm vụ liên quan (ví dụ: bộ nhớ khai báo và thủ tục cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ).
Do chỉ có một bộ xử lý thủ tục duy nhất khả dụng nên khi nhiều luồng hoạt động song song
thì chỉ có một luồng có thể sử dụng bộ xử lý thủ tục. Mặc dù không bị chi phối bởi bất kỳ cấu
trúc kiểm soát điều hành giám sát nào nhưng chúng vẫn bị hạn chế bởi các nguồn lực sẵn có
như tầm nhìn, bộ nhớ… (Borst và cộng sự, 2010).
Theo Anderson (2007), Lý thuyết nhận thức theo luồng được triển khai trong kiến trúc nhận
thức ACT-R - mô tả nhận thức của con người như một tập hợp các mô-đun độc lập tương tác
thông qua hệ thống sản xuất trung tâm. Tất cả các mô-đun hoạt động song song, nhưng mỗi
mô-đun chỉ có thể tiến hành nối tiếp (Byrne và Anderson, 2001). Do đó, mô-đun trực quan
chỉ có thể nhận biết một đối tượng tại một thời điểm và mô-đun bộ nhớ chỉ có thể truy xuất
Hình. Sơ đồ hóa học của kiến trúc nhận thức ACT-R và cách các thành phần của nó phối hợp
với nhau để tạo ra hành vi (dựa trên và mở rộng Anderson, 2007 và Anderson và cộng sự,
Nhận thức theo luồng mở rộng ACT-R bằng cách cho phép nhiều mục tiêu song song và do
đó nhiều luồng nhiệm vụ hoạt động. Tuy nhiên, các mô-đun khác vẫn chỉ có thể thực hiện
một việc tại một thời điểm, theo trình tự “ai đến trước được phục vụ trước”. Tính tuần tự của
các mô-đun dẫn đến nhiều điểm nghẽn tiềm ẩn: Khi hai luồng cần một mô-đun đồng thời thì
Các mô hình này cho thấy rằng sự tắc nghẽn trong tài nguyên nhận thức và động cơ cùng với
sự tắc nghẽn ở hai tài nguyên nhận thức trung tâm hơn (bộ nhớ thủ tục và khai báo) gây ra
một loạt các hiện tượng can thiệp đa nhiệm. Mặc dù nhiều nút cổ chai được xác định nhưng
không phải tất cả các nút cổ chai đều dẫn đến các cấu hình nhiễu giống nhau. Mức độ nghiêm
trọng của nhiễu phụ thuộc vào tài nguyên cụ thể: Bộ nhớ thủ tục rất nhanh và do đó chỉ dẫn
đến độ trễ ở mức 50 ms. Mặt khác, sự can thiệp do bộ nhớ khai báo và hệ thống thị giác và
vận động dẫn đến tốc độ giảm rõ rệt ở mức 200–500 ms.
Các mô hình lý thuyết xử lý thông tin hiện tại giả định xử lý nối tiếp, có nghĩa là một quy
trình cần được hoàn thành trước khi quy trình tiếp theo bắt đầu. Tuy nhiên, tâm trí có khả
năng xử lý song song, có nghĩa là xử lý đồng thời nhiều đầu vào khác nhau với chất lượng
khác nhau (Laberge & Samuels, 1974). Điều này phụ thuộc vào các quá trình cần thiết để
hoàn thành một nhiệm vụ, mức độ luyện tập, khả năng của từng cá nhân
12
Mô hình chính của lý thuyết xử lý thông tin chủ yếu bao gồm ba yếu tố chính (Celiköz,
Kho lưu trữ thông tin (Information stores): Những nơi khác nhau trong tâm trí nơi
thông tin được lưu trữ, chẳng hạn như trí nhớ giác quan, trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài
Quá trình nhận thức (Cognitive processes): Các quá trình khác nhau chuyển bộ nhớ
giữa các kho lưu trữ bộ nhớ khác nhau. Một số quy trình bao gồm nhận thức, mã hóa,
Nhận thức điều hành (Executive cognition): Nhận thức của cá nhân về cách xử lý
thông tin bên trong cũng như nhận biết điểm mạnh và điểm yếu của họ.
Nghiên cứu 1
Nghiên cứu của Blakely và cộng sự (2023) đã kiểm tra tác động của việc thực hiện đồng thời
một nhiệm vụ đếm giai điệu với tải nhận thức và tính toán toán học khác nhau, so với hiệu
suất của các nhiệm vụ tương tự được thực hiện riêng lẻ.
Cách tiến hành: Những người tham gia có 9 phụ nữ và 3 nam giới trong độ tuổi từ 20 đến 38
(M = 30,08 tuổi, SD = 6,37). Vì nghiên cứu trước đây sử dụng nhiệm vụ đếm trong các thiết
kế thử nghiệm tương tự với 12 người tham gia được cung cấp đủ năng lượng nên cỡ mẫu này
được coi là phù hợp. Những người tham gia thực hiện các phép tính toán học liên tục, thực
13
hiện nhiệm vụ đếm giai điệu tải nhận thức cao và thấp, đồng thời thực hiện đồng thời các
Nhiệm vụ đếm giai điệu: những người tham gia sử dụng iPhone 4s chạy ứng dụng iPsymrt và
RecorderApp v2.2.1. Ba âm (300Hz, 1100Hz và 2000Hz) được phát qua tai nghe có micrô
tích hợp để ghi lại phản hồi giọng nói của người tham gia. Số lượng âm tần số thấp, trung
Hiệu suất tính tóan toán học: Sự tương phản thống kê trực giao được lên kế hoạch trước đã
được sử dụng để kiểm tra tác động của tác vụ kép (tác vụ đơn so với tác vụ kép) và sự khác
biệt về nhu cầu tải nhận thức (đếm âm một tần số so với ba tần số) đối với số lượng phép tính
Kết quả:
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các điều kiện đếm âm trong khi thực hiện tác vụ
đơn và kép. Số lượng phép tính toán học chính xác được thực hiện đã giảm khi tải nhận thức
ngày càng tăng, từ điều kiện một nhiệm vụ đến điều kiện đếm âm ba tần số được ghép nối.
Nghiên cứu 2
Nghiên cứu của Buser và Peter (2012) nhằm kiểm tra mức độ ảnh hưởng của đa nhiệm ảnh
Cách tiến hành: Mẫu của chúng tôi bao gồm 218 chủ đề từ mười buổi học thông thường.
Tuổi trung bình của là 22; 73% là người Hà Lan; 53% là sinh viên kinh tế.
14
Phương pháp được áp dụng trong quá trình thử nghiệm: Phương pháp đơn lẻ, Phương pháp
Đa và Phương pháp Lựa chọn (đối tượng được phân bổ ngẫu nhiên vào các phương pháp
trong mỗi phiên và không biết về các nhãn này). Trong phương pháp đơn lẻ, các đối tượng
phải thực hiện hai nhiệm vụ liên tiếp, mỗi nhiệm vụ kéo dài 12 phút. Trong phương pháp đa,
các đối tượng buộc phải chuyển đổi giữa hai nhiệm vụ khoảng 4 phút/ lần. Các đối tượng
không biết có bao nhiêu lần chuyển đổi và khoảng thời gian giữa các lần chuyển đổi khác
nhau, khiến việc dự đoán khó xảy ra. Trong phương pháp Lựa chọn, các đối tượng có thể luân
phiên giữa hai nhiệm vụ bằng cách nhấn nút 'Chuyển đổi' (mỗi nhiệm vụ 12 phút). Đồng hồ
bấm giờ thông báo cho các đối tượng về thời gian còn lại cho mỗi nhiệm vụ. Khi hết 12 phút
cho một tác vụ, màn hình sẽ tự động chuyển sang tác vụ khác và nút Chuyển đổi không thể sử
dụng được nữa.Các đối tượng được phân thành ba nhóm như hình bên dưới. Các câu đố được
đưa ra ở Vòng 2 khác với các câu đố ở Vòng 1 (nhưng chúng giống nhau cho tất cả các môn
trong vòng).
Nhiệm vụ giải Sudoku: là điền vào các ô trống khác các số nguyên từ 1 - 9, sao cho mỗi số
xuất hiện chính xác một lần trên mỗi hàng, chính xác một lần trong mỗi cột và chính xác một
lần trong mỗi vùng. Những con số đưa ra ở đầu đảm bảo rằng câu đố Sudoku có một lời giải
duy nhất.
15
Nhiệm vụ khác là tìm càng nhiều từ càng tốt trong câu đố Tìm kiếm Từ. Những người tham
gia phải tìm kiếm tên tiếng Anh của các nước Châu Âu và Châu Mỹ theo lưới chữ cái 17×17.
Các từ có thể theo mọi hướng, bao gồm cả đường chéo và ngược. Hiệu suất của đối tượng
Kết quả:
Đa nhiệm làm giảm đáng kể hiệu suất so với thực thi tuần tự. Điều này cho thấy việc nhớ lại
16
các quy tắc, chi tiết và các bước đã thực hiện cho đến nay là cái giá của việc chuyển đổi. So
sánh kết quả của Nhóm 1 và Nhóm 2 với nhau cho thấy hiệu quả năng suất của việc làm đa
nhiệm là tiêu cực đáng kể: chênh lệch trong các sự chênh lệch là −23 điểm ( t -test: p = 0,04).
Nghiên cứu 3:
Nghiên cứu của Sanbonmatsu và cộng sự (2013) xem xét mối quan hệ giữa tính cách và sự
khác biệt cá nhân trong khả năng đa tác vụ, khả năng kiểm soát và thực hiện đa tác vụ.
Cách tiến hành: 310 sinh viên đại học (176 nữ và 134 nam) đã đồng ý trước khi tham gia
vào nghiên cứu được IRB phê duyệt của Đại học Utah để lấy tín chỉ khóa học bổ sung.
Những người tham gia có độ tuổi từ 18 - 44, với độ tuổi trung bình là 21.
Những người tham gia đã hoàn thành một loạt câu hỏi trong bối cảnh nghiên cứu về lái xe và
thái độ lái xe, báo cáo tỷ lệ phần trăm thời gian họ sử dụng điện thoại khi lái xe (nếu có). Họ
cũng thực hiện các thang đo đánh giá khả năng thực hiện đa tác vụ, thang đo tính bốc đồng
(BIS), Thang tìm kiếm cảm giác (SSS), Bảng câu hỏi về sử dụng phương tiện truyền thông.
Tiếp theo, họ tham gia vào nhiệm vụ OSPAN. Nhiệm vụ OSPAN đóng vai trò là thước đo khả
năng đa tác vụ. Gồm 2 nhiệm vụ riêng biệt (trí nhớ và toán học) được thực hiện đồng thời, có
các kích thích riêng biệt (chữ cái và số), có các biến đổi tinh thần khác nhau (ghi nhớ và số
học), có đầu ra phản hồi khác nhau (độ chính xác thu hồi bộ nhớ và độ chính xác xác minh
toán học) được tính điểm độc lập. Những người tham gia được yêu cầu nhớ một chuỗi gồm
2–5 chữ cái xen kẽ với 12 bài toán trong đó một phương trình và giải pháp khả thi được đưa
ra để xác minh. Họ cho biết lời giải của các bài toán là đúng hay sai và nhớ lại các chữ cái
Kết quả:
Những người có nhiều khả năng thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng một lúc nhất không phải là
những người hoàn thành với hiệu suất cao nhất. Những người tự đánh giá bản thân có khả
năng làm việc đa tác vụ ở mức cao là những người hoàn thành với hiệu suất thấp. Điều này
cho thấy người tham gia đã đánh giá quá cao khả năng đa tác vụ của bản thân so với thực tế.
Nghiên cứu 4:
Trong các thí nghiệm được công bố năm 2001, Tiến sĩ Joshua Rubinstein, Tiến sĩ Jeffrey
Evans và Tiến sĩ David Meyer, đã tiến hành bốn thí nghiệm trong đó thanh niên chuyển đổi
giữa các nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như giải các bài toán hoặc phân loại các vật thể hình
học. Đối với tất cả các nhiệm vụ, người tham gia sẽ mất thời gian khi phải chuyển từ nhiệm
vụ này sang nhiệm vụ khác. Khi nhiệm vụ trở nên phức tạp hơn, người tham gia sẽ mất nhiều
thời gian hơn. Kết quả là mọi người mất nhiều thời gian hơn để chuyển đổi giữa các nhiệm
vụ phức tạp hơn. Chi phí thời gian cũng lớn hơn khi những người tham gia chuyển sang các
nhiệm vụ tương đối xa lạ. Họ tăng tốc nhanh hơn khi chuyển sang nhiệm vụ mà họ hiểu rõ
hơn.
Theo Tiến sĩ Ron Knaus (2020) - bác sĩ, bác sĩ tâm thần và bác sĩ y học thể thao cho biết một
số kỹ thuật sẽ giúp bạn thư giãn tinh thần để cuối cùng bạn có thể học cách thực hiện nhiều
nhiệm vụ:
Chọn một vài công việc thường ngày để bắt đầu. Sau khi bạn đã thành thạo thực hiện nhiều
công việc thường ngày, hãy chuyển sang những công việc khó hơn một chút và dần dần tăng
Đối với công việc đòi hỏi sự tập trung cao thì không nên thực hiện đa nhiệm. Khi nhiệm vụ
khẩn cấp hoặc chi tiết đó hoàn thành, bạn có thể quay lại thực hiện các nhiệm vụ khác mà bạn
thường làm. Điều này giúp bạn tránh được lỗi sai do não quả tải, tiết kiệm thêm thời gian.
Lập danh sách những mục bạn có thể tham khảo nhanh chóng.
Ví dụ: nếu bạn có danh sách các mặt hàng bạn cần tham khảo thường xuyên (chẳng hạn như
thông tin về giá cả hoặc giao hàng hoặc phím tắt), hãy đặt danh sách đó bên cạnh điện thoại
hoặc máy tính để bạn có thể truy cập nhanh, não bộ không bị quá tải.
Sau 2-3 tiếng, hãy ngừng đa nhiệm và cho phép bản thân chỉ làm một việc trong 15-20 phút.
Điều này giúp bạn sẵn sàng giải quyết nhiều nhiệm vụ hơn, ít lỗi hơn so với khi bạn hoàn
thành nhiệm vụ của mình mà không có giai đoạn khởi động lại này.
Hãy cho tâm trí của bạn một khoảng thời gian nghỉ ngơi hoàn toàn khỏi các công việc trong
Chỉ cần giảm tốc độ và làm việc đến mức hiệu suất mà bạn mong muốn, bạn có thể thực hiện
Đa nhiệm là thách thức về mặt nhận thức đối với những người lính trong quân đội. Sự tổn hại
đến năng lực nhận thức của quân nhân có thể gây nguy hiểm cho an ninh của dân thường,
19
quân nhân, thiết bị quan trọng và cơ sở hạ tầng. Sau đây là một số cách được các nhà nghiên
cứu đề xuất để nâng cao khả năng đa nhiệm trong quân sự như:
Thuê những cá nhân có khả năng đa nhiệm tốt hơn và huấn luyện binh lính một cách phù hợp
có thể đảm bảo rằng họ sẽ quản lý các nhiệm vụ cùng một lúc hiệu quả hơn. Mitchell và
Driskell (1996) đã gợi ý rằng các nghiên cứu sử dụng phân tích công việc có thể xác định các
yêu cầu nhiệm vụ cụ thể và các kỹ năng nhận thức cần thiết để thực hiện chúng. Từ đó, xác
định các kỹ năng đa nhiệm cần thiết để hướng dẫn các nhà quản lý nhân sự đánh giá, lựa
chọn và bổ nhiệm nhân sự vào các vị trí. Kiến thức đó có thể giúp các nhà quản lý nguồn
nhân lực phát triển và điều chỉnh các bài kiểm tra hiệu suất quân sự cho các vị trí mà đa
nhiệm là thành phần trọng tâm của công việc; thiết kế các quy trình đào tạo phù hợp với bối
Ngoài ra, có thể sử dụng các thiết bị công nghệ nhắc nhở một nhiệm vụ đã quên hoặc giảm tải
nhận thức của binh lính. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể ảnh hưởng đến hiệu suất, đặc biệt khi
mức độ tự động hóa quá cao (Squire và Parasuraman, 2010), khi độ tin cậy của các công cụ là
dưới mức tối ưu (Chen và Barnes, 2012), khả năng xâm nhập của chúng quá cao (Imbert và
cộng sự, 2014) hoặc khi chúng đơn giản là không phù hợp với bối cảnh đa nhiệm (Vallières
1.2.1 Ưu điểm
Áp lực về thời gian và năng suất khiến các chuyên gia cảm thấy rằng họ có thể thực hiện
nhiều nhiệm vụ cùng lúc, giúp họ làm việc hiệu quả và tiết kiệm thời gian (Lin và cộng sự,
2013).
Theo Robson (2021), đa nhiệm có thể tiếp thêm năng lượng cho chúng ta và khiến chúng ta
tỉnh táo hơn. Điều này được phản ánh trong sinh lý của chúng ta bởi vì chúng ta càng cố gắng
thực hiện nhiều nhiệm vụ thì nhịp tim của chúng ta càng tăng. Năng lượng đó có thể dẫn đến
Đa nhiệm được coi là một cấu trúc đặc thù của công việc hiện đại (Freude và Ullsperger,
2010). Vì vậy kĩ năng đa nhiệm sẽ là một lợi thế trong trong sơ yếu lý lịch, chẳng hạn như
cách bạn sử dụng kỹ năng đó trong tình huống thực tế, có thể làm tăng sức hấp dẫn của bạn
đối với nhà tuyển dụng. Giáo sư Strayer thuộc bộ môn tâm lý học của Đại học Utah (Mỹ)
nhận định, ở các vị trí cao, bạn giỏi một chuyên môn trong lĩnh vực nào đóchưa đủ để bạn
thành công trong lãnh đạo. Nếu bạn là một nhân sự đa nhiệm, bạn sẽ có cơ hội bước lên nấc
Thực hiện đa nhiệm sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian, từ đó cân bằng được công việc và cuộc
sống. Điển hình như Ellon Musk- CEO của 3 công ty (SpaceX, Tesla Motors và SolarCity) và
là bố của 5 đứa trẻ, ông vẫn có thời gian ngủ trung bình 6 - 6,5 tiếng /đêm nhờ vào kỹ năng
làm việc đa nhiệm: trả lời email trong khi đang đọc các báo cáo, tổ chức họp báo và nghe
điện thoại cùng lúc, thậm chí trả lời tin nhắn công việc trong khi con đang ngồi trong lòng
mình…Hay Bill Gates với một màn hình chỉ hiển thị email đến, một màn hình là email hiện
thời đang xử lí và một màn hình hiển thị desktop, ông có thể làm việc đa nhiệm mà không
mất tập trung và chỉ cho mỗi email đủ sự chú ý cần thiết.
21
Giảm chất lượng công việc: Khi chú ý được chia ra nhiều hướng, có thể dễ dàng gây ra sai
Theo Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (2006), làm nhiều việc cùng một lúc khiến chúng ta mắc nhiều
lỗi hơn, ghi nhớ ít thông tin hơn và thay đổi cách hoạt động của não. Đồng quan điểm, nghiên
cứu của Walker (2019) cho rằng đa nhiệm lại làm giảm năng suất của lực lượng lao động thay
Suy giảm sức khỏe tinh thần: Liên tục chuyển đổi giữa các nhiệm vụ có thể tăng cường
stress và mệt mỏi, ảnh hưởng đến tâm trạng và sức khỏe tổng thể. Trong một nghiên cứu của
Halim và Halim (2023) trên các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực và thái độ của họ với đa nhiệm ,
những người này cho rằng việc sử dụng điện thoại thông minh, máy tính xách tay và tab là
nguyên nhân chính của đa nhiệm khiến họ bị căng thẳng, ảnh hưởng đến khả năng tập trung,
tâm trạng và sức khỏe do phải ưu tiên công việc và quản lý thời gian. Ngoài ra, khi họ tham
gia vào một số nhiệm vụ, họ không thể ghi nhớ và tiếp thu thông tin.
22
Borst, J. P., Taatgen, N. A., & van Rijn, H. (2010). The problem state: A cognitive
bottleneck in multitasking. Journal of Experimental Psychology: Learning,
Memory, and Cognition, 36(2), 363–382.
Buser, T., & Peter, N. (2012). Multitasking. Experimental Economics, 15(4), 641–655.
https://doi.org/10.1007/s10683-012-9318-8
Blakely, M. J., Smith, S. L., Russell, P. N., & Helton, W. S. (2023). Dual-task effects
Corbetta, M., Patel, G., & Shulman, G. L. (2008). Neuron. The Reorienting System of
https://doi.org/10.1016/j.neuron.2008.04.017
Chen, J. Y. C., & Barnes, M. J. (2012). Supervisory control of multiple robots: Effects
of imperfect automation and individual differences. Human Factors, 54,
157–174.
23
Courage, M. L., Bakhtiar, A., Fitzpatrick, C., Kenny, S., & Brandeau, K. (2015).
Growing up multitasking: The costs and benefits for cognitive development.
Developmental Review, 35, 5-41.
Celiköz, N., Erisen, Y., & Sahin, M. (2019). Cognitive learning theories with
emphasis on latent learning, Gestalt and information processing theories.
Journal of Educational and Instructional Studies in the World, 9 (3). ERIC
Dye, M. W., Green, C. S., & Bavelier, D. (2009). The development of attention skills
in action video game players. Neuropsychologia, 47(8-9), 1780-1789.
David, P., Kim, J. H., Brickman, J. S., Ran, W., & Curtis, C. M. (2015). Mobile phone
distraction while studying. New media & society, 17(10), 1661-1679.
EVN. (2023). Sự thành công của những người đa nhiệm. EVN News.
https://www.evn.com.vn/d6/news/Su-thanh-cong-cua-nhung-nguoi-da-nhiem-
200-849-84621.aspx
Freude, G. & Ulsperger, P. (2010). Unterbrechungen bei der Arbeit und multitasking
in der modernen Arbeitswelt – Konzepte, Auswirkungen und Implikationen
für [13] Arbeitsgestaltung und Forschung. Zentralblatt für Arbeitsmedizin, 60,
120 – 128.
https://www.researchgate.net/publication/369140941_MULTITASKING_AN
D_ITS_IMPACT_ON_21_ST_CENTURY_PROFESSIONALS
Imbert, J.‐P., Hodgetts, H. M., Parise, R., Vachon, F., Dehais, F., & Tremblay, S.
(2014). Attentional costs and failures in air traffic control notifications.
Ergonomics, 57, 1817–1832
Lin. L., Li. J., Wircenski. M. & Wircenski. J. (2013). Multitasking and career skill
requirements:Implications for career technical education. Workforce Education
Forum, 36(1).pp.1-20.
Mautz, S. (2017, May 11). Psychology and Neuroscience Blow Up the Myth of
https://www.inc.com/scott-mautz/psychology-and-neuroscience-blow-up-the-
myth-of-effective-multitasking.html
Ran, W., Yamamoto, M., & Xu, S. (2016). Media multitasking during political news
consumption: A relationship with factual and subjective political knowledge.
Computers in Human Behavior, 56, 352-359.
https://www.amanet.org/articles/secrets-of-multitasking-slow-down-to-speed-u
p/
Small, G. W., Moody, T. D., Siddarth, P., & Bookheimer, S. Y. (2009). Your brain on
Google: patterns of cerebral activation during internet searching. The
American Journal of Geriatric Psychiatry, 17(2), 116-126.
25
Squire, P. N., & Parasuraman, R. (2010). Effects of automation and task load on task
https://doi.org/10.1371/journal.pone.0054402
Schad, D. J., Vasishth, S., Hohenstein, S., & Kliegl, R. (2020). How to capitalize on a
Uncapher, M. R., Lin, L., Rosen, L. D., Kirkorian, H. L., Baron, N. S., Bailey, K., ...
& Wagner, A. D. (2017). Media multitasking and cognitive, psychological,
neural, and learning differences. Pediatrics, 140(Supplement_2), S62-S66.
Vincent, J. L., Kahn, I., Snyder, A. Z., Raichle, M. E., & Buckner, R. L. (2008).
https://doi.org/10.1152/jn.90355.2008
Vallières, B. R., Hodgetts, H. M., Vachon, F., & Tremblay, S. (2012). Supporting
change detection in complex dynamic situations: Does the CHEX serve its
purpose? Proceedings of the Human Factors and Ergonomics Society 56th
Annual Meeting (pp. 1708–1712). Santa Monica, CA: Human Factors and
Ergonomics Society
Waller, M. J. (1997). Keeping the pins in the air: How work groups juggle multiple
tasks. In M. M. Beyerlein & D. A. Johnson (Eds.), Advances in
interdisciplinary studies of work teams (Vol. 4, pp. 217–247). Stamford, CT:
JAI Press.
26
Waskom, M., Kumaran, D., Gordon, A. R., Rissman, J., & Wagner, A. D. (2014).
https://doi.org/10.1523/jneurosci.5282-13.2014