Professional Documents
Culture Documents
CTNX 12-Đã G P
CTNX 12-Đã G P
Đề 2: “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ ... hai bàn chân để lại những vết chân to và sâu
trên bãi cát hoang vắng.”
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống
nhận thức trong tác phẩm.
Bài làm
Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tài năng và tinh anh” (Nguyễn Ngọc) của văn học Việt
Nam hiện đại.| Ông quan niệm: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc
cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường (...) để bênh vực
cho những con người không còn có ai để bênh vực”. Tác phẩm nghệ thuật thể hiện cách nhìn của nhà văn
về cuộc sống, sự khao khát công lý xã hội: nó là lời tâm sự, sám hối, là tiếng nói của tình yêu cái đẹp không
đạt được, là gánh nặng ưu tư về lẽ đời, lẽ còn mất của nhân sinh và vũ trụ. Hiện thực cuộc sống với tất cả
những phức tạp, đa diện ấy được Nguyễn Minh Châu phát hiện và thể hiện đầy tinh tế trong truyện ngắn
"Chiếc thuyền ngoài xa". Đặc biệt, đoạn trích miêu tả phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng “Từ chỗ chiếc
xe tăng mà tôi đang đứng ... hai bàn chân để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng” bộc lộ
những niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh. Từ
đó, ta thấy được tình huống nhận thức rất độc đáo của tác phẩm.
| Chiếc thuyền ngoài xa thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện
“Bến quê”(1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng
tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thể sự - đời tư thế hiện mối
quan hoài thường trực của nhà văn “những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống". Sự thật
nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh từ lâu
trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo bạn mai trong không gian xa rộng của biển cả.
“Tác phẩm chứa đựng cái ý nghĩa rộng lớn, sâu xa: nó khiến người ta giật mình nếu quen nghĩ rằng cuộc
đời đã hết đau thương, nó khơi gợi người cầm bút nên nhìn kĩ vào những gì ẩn sau vẻ đẹp điền viên bề
ngoài để nhớ tới trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người”. (Lã Nguyên)
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung - nơi
anh đã từng chiến đấu để chụp một tấm ảnh thuyền biển, bổ sung cho cuốn lịch năm mới. Sau nhiều ngày
“phục kích”, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương.
Nhưng khi chiếc thuyền vào gần bờ, anh kinh ngạc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
| Trong đoạn trích, nhà văn đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hện về nghệ thuật và đời sống
qua hiện thực nghiệt ngã của gia đình hàng chài . Sau khi chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ vào đến bờ
thì bước xuống từ đó không phải là những con người toàn thiện như cổ tích mà đó là người đàn bà vùng
biển trạc ngoài 40 tuổi, với thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ do di chứng của bệnh
đậu mùa, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt sau những đêm mất ngủ vì đánh lưới, tấm lưng áo bạc phếch , rách
rưới, nửa thân dưới ướt sũng vì lội nước…Tác giả không đặt tên cụ thể mà gọi nhân vật một cách phiếm
định – người đàn bà hàng chài, mụ, bà ta. Cũng giống nhân vật “thị” trong “Vợ nhặt” (Kim Lân), Nguyễn
Minh Châu muốn khắc họa thân phận điển hình của những người phụ nữ lao động nghèo vùng biển, dường
như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy, sự lam lũ của
người đàn bà khiến ta nhớ đến hình ảnh bà Tú trong bài thơ thương vợ của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi, cam chịu “ người đàn
bà đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân . Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: "có tấm lưng rộng", đi chân chữ bát khuôn mặt
"độc, dữ". Hiện thân của sự lam lũ, nghèo đói, vất vả trước cuộc sống mưu sinh . Chỉ bằng vài nét vẽ, người
đàn ông được khắc họa như là hiện thân của gánh nặng cuộc đời đã kéo cong tấm lưng. Nam Cao đã viết
trong tác phẩm Sống mòn "Sự thật ở bên ngoài to lớn quá, mạnh mẽ quá, ăn hiếp hẳn cuộc đời tưởng
tượng, hiện hình bằng giấy trắng mực đen...".
Bạo lực gia đình diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn. Hình ảnh chiếc xe tăng hỏng tượng trưng
cho chiến tranh đã kết thúc, đã đi qua con người cứ nghĩ sẽ được sống trong hạnh phúc, sung sướng. Nhưng
không, chiến tranh đã đi qua nhưng con người ta phải bước vào cuộc chiến đấu mới: chiến đấu chống lại
đói nghèo, chống lại bạo lực gia đình, đây là cuộc chiến rất cam go, ác liệt. Lão đàn ông “lập tức hùng hồ,
mặt đỏ gay, lão rút trong người chiếc lưng của lính ngụy ngày xưa; chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận
như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm nghiến răng ken két, giọng điệu rên rỉ, đau đớn: Mày chết hết đi cho ông nhờ, chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ” Cách đánh thật man rợ. Cường độ và tốc độ đánh đạt đến đỉnh điểm” của sự giận dữ,
căm thù và đau đớn. Diễn tả điều này, “Nguyễn Minh Châu đã trút bỏ hết trang sức của ngôn từ”(Bùi Minh
Đức) để thay vào đó là những từ ngữ cực tả “như lửa cháy” “quật tới tấp” “thở hồng hộc” “nghiến răng ken
két” mới diễn tả được đầy đủ, chính xác cảnh tượng kinh hoàng này. Chồng đánh vợ bằng tất cả sự căm
thù, tức giận, bằng tất cả sức mạnh của cơ bắp và tinh thần, đánh thậm tệ, dã man như đánh kẻ thù số một.
Mặc dù vậy người đàn bà không chống trả, không van xin, không chạy trốn. Khi Thúy Kiều bị Tú Bà tra
tấn đã phải thốt lên trong đau đớn:
“Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau”.
Người đàn bà cũng vậy, mụ đâu phải là mình đồng da sắt, là con người bình thường ai mà không đau được
chứ! Thế mà mụ lặng câm chấp nhận đòn roi của chồng như người đi biển chấp nhận sóng gió vì con. Quả
thực, những điều diễn ra là sự tận cùng bạo lực gia đình. Trước cảnh tượng đó, Phùng sau vài phút “ há
mồm ra nhìn” , anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” . Nhưng cũng chưa kịp làm gì thì lại
chứng kiến cảnh tượng đau lòng hơn “Bỗng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra
thằng Phác... thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ, căng thẳng làm nó chạy qua không nhìn thấy tôi”.
Phản ứng của thằng Phác là lao vào “giằng được chiếc chắt lưng. liền dướn thắng người, vung khóa quật”
vào bố nó. Như vậy thằng bé cũng đã dùng hết sức có thể cùng với sự giận dữ, căm thù, căm giận để đánh
bố nó. Vì tình thương mẹ mà Phác đã đánh bố, đã phạm phải tội lớn nhất của đời người, tội bất hiếu khó
tha thứ. Phác đã vi phạm đạo đức nghiêm trọng của con người. Có thể nói, việc bảo vệ mẹ khỏi đòn roi là
một động cơ tốt đẹp, trong sáng đáng trân trọng nhưng Phác lại có những hành động sai lầm. Đáng thương
hay đáng trách đây? Người đàn ông vũ phu “định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền
dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người xưa nói “hổ
dữ không ăn thịt con”. Đây chưa đến nỗi là hành động của hổ dữ, nhưng cách đánh của lão đàn ông cũng
thật đáng trách biết bao. Quả thực, những điều diễn ra là sự tận cùng bạo lực gia đình. Mối quan hệ gia
đình, quan hệ huyết thống vốn là một mối quan hệ rất thiêng liêng, cao đẹp nhưng giờ đây đã bị phá vỡ bởi
những hành động bạo lực chồng chất, dã man. Con người thật tội nghiệp, nhỏ bé trước cuộc sống mưu
sinh, trước cảnh sống nghèo đói.
( Văn học trước Cách mạng tháng Tám - 1945 đã miêu tả vấn đề cơm áo gạo tiền đã khiến những
người trí thức bị “ghì sát đất,” để sống đời thừa như những thanh sắt bị hoen ghỉ ra giữa cuộc đời, để họ cứ
chết dần, chết mòn, chết khi đang còn sống. Đó là thực trạng đau xót được nhà văn Nam Cao phản ánh chân
thực trong những trang viết của ông về đề tài người trí thức. Cũng vì cái đói, Lão Hạc trong truyện ngắn
cùng tên của Nam Cao phải ăn bả chó để bảo toàn mảnh đất thiêng cho người con trai. Đó là những con
người sống trong chế độ cũ, xã hội nửa thực dân phong kiến phi nhân đạo. Đau đớn thay, nỗi đaudân phong
kiến phi nhân đạo. Đau đớn thay, nỗi đau về cơm áo gạo tiền còn kéo dài sang tận chế độ mới, khi hòa bình
đã lập lại, đất nước đã thống nhất nhưng cái đói vẫn là mối đe dọa đến cuộc đời của nhiều người dân trong
những năm 80 của thế kỷ XX. Cái nghèo đói đang mang đến nguy cơ phá hủy những mối quan hệ vốn
thiêng liêng và tưởng chừng rất bền chặt. Đặt ra vấn đề này, Nguyễn Minh Châu đã làm thay đổi bao mắt
nhìn, óc nghĩ của mọi người về cuộc đời, về thân phận của con người bằng tất cả tấm lòng nhân đạo sâu
sắc, thấm thía và cảm động. Như vậy, chiếc thuyền vào gần bờ đã có kết quả hoàn toàn trái ngược với vẻ
đẹp của sự toàn bích, toàn thiện; giờ đây là sự hiện thân của cái xấu, cái ác, cái phi đạo đức. Hình ảnh chiếc
thuyền ở gần là hiện thân của cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn với đói nghèo và bạo lực. Tấm ảnh về chiếc
thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp.
Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ
xuống lấp đầy những nốt rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư
phủ của con thuyền.)
Nghệ sĩ Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã
là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo
nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa. Phùng kinh ngạc đứng há hốc mồm, vứt máy ảnh
định nhảy vào can thiệp. Thiên chức của người nghệ sĩ không chỉ khám phá, rung động trước cái đẹp mà
phải đứng lên chống lại cái ác, cái xấu xa. Khát vọng giải phóng người đàn bà khỏi đòn roi luôn tồn tại
trong lòng Phùng.Chính việc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình đã làm thay đổi quan điểm, cách nhìn cuộc
đời của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời. Đây cũng là một tình huống mới để câu chuyện phát triển sang
một hướng khác.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều
nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây
nhà văn khẳng định, cùng một chiếc thuyền nhưng ở hai thời điểm, hai khoảng cách lại cho kết quả hoàn
toàn trái ngược nhau. Cuộc đời luôn chứa đựng nghịch lí oái oăm. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối
lập, những mâu thuẫn giữa đẹp - xấu, ác – thiện. Đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình
thức và nội dung không phải bao giờ cũng trùng khít nhau. Đừng vội đánh giá con người, sự vật qua hình
thức bên ngoài. Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng dõng dạc cần phải bước vào cuộc chiến chống lại cái ác,
bạo tàn, xấu xa.
Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất là nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng nên điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Xây dựng đối thoại sinh động
hấp dẫn. Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thể góp phần khắc sâu chủ đề - tư tưởng cho
tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo tạo nên một tác phẩm rất đặc sắc giàu sức
ám ảnh.
Qua 2 phát hiện,Tác giả đã tạo ra một tình huống nhận thức độc đáo.Đó là tình huống nhân vật
Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh
vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những
thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát
hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều: nghịch lí giữa cái đẹp
của nghệ thuật với sự trần trụi, bị đát của cuộc sống hiện thực, nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng
vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ. Với
tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan
hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thuật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa
trong màn sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất gần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách
khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân
thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Kết bài : Tóm lại, đoạn văn đã thể hiện rất chân thành, sâu sắc những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng, từ đó, tác phẩm đặt ra bao vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Từ câu chuyện về một bức ảnh
nghệ thuật và sự thật cuộc đời sau bức ảnh, Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra bao vấn đề có ý nghĩa triết lí
và nhân sinh sâu sắc. Từ đây ta nhận ra một điều: chuyện cách nhìn đời, nhìn người như thế nào chưa bao
giờ là đơn giản dễ dàng. Phải chăng chỉ có tấm lòng nhân ái, trái tim mang mối quan hoài thường trực về
số phận con người mới giúp con người có cái nhìn sâu sắc, đúng đắn hơn? Cuộc đời cần lắm những ánh
mắt, những điểm nhìn như vậy.
Đề 3: “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình... - Có chứ, chú !
Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...” . Phân tích nhân vật người đàn bà hàng
chài trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong cách tự sư triết lí của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Bài làm
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Người phụ nữ từ xa xưa đến nay luôn khơi nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thi sĩ, nhạc sĩ, bởi
lẽ, mỗi người phụ nữ luôn là một tác phẩm đẹp là tạo hóa ban tặng cho thế giới này. Xuất hiện trong thơ
văn, phần lớn hình ảnh người phụ nữ luôn đẹp, không cách này thì cách khác, họ luôn được miêu tả vẻ đẹp
từ hình thức cho đến tâm hồn. Là một người có trái tim đa cảm, Nguyễn Minh Châu - “người mở đường
tài năng và tinh anh” của văn học Việt Nam hiện đại - đã chắp bút viết ra tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
bằng tình huống truyện độc đáo. Trong đó, hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người
nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới , đặc biệt là trong đoạn “Người
đàn bà bỗng chép miệng. con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình...-Có chứ chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Từ đó, ta thấy về phong cách tự sự triết lí của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Chiếc thuyền ngoài xa thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện
“Bến quê”(1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng
tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thể sự - đời tư thế hiện mối
quan hoài thường trực của nhà văn “những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống".
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, người đọc hầu như không hề được biết đến tên gọi của người đàn
bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài,
lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Ngoại hình trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như
đang buồn ngủ. Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nhưng người đàn bà ấy vẫn không chịu “chia tay" với gã chồng vũ phu
tàn bạo. Chánh án Đầu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện, khuyên giải nên bỏ chồng nhưng người đàn
bà nhất định từ chối. trong chính tòa án huyện khi chị kể về cuộc đời của mình.
Trong sự cảm thông chân thành của Phùng và Đầu, cuối cùng chị kể cho Phùng và Đầu nghe câu
chuyện cuộc đời mình: Hồi nhỏ chị sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng xấu lại bị lên đậu mùa nên
mặt rỗ, lớn lên không có ai lấy, chị đã có mang với anh chàng chài hay đến mua bả về đan lưới. Chồng chị
là người hiền và cục tính không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì sinh nhiều con , sống trên chiếc thuyền
chật chội, gánh nặng kinh tế dồn lên người chồng ,biến lão thành một người vũ phu. Từ đó, cứ mỗi lần bế
tắc, lão chồng lại đánh vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Thế nhưng chị vẫn không hề
chống trả, van xin hay tìm cách chạy trốn. Khi các con lớn, chị xin lão chồng được lên bờ đánh như là một
đặc ân. Đau xót thay, khi chị kể về hoàn cảnh của gia đình trong những ngày vụ Bắc khi phong ba biến
động, cả gia đình hàng tháng trời ăn xương rồng luộc chấm muối. Chao ôi, chiến tranh đã đi qua, niềm vui
hân hoan ngập tràn khi đất nước được giải phóng
“Cả đất trời rực rỡ sắc cờ hoa
Mừng đất nước trong bài ca chiến thắng”
Cứ tưởng rằng con người ta sẽ bước sang một trang đời mới hạnh phúc ấm no. Thế mà vẫn có những
con người phải ăn xương rồng luộc chấm muối ngay trong thời bình, thời đại mới. Xót xa biết bao khi Lão
Hạc phải ăn quả sung, củ chuối để qua ngày đoạn tháng vì chế độ cũ tàn bạo dã man khi thực dân Pháp và
phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, thì nay trong thời bình vẫn có phận đời cơ cực , phải ăn
xương rồng chấm muối hàng tháng như thế.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy, cùng với cuộc sống lam lũ , nghèo khó, thất học sẽ chẳng
biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn
bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi đến tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy
nhưng chị đã xin quan tòa rằng " quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó". Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn,
người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm
tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Ta thử tính xem, nếu chị nuôi
con 100% thì một mình không thể chèo chống khi phong ba biển động; nếu để chồng nuôi thì vất vả sẽ tăng
thêm, áp lực sẽ dồn lên đầu ông chồng, lúc này mọi đau khổ, uất ức lại trút lên đầu những đứa con thơ tội
nghiệp; còn nếu 50% số con ở với mẹ và 50% ở với bố thì gia đình đã bị tan đàn xẻ ghé. Rõ ràng, các
phương án đều không thể nào trọn vẹn đôi đường. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người,
khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một
người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ
phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghĩ, họ
không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn. Nhất là cuộc sống lênh đênh trên bốn bể
là nước, họ phải chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày nhiều hơn phụ nữ trên
đất liền. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ
nữ. Qua câu chuyện, người đọc thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài được hiện ra. Người
đàn bà hàng chài chấp nhận đòn roi của chồng như người đi biển chấp nhận sóng gió là vì các con cho thấy
đức hi sinh cao cả của một người mẹ:
“Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”.
Vì thương con nên chị muốn các con được lớn lên trong không khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên
chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố
của mình. Chị thấu hiểu rằng đòn roi của chồng sẽ làm tan nát trái tim non nớt của các con; làm tổn thương
tinh thần nên chị đã xin lão chồng được lên bờ đánh như một đặc ân. Bởi thế , khi thằng Phác “như một
viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” , chị đã “ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không
muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng
với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó. Niềm vui của chị thật giản đơn
khi "vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no". Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh
để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh
cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Chị hiểu thế nào là gia đình, hiểu
thiên chức của người phụ nữ, nỗi khổ của người chồng, chị đã có phương án lựa chọn tối ưu nhất. Trên tòa
án huyện, người đàn bà không hé răng nói xấu chồng dù chỉ nửa lời mà ngược lại chị nhận hết lỗi về mình
“lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá". Qua đó, chị hiện lên với vẻ đẹp của sự bao dung, vị tha,
cao thượng đáng trân trọng. Nếu như Phùng, Đẩu, Phác nhìn lão chồng vũ phu bằng thái độ lên án, hằn học
thì người đàn bà lại nhìn bằng thái độ cảm thông “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” vì gánh nặng mưu sinh mà anh trở nên vũ phu, người đàn ông
chính là nạn nhân của hoàn cảnh sống, cho ta thấy người đàn bà đã có cái nhìn đa chiều, đa diện.
Nhân vật người đàn bà hàng chài đã góp tạo nên trị nhân đạo sâu sắc khi nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt vẻ đẹp khuất lấp. Vẻ đẹp của người đàn bà
chính là viên ngọc đẹp ẩn giấu trong sâu thẳm trong con người Việt Nam mà nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã cố công đi tìm đúng như ông quan niệm: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người”. Số phận và vẻ đẹp của người đàn bà được hiện lên từ câu chuyện ở tòa
án huyện khiến người ta vừa ngạc nhiên, xót xa, vừa trầm trồ, thán phục. Vẻ đẹp đó vẫn còn rất nhiều trong
cuộc đời nhưng đâu dễ gì tìm ra được nếu như thiếu sự cảm thông cùng cái nhìn đa chiều, đa diện.
Cái hay của đoạn văn là câu chuyện rất giản dị nhưng mặn chát vị đời lam lũ nhọc nhằn. Đối với
Phùng: nhờ câu chuyện này đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn về các nhân vật và về chính cuộc đời mình.
Phùng nhận thấy cần tránh lối nhìn định kiến và phải có cái nhìn đa chiều, đa diện. Đây là vấn đề cực kì
cần thiết không chỉ đối với nghệ thuật mà còn đối với cuộc sống đương thời. Phát hiện và nhận thức của
Phùng về người đàn bà, về Đầu, về mình, anh bừng tỉnh trong nhận thức và suy nghĩ, một người nghệ sĩ
chân chính luôn mong muốn được hoàn thiện bản thân.
Bằng tình huống truyện độc đáo mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc sống, ngôn ngữ kể
chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là người kể
chuyện, nên điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Xây dựng đối thoại sinh động
hấp dẫn. Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế góp phần khắc sâu chủ đề- tư tưởng cho tác
phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo, tạo nên một tác phẩm rất đặc sắc giàu sức ám
ảnh.
| Tư tưởng tác phẩm có liên quan chặt chẽ đến yếu tố triết luận. Bởi, tư tưởng bản thân nó đã mang
tính “thông thái, sáng suốt” lại được thể hiện một cách “thông thái” nghĩa là độc đáo, hấp dẫn. Như vậy, đề
cao tính tư tưởng của tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã chọn định hướng triết luận cho ngòi bút của mình.
Nguyễn Minh Châu đã dùng nhân quan triết học để soi chiếu, lí giải, nhận thức, phân tích hiện thực. Từ
những vấn đề rất cụ thể, rất gần gũi lại chứa đựng những thông điệp mang tầm khái quát rộng lớn, mà cốt
lõi là tinh thần nhân bản: Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là một con người
Mọi dòng sông đều đồ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những
vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm của văn học nghệ thuật.
Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới để đặt ra và
cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân
chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt tới tầm nhân bản. Muốn vậy “Nhà văn chân chính là
phải nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê - Khốp). Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi
được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người
đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân
đạo.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc
như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc
phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong
tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập,
đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn,
thui chột.
DÀN Ý THAM KHẢO
A. MỊ TRONG ĐÊM ĐÔNG CỨU A PHỦ
1. MỞ BÀI
-Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác
phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống
trị của thực dân phong kiến. Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc phần cuối trong phần 1 của truyện Vợ chồng A Phủ , kể về diễn
biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ.
II. THÂN BÀI
Giới thiệu sơ lược về Mị: một cô gái xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo. Vì món nợ truyền kiếp
của gia đình và sự tàn ác của bọn chúa đất miền núi Tây Bắc mà Mị trở thành nạn nhân của chế độ
cho vay nặng lãi. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra. Trong đêm tình mùa xuân, nhờ tác
động bởi ngoại cảnh, men rượu, tiếng sáo, Mị có sức sống tiềm tàng, khao khát hạnh phúc, tình yêu;
nhưng bị A Sử dập tắt phũ phàng.
Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lí Pá
Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.
Hai con người đau khổ không hẹn mà gặp nhau tại nhà thống lí Pá Tra trong đêm đông nơi núi
cao lạnh lẽo.
Diễn biến tâm trạng Mị
Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt đêm, đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp
lửa kia thì Mị đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu
lần. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản
năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng.Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa,
điệp từ “chỉ” diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu
trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của
sức sống trong Mị.Tuy có lúc A Sử đi chơi đêm về, ngứa tay ngứa chân, “đánh Mị ngã ngay xuống
cửa bếp”, nhưng đêm sau Mị vẫn gan lì, lặng lẽ phản kháng, tiếp tục ra sưởi lửa như đêm trước. Bởi
lẽ ngọn lửa đã là người bạn, là cứu cánh của Mị .Từ “vẫn” tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền
bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống
dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.
Sau sự nổi loạn ở đêm tình mùa xuân không thành, Mị đã bị cường quyền, thần quyền nhà
thống lý Pá tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào trạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả trước đây. Điều
đó thể hiện trong cách Mị nhìn A Phủ bị trói đứng.Lúc đầu, Mị có trạng thái thản nhiên đáng sợ. Mị
trơ lì tê liệt đến mức vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi. Ba chữ “cũng thế thôi” tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác
thái độ lạnh lùng của nhân vật. Nghĩa là cô không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn
không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại.Đó là thái độ thản nhiên đáng sợ vì không có tình
đồng loại. Vì sao? Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết
không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Hai là, cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã
tạo cho Mị một sức ì, một quán tính cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều
đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên cô đã trở nên chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với
cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì “tảng đá”.
Nguyên nhân quan trọng nhất đã tác động đến tâm lý của Mị để từ sự chai sạn vô cảm đã
sống dậy những cảm xúc mãnh liệt, đã bừng dậy khát vọng tự do đó chính là dòng nước mắt của A
Phủ. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ đã tác động mạnh đến
tâm lý của Mị, đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị A Sử
trói đứng như vậy, nước mắt chảy xuống mà không thể lau đi được. Chính việc sống lại những kí ức
đó đã khiến Mị nhận thấy sự đồng cảm, đồng cảnh giữa mình và A Phủ, để từ lòng thương mình, cô
đã thương người và cuối cùng là hành động cứu người.Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật
nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị: Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết.
Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã
dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm
hồn người phụ nữ cùng khổ. Cùng với lòng thương người, Mị đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân
đạo của cha con nhà thống lý chúng nó thật độc ác. Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn
đọa đày ở nhà thống lý đến chỗ cảm nhận được điều này là một bước tiến trong nhận thức và tình
cảm của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần
quyền và cường quyền nữa.
Khi ý thức dần trở lại , Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ. Vì tin là mình đã bị
ma nhà thống lý Pá Tra nhận mặt nên cô ý thức được sự ràng buộc của đời mình, chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi. Còn với A Phủ, Mị nhận rõ sự bất công Người kia việc gì mà phải chết
thế ? Ý thức rõ được hậu quả khi một ngày kia A Phủ trốn được rồi thì mình sẽ bị trói và chết bên
cái cọc ấy nhưng Mị không thấy sợ. Dù không nói ra một cách rõ ràng nhưng những suy nghĩ của
Mị đã cho thấy cô chấp nhận cái chết về phía mình để tìm cách cho A Phủ được sống. Đến đây có
thể thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mị quên đi sự sống của bản thân đế đổi lấy sự sống cho
người khác.Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha trong tâm hồn Mị.
Như vậy, từ lúc chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến
phức tạp. Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa cắt dây mây cởi trói
cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị
trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một
chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi,
còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của
Mị lúc này: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi
thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị
như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị
suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm
câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do
của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính
là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị
và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm
đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ
Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc
Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung.Tô Hoài đã rất cảm
thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Và bằng một trái tim nhạy cảm và
chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư
tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó.Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định
được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự
vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc
sống. .
Đoạn trích đã thể hiện khả năng miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, đi sâu khai thác diễn biến tâm
trạng của nhân vật, ngôn từ độc đáo, giàu ý nghĩa. Cách miêu tả rất cụ thể, thủ pháp tăng tiến; nhịp
văn thúc bách, nhanh, gấp, lời văn nửa trực tiếp…tất cả đã khắc họa thành công diễn biến tâm lí của
nhân vật Mị. Qua đó, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: bạo lực không thể đè bẹp, hủy diệt khát
vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Trong mọi cảnh ngộ, họ luôn luôn tìm cách vươn lên bằng
khát vọng tự do, hạnh phúc, bằng sức mạnh yêu thương và sự dẫn đường chỉ lối của cách mạng sau
này.
*Bình luận giá trị nhân đạo trong đoạn trích
- Khái niệm: Tư tưởng nhân đạo là giá trị cơ bản của các tác phẩm chân chính được tạo nên bởi
niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những nỗi đau của con người và cảnh đời bất hạnh
trong cuộc sống, đồng thời biểu dương ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người,
thấu hiểu được tâm tư tình cảm và giúp họ nói lên ước nguyện cũng như đấu tranh để giành được
ước nguyện ấy. Từ đó, bộc lộ sự căm phẫn các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người.
- Biểu hiện:
+ Tác giả thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao
động miền núi Tây Bắc trước Cách mạng;
+ Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi cao Tây Bắc;
+ Trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt của nhân dân Tây Bắc và đặc biệt
nhà văn tin vào khả năng cải tạo hoàn cảnh, khả năng cách mạng của họ.
- Đánh giá:
+ Tư tưởng nhân đạo góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Qua đó, nhà văn gửi gắm
tấm lòng yêu thương và niềm tin mãnh liệt vào con người.
+ Tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài vừa có sự kế thừa, tiếp thu tư tưởng nhân đạo trong văn
học Việt Nam những giai đoạn trước đồng thời vừa có sự mới mẻ, phù hợp với thời đại.
III. KẾT BÀI
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu
vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Màu sắc dân tộc đậm
đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát
sáng trong truyện ngắn này.“Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn
đọc , nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong
truyện ngắn “Đời thừa”. Tác phẩm xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội
nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955.
III.Kết bài
Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc.Ông đã đồng cảm với số
phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ , đồng thời căm phẫn lên án, tố cáo sự tàn bạo
của giai cấp thống trị miền núi.Không chỉ thế, nhà văn còn ngợi ca những vẻ đẹp của người dân lao
động TB, đó là khát vọng sống, khát vọng tự do, tư tưởng đấu tranh phản kháng và khả năng làm
CM để tự giải phóng cuộc đời mình. Đâylà nét mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài cũng
như của VH giai đoạn 45-75.
….…………………………………………………………………………………………………….
VỢ NHẶT
KIM LÂN
ĐỀ 1
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không
phải.
………………… Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần
tu sửa lại căn nhà
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 30)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn trích. Từ đó nhận xét nghệ
thuật khắc họa tính cách nhân vật của nhà văn Kim Lân
GỢI Ý THAM KHẢO
I.MỞ BÀI
Viết về người nông dân không phải là đề tài mới hay hiếm gặp . Nhưng cái cốt của một tác
phẩm có thành công với đề tài này hay không là do sức hấp dẫn của những cây bút. Nếu như Nam
Cao thành công khi khắc họa nhân vật Chí Phèo nhằm nói lên sự tha hóa bần cùng của người nông
dân trong xã hội thực dân phong kiến thì Kim Lân cũng khắc họa thành công người nông dân tên
Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt của ông. Vẫn là đề tài nông dân ấy nhưng Kim Lân đã khơi được
những nguồn chưa ai khơi là thân phận rẻ rúng bị coi như rơm rác của con người. Qua nhân vật
Tràng, nhà văn đã khẳng định những nét đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Đặc biệt
, đoạn trích “sáng hôm sau…..” không chỉ khắc họa được vẻ đẹp của người nông dân (anh Tràng)
mà còn thể hiện được sự độc đáo trong việc xây dựng nhân vật của nhà văn Kim Lân
II.THÂN BÀI
1. Khái quát về tác phẩm
Truyện Vợ nhặt in trong tập “Con chó xấu xí” được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của
Kim Lân. Tác phẩm vốn có tiền thân từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở
thời kì trước Cách mạng). Hòa bình lập lại (1954), Kim Lân viết lại thành truyện ngắn Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ Nhặt ra đời trong hoàn cảnh đất nước rơi vào nạn đói kinh hoàng thời
kì 1945, khi mà nhân dân ta chịu cảnh chết đói như ngả rạ, người người nhà nhà rơi vào cảnh khó
xử. Không khí của những làng quê được miêu tả “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người
trong làng đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được
cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Xóm nghèo ấy cũng là xóm ngụ cư,mọi
người tứ phương đổ về ai cũng mong muốn tìm được cái ăn để đỡ đói qua ngày.
Chỉ với vài nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn
ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của
những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào
bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng
có những ý nghĩ gì vừa lý thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình
tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.
2. Cảm nhận đoạn trích
a. Yếu tố tác động
- Khung cảnh thiên nhiên
+ Thời gian thay đổi: mở đầu tác phẩm là buổi chiều chạng vạng >< buổi sáng mùa
hè ấm áp
+ không gian thay đổi: Câu chuyện mở đầu bằng những gương mặt u ám và những
âm thanh thê thiết , tất cả tối sầm lại vì đói khát >< tràn ngập ánh nắng chói lóa của buổi sớm mùa
hè
- Cảnh đời sống gia đình:
+Ngăn nắp gọn gàng, sạch sẽ: ngôi nhà xiêu vẹo, rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại -> nay được thu dọn, quét tước sạch sẽ, gọn gàng: quần áo rách, cũ vắt lâu
ngày được mang ra phơi; hai ang nước vốn khô cong nay được đổ đầy ăm ắp…
Mẹ Tràng lúi húi giẫy những búi cỏ dại (từ láy “lúi húi, cặm cụi” => chịu khó
Người vợ quét lại sân, tiếng chổi kêu sàn sạt: âm thanh rõ ràng, âm thanh của
sự sống (khác với âm thanh tiếng quạ, tiếng khóc hờ ở đầu tác phẩm)
→ Hình ảnh bình dị, thân thuộc theo hướng tích cực được quan sát bằng ánh mắt háo
hức vì ngạc nhiên, bất ngờ trước sự thay đổi lớn lao của xung quanh của Tràng, khác với sự vô tâm
như thường thấy.
b. Diễn biến tâm lí và hành động của Tràng
Ban đầu Tràng bất ngờ, cứ tưởng mình đang mơ, thế nên tâm trạng hắn “êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Các từ láy diễn tả trạng thái cảm giác chính xác : cảm giác hạnh
phúc của người vẫn chưa tin được sự thật đẹp đẽ mà mình đang có.
- Sức mạnh kì diệu của hạnh phúc đã làm thay đổi hẳn con người Tràng: Từ dáng vẻ bên
ngoài Không còn cái dáng đi “ ngật ngưỡng”, “ Cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước”. Bây giờ đã là
cái dáng đi đàng hoàng và tỉnh táo “ Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân → Sự thay
đổi của dáng vẻ bên ngoài nói lên sự thay đổi lớn lao của tâm hồn
-Hắn thấy “rất thấm thía cảm động” trước cảnh tượng đời thường, giản dị đó là cảnh mẹ
chồng và nàng dâu cùng nhau dọn dẹp, thu xếp nhà cửa. Trước đây, khi chưa có vợ, cuộc sống đói
khổ, đơn điệu, Tràng vô lo vô nghĩ. Chính vì thế, cảnh tượng ấy khiến Tràng vô cùng cảm động.
- Trong lòng Tràng dấy lên sự yêu thương gắn bó đối với ngôi nhà – tổ ấm của mình: "Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". Hai chữ "lạ lùng" nói lên sự đổi
thay lớn lao trong suy nghĩ của Tràng. Tình cảm với gia đình của Tràng không hề hời hợt, bâng quơ
bây giờ đã là máu thịt, là mạch kết nối bền chặt trong Tràng. Nhà văn Kim Lân đã vận dụng một
loạt những từ láy “thấm thía, lạ lùng, phấn chấn, đột ngột” để miêu tả thật tinh tế cảm xúc, tâm trạng
vui sướng, ngỡ ngàng ngập tràn tâm hồn Tràng. Bởi đối với anh, tất cả như một giấc mơ đẹp nay đã
hóa hiện thực.
Không chỉ thế, Tràng còn nhận thấy mình cần phải có bổn phận và trách nhiệm vì từ nay,
“hắn đã có một gia đình”. Từ nhận thức mình "đã có một gia đình", Tràng nghĩ đến những điều xa
xôi hơn: "Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng". Đó
chẳng phải là khát vọng thầm kín mà vô cùng mãnh liệt trong con người tội nghiệp đó sao? Khát
vọng về một mái ấm gia đình, một nơi che mưa che nắng, một tổ ấm có "vợ" và "con cái" của hắn –
khát vọng đời thường giản dị mà trong cảnh đói lại trở nên thiêng liêng, cảm động biết bao. Vậy
nên, trong lòng hắn, một lần nữa lại tràn ngập "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột". Lần này,
Tràng vui sướng, không phải vì "có vợ", mà lớn lao hơn, hắn có một "gia đình". Hai tiếng “gia
đình” và hình ảnh so sánh “cái nhà như cái tổ ấm” hiện lên thật thiêng liêng. Đó là hình ảnh của sự
sống, đem đến sinh khí mới mẻ cho cuộc đời Tràng.
- Suy nghĩ ấy, khiến lần đầu tiên hắn thấy mình đã trưởng thành "bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người". Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn phận và trách nhiệm với gia
đình. Đó là quy luật tâm lí tất yếu. Tràng cũng vậy, "hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ
con sau này". Có lẽ ý thức về bổn phận là phạm trù ý thức vừa mới định hình trong Tràng, từ khi
hắn nhận thức được sự thiêng liêng của hai tiếng "gia đình". Hắn đã thực sự trưởng thành, trở thành
người đàn ông của gia đình.
Không chỉ thay đổi trong suy nghĩ, ý thức, trách nhiệm với gia đình của Tràng còn thể hiện
qua hành động "hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà". Từ láy “xăm xăm” một lần nữa được Kim Lân sử dụng để diễn tả động thái hăm hở,
hào hứng, mạnh mẽ của Tràng, gợi lên tư thế của một người chủ gia đình thực sự đang dần lớn lên
và được khẳng định trong con người anh. Cái dáng vẻ "xăm xăm" ấy nói lên biết bao quyết tâm, sự
nhiệt thành, bao tình yêu của hắn dành cho gia đình. Hành động ấy trước đây đâu phải là hành động
thường nhật của hắn, đó là sự chuyển biến lớn. Chính niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu
thương, tình mẹ con vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm trong lòng hắn biết bao ước vọng về hạnh
phúc, bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn. Ở Tràng đã bừng thức, một sức sống mới
mẻ tràn ngập trong lòng người đàn ông đang sống bên bờ vực của cái chết. Qua nhân vật, KL thể
hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc
giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc
sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.
Tâm trạng của Tràng sau đêm tân hôn được Kim Lân miêu tả thật chân thực, xúc động, từ đó
gợi nhắc người đọc liên tưởng đến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao). Sau
đêm gặp thị Nở, khi nhận được sự chăm sóc đầy tình người của thị, Chí Phèo cũng đã có sự hồi
sinh. Từ một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Chí khao khát hoàn lương, được làm người lương
thiện. Như vậy, từ sự chuyển biến trong tâm trạng cũng như hành động của Tràng, Chí Phèo,… các
nhà văn hiện thực đã cho người đọc thấy sức mạnh cảm hóa của lòng nhân ái, tình yêu thương, khát
khao hạnh phúc gia đình của con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn mãnh liệt và đáng
trân trọng
Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm
nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật. Trong truyện ngắn, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu
sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt,
trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình,
vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn
khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm
Nhà văn đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo – tình huống nhặt vợ để qua đó thấy
được sự thay đổi trong tính cách, tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Đoạn trích đã thể hiện diễn biến
tâm lí tinh tế của Tràng ở buổi sáng hôm sau, kết hợp với ngôn ngữ kể, tả mộc mạc, giản dị và cách
kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
* Đuôi bình luận : nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật
Khái niệm: Nghệ thuật khắc họa nhân vật được hiểu là nhà văn đã sử dụng các phương tiện,
các biện pháp nghệ thuật để tái hiện lại những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí…
của Tràng trước những cảnh ngộ, những tình huống.
-Biểu hiện:
+ Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng với đầy đủ ngôn ngữ, diện mạo, hành động,
tính cách và diễn biến tâm trạng tinh tế mà lo- gic, hợp lí, đặc biệt là sự đổi thay trong tâm trạng của
nhân vật Tràng: từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm thành người đàn
ông trưởng thành, có trách nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh
của khát vọng hạnh phúc... có thể biến những điều không thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt
ngào.
+ Đoạn trích đã thể hiện thành công diễn biến tâm lí của Tràng ở buổi sáng đầu tiên
sau khi có vợ bằng cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ kể, tả mộc mạc, giản dị,
dùng nhiều từ láy có sức biểu cảm ...
- Đánh giá:
Thông qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích, nhà văn muốn
nhắn gửi đến độc giả những “thông điệp nghệ thuật” giàu ý nghĩa nhân sinh
Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong
nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng
với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên
trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và
và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó
cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc
qua đoạn trích.
ĐỀ 2
“… Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người
đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh.
…………………………..
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?...”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr 30,31,32)
Phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về sự thay
đổi của nhân vật người vợ nhặt
1. Mở bài
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy.”
(Tố Hữu)
Những vần thơ của Tố Hữu gợi nhớ về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 trong tâm trí biết
bao người. Nỗi ám ảnh ấy đã đi vào văn chương với những tác phẩm nổi tiếng mà khi đọc, người ta
rùng mình với một sự kiện thương đau đã qua. Tiêu biểu trong số đó có tác phẩm “Vợ Nhặt” của
Kim Lân-một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc, nhà văn của đồng ruộng, “một lòng một dạ đi về
với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam” (Nguyên Hồng) . Tác phẩm
“Vợ Nhặt” đã tái hiện chân thực tình cảnh khốn khó của người nông dân trong nạn đói, đồng thời
ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của con người dù cuộc sống tăm tối vẫn không ngừng khao khát, sẻ chia
và hướng tới tương lai. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong
đoạn trích ……
2. Thân bài
a. Phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích:
- Giới thiệu chung về nhân vật người vợ nhặt:
+ Lai lịch: Không nhà cửa, không gia đình, không tên (Tác giả chỉ gọi là thị, cô ả, người đàn
bà)→Cuộc đời thị là một số o tròn trĩnh, thể hiện tính chất cay đắng của thân phận con người
+ Ngoại hình: Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, gầy sộp, áo quần tả tơi như tổ đỉa…→ Thân phận khốn
khổ, đói nghèo truy đuổi không biết bám víu vào đâu…
- Tính cách:
+ Trước khi làm vợ Tràng: Thị chao chát, chỏng lỏn trong lời nói, vô duyên trong hành động.
Được Tràng cho ăn, thị ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc và chấp nhận theo không về làm vợ
Tràng
Cái đói đã làm thị đánh mất cả sĩ diện thị cần một nơi nương tựa, bấu víu.
- Sau khi về làm vợ Tràng, thị hoàn toàn thay đổi, trở thành người phụ nữ đúng mực, bộc lộ
nhiều phẩm chất đáng quý. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích trên.
+ Thị trở nên hiền hậu, đúng mực
+ + Trong hành động: Chăm chỉ quét dọn nhà cửa, vườn tược, vun vén cho tổ ấm; chăm
chút cho bữa cơm gia đình; hiền thục đoan trang khác hẳn trước đây, chính Tràng cũng nhận ra
hôm nay “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì
chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”
++ Trong lời nói, cử chỉ: “Trống gì đấy, u nhỉ?”, “Ừ, sao nhà biết?”
+ Biết cảm thông với hoàn cảnh khốn khó của nhà chồng:
++ Chuẩn bị và cùng ăn bữa cơm ngày đói với gia đình chồng
++ Trong bữa cơm, khi đón nhận bát chè khoán thực ra là cháo cám từ người mẹ, Thị “đưa
lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”
+ Thị còn là người gieo niềm tin và hướng về tương lai:
++ Bữa cơm đón nàng dâu mới thật thảm hại diễn ra trong tiếng thúc thuế dồn dập ngoài kia
khiến bà mẹ từ đầu đã cố vui, gượng vui cũng phải quay mặt để giấu đi giọt nước mắt. Thế nhưng,
cũng chính tại thời khắc tuyệt vọng đó, thị lại thắp lên một niềm hy vọng mới cho Tràng bằng câu
hỏi đầy ngạc nhiên “- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?”
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn
phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.”
++ Khi Trang phấn khởi hỏi lại “ Việt Minh phải không?”, thị đã trả lời thật lễ phép và hào
hứng: “- Ừ, sao nhà biết?...”
→Đánh giá: Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung đã thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc
xây dựng tình huống truyện độc đáo, eo le; cách kể tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với
nhiều chi tiết đặc sắc; nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm
lí tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắc lọc và giàu sức gợi cảm. Qua đó, tác giả đã xây
dựng thành công nhân vật người vợ nhặt, có thể thấy thị là nạn nhân của nạn đói, nhưng trong sâu
thẳm vẫn là người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó, khát khao mái ấm gia đình và có niềm
tin vào tương lai. Nhân vật góp phần làm toát lên giias trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đề 3
… “ Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ
sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình. ……..
…..Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi,
người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống
thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai chấp nhặt chi cái
lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr 28, 29)
Cảm nhận của anh / chị về vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích .Từ đó nhận xét
ngắn gọn về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân
* Nếu đề chỉ ra như đoạn trích trên thì bắt đầu thân bài từ đây
- Diễn biến: Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng
biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào.
Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ,
Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón
mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh Tràng đâu có thế.
Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra
đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: “Có việc gì thế
vậy? Anh Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.
Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi,
nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính
bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện “vợ nhặt”, mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên
đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tác phẩm đi theo 1 chiều hướng rất logic
của tâm lý nhân vật.
Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức không còn tin vào mắt, vào
tai mình nữa “Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý
không hiểu”. Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tủi cực,
ai oán, xót thương… Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua
lời xác nhận của con trai: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ…”
Con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng. Giọt nước mắt chỉ “rỉ”
ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc. “Kẽ mắt
kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn
tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: tình thương con thắt lòng. Bà hờn tủi cho mình, xót
thương cho các con vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ:“chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này.
Còn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con
trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ
cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy
tâm sự. Thán từ “Chao ôi” đứng đầu câu đã tạo nên một giọng điệu oán than, nó bắt trọn cảm xúc
chua xót của một người làm mẹ. Đời người mẹ có gì đau hơn khi nghe chuyện “trăm năm” của con
lại lẳng lặng “ cúi đầu” ? Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào, chua xót, đắng cay nén sau chữ “ thì “ đầy
vô vọng.Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà
thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con, còn bà thì có “dăm ba
mâm cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là
nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp.
(Nhà văn Nam Cao từng quan niệm “ Nước mắt là giọt châu của loài người”. Trong văn học,
nhiều nhà văn cũng dụng công khắc họa “giọt nước mắt” thành chi tiết nghệ thuật, giàu sức gợi và
để lại nhiều dư ba như “ giọt nước mắt lấp lánh” của A Phủ của Tô Hoài, “ giọt nước mắt trên
khuôn mặt chằng chịt rổ” của người đàn bà hàng chài ( Nguyễn Minh Châu) và ở tác phẩm này,
Kim Lân đã khắc họa chi tiết giọt nước mắt “ như một hạt bụi vàng làm nên tác phẩm lớn”. Đó là
giọt nước mắt đong đầy những xúc cảm, tình thương con bao la của tấm lòng người mẹ, khi mà lí trí
dù cố nén vào lòng, thì nỗi đau vẫn giằng xé và chực trào “ hóa châu lệ”. Trong cái kẽ mắt nứt nẻ
của thời gian sương gió, đã rỉ ra giọt nước mắt tình mẫu tử thiêng liêng, nhưng hiếm thấy ở tuổi già.
Và chắc phải đau đến cùng cực tâm can thì mới “ rỉ ra hai dòng nước mắt” ấy. Như Nguyễn Khuyến
từng viết:
“Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.”)
Bà xót thương cho các con. Thứ nhất là xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu
rằng con trai bà không được bình thường, không được may mắn như con nhà người. Nghĩ thế nhưng
bà không hề rẻ rúng coi thường cô con dâu mà ngược lại tấm lòng người mẹ ấy trào dâng những
tình cảm dành cho người con gái cùng đường lỡ bước:“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ…”. Trong suy nghĩ đầy nhân văn
ấy, người mẹ đã đồng cảm với cô con dâu bị nạn đói đẩy cho tới đường cùng buộc phải liều thân
theo một anh chàng xấu xí về làm vợ. Cũng trong suy nghĩ ấy bà cũng thầm cảm ơn cô con dâu vì
nhờ thị mà con trai bà mới có được vợ. Tình thương người đàn bà vợ nhặt ấy còn được thể hiện
trong hành động vồn vã, ân cần, cử chỉ quan tâm “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”, trong suy nghĩ nhân hậu: “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu
là con trong nhà rồi”.Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ:“Ừ! thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải
là “vui lòng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là
vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ
cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm
tay.
Không chỉ là người mẹ thương con hết mực, bà cụ Tứ còn là người mẹ của truyền
thống, đạo lý tốt đẹp. Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng.
Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Bà nghĩ đến khi “ông
giời bắt chết” bởi cái đói đâu chừa một ai?, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài
nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không? Bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của
bà: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt”, ông lão, cô con gái út - chính
những người thân yêu của bà cũng bị nạn đói cướp mất. Cái đói năm ấy đã đặt con người vào hoàn
cảnh khốn cùng khi sự sống mong manh như ngọn đèn trước gió, “người chết như ngả rạ”. Trước
mắt bà là bóng tối, dòng sông có sáng trắng nhưng cũng đành “ uốn khúc trong cánh đồng tối”.
Kim Lân ba lần tả bà cụ Tứ khóc và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà:“Biết rằng chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng
lo cho con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?”. Lần
thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng
trên khuôn mặt già nua khắc khổ: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa: “Giời đất này
không biết có sống qua được không các con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi
chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết
bao.
Nhưng bà đã gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi
vợ chồng son. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc
quan. Là người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm.
Khổ đau, đói rét không quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ tin rằng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta
thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho
khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai
con “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô
giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp
biết nhường nào!
Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui
hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khuôn mặt bà cụ Tứ có sự thay đổi
từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc của toàn bộ
câu truyện. Cái khuôn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì hôm nay “rạng rỡ” bấy
nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những dòng cuối.
Bà đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi
lòng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn cả “chè
khoán” bằng cám nhưng bà cụ vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão
nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà còn mở ra một viễn cảnh tươi sáng
qua câu chuyện đàn gà: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem…”. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao
điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi – sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết.
Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà.
Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ
đến con đường sống”. Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lông mọc còn
chồi nảy cây”.
Đánh giá nghệ thuật
Tác phẩm thành công bởi tình huống truyện độc đáo; nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc,
đối thoại sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ
lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo…. tạo ấn tượng sâu sắc nơi
người đọc về một người mẹ nghèo mà bao dung, nhân hậu, có tinh thần lạc quan, khỏe khoắn. Ngòi
bút đôn hậu của Kim Lân đã khám phá những hạt ngọc quý sâu thẳm trong tâm hồn con người: dù
đói rách thảm thương nhưng vẫn bao dung, nhân hậu, nghĩa tình. Ẩn sau những trang văn thấm đẫm
tình người, là ân tình người cầm bút.
3. Nhận xét về tinh thần nhân đạo được tác giả gởi qua nhân vật bà cụ Tứ
Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số
phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát
hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người,
người mẹ (bà cụ Tứ) dành cho con (Tràng và thị) trong nạn đói, dù nghèo đói và khổ cực đến đâu,
ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia
đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ. Đồng thời , tố cáo tội
ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật là nguyên nhân chính gây ra nạn đói khủng khiếp.
Kết bài
Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành
cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu
cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn,
hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền
được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của
cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy
làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ
nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của 1 truyện ngắn “hiện thực – nhân bản”.