You are on page 1of 24

Đề 1: “Lúc bấy giờ trời đầy mù từ biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa ...

nếu cái anh bạn đồng


ngữ không cổ níu giữ ở chơi thêm vài bữa”. Cảm nhận của anh chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận
xét tài năng của nhà văn trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.
Bài làm
Như Fyodor Dostoyevsky từng nói “Cái đẹp cứu chuộc thế giới" - đề cập đến chức năng quan trọng
của cái đẹp với con người. “Cứu chuộc” có thể hiểu là sự cứu rỗi tâm hồn con người khỏi cái xấu xa, độc
ác; hướng con người đến cái cao thượng tốt đẹp; hoặc cũng có thể hiểu là giúp con người vượt thoát khỏi
nghịch cảnh để khẳng định những giá trị cao đẹp của tâm hồn. Đồng quan điểm này,Nguyễn Minh Châu-
“người mở đường tài năng và tinh anh” của văn học Việt Nam hiện đại - đã khẳng định điều đó qua tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” . Đặc biệt, đoạn trích “Lúc bấy giờ trời đầy mù từ biển bay vào. Lại lác đác
mấy hạt mưa ... nếu cái anh bạn đồng ngữ không cổ níu giữ ở chơi thêm vài bữa” là phát hiện của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng về cảnh đất trời cho . Từ đó, ta thấy được tài năng của nhà văn trong việc sử dụng ngôn
từ nghệ thuật.
Chiếc thuyền ngoài xa thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện
“Bến quê” (1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những
sáng tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thể sự - đời tự thể hiện
mối quan hoài thường trực của nhà văn “những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời”.
Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng chọn đi săn ảnh để bổ sung vào bộ lịch thuyền
và biển năm ấy. Điều này cho thấy, Phùng là người có năng lực, được sự tin tưởng của trưởng phòng, cẩn
thận, có lương tâm, có trách nhiệm, không hề dễ dãi với nghệ thuật. Lựa chọn Phùng là thể hiện “con mắt
xanh” để “chọn mặt gửi vàng”.Anh đã đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến
đấu để thăm lại chiến trường xưa và người bạn ở đó giờ đã là chánh án tòa án huyện.
Khi đến đây kiên nhẫn chờ đợi phục kích (săn ảnh) “Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng
quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh”. Phùng đã
hành động bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm của một người nghệ sĩ, bởi có lẽ Phùng thấu hiểu “Cẩu thả
trong bất cứ nghề gì là bất lương”, Phùng không muốn phụ lòng của trưởng phòng bởi đối với những người
có lương tâm, có lòng tự trọng phụ lòng người khác thì sẽ day dứt, ân hận suốt đời, đặc biệt đó là tấm lòng
của một con người có “đôi mắt xanh” đối với mình. Chi tiết này, còn cho thấy, Phùng là người rất cầu toàn,
kiên trì nhẫn nại để có thể chụp tấm ảnh đúng như ý mình. Quả thực, trời đã không phụ lòng người. Giây
phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm
mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần đó là "cảnh đắt trời cho":
“trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe
vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới, y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiển đứng trước nó tôi
trở nên bối rối. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh cùng với phương thức miêu tả và biểu cảm vẽ ra trước
mắt người đọc một khung cảnh tuyệt mĩ nên thơ của cảnh biển bình minh. Cảnh đẹp ấy cũng giống như
khát vọng của Vũ Như Tô trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng. Cửu Trùng Đài - một
công trình nghệ thuật thế kỷ, một khát vọng chính đáng của Vũ Như Tô, còn trong “Chiếc thuyền ngoài xa”
đây chính là cảnh sắc tuyệt diệu mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, không phải ai cũng có diễm
phúc để chiếm cảnh đẹp tuyệt vời này. Nó chỉ ban tặng cho những người có tâm, có tầm, có đủ sự kiên trì,
bền bỉ cùng đôi mắt tinh tường. Hay nói cách khác khoảnh khắc này sinh ra để dành tặng cho những người
nghệ sĩ chân chính. Phùng là người có khả năng quan sát tinh tế, miêu tả sắc sảo, ngôn ngữ giàu sức tạo
hình, cùng với trái tim rất nhạy bén với cái đẹp. Qua quan sát và miêu tả của Phùng, cảnh đất trời cho đã
hiện lên trước mắt người đọc chân thực, sống động như một bức tranh 3D sắc nét đến từng chi tiết. Ta thấy
được tài năng của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên.
Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên “bối rối, trong
tim như có cái gì bóp thắt vào”. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?
Trong phút giây bối rối, tôi thưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân li của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngân của tâm hồn. Phùng đã có rung động rất mãnh liệt và sâu sắc. Đó là niềm
rung động của một trái tim nghệ sĩ, rất nhạy cảm với cái đẹp. Trong tâm thức của Phùng, đây là cái đẹp của
nghệ thuật, cái đẹp của đạo đức. Nó có khả năng thanh lọc tâm hồn rất mạnh mẽ. Trước cảnh đẹp hiếm có
đó, Phùng đã “bấm máy liên thanh hết một phần tự cuốn phim”, anh đã tranh thủ thời gian để ghi lại những
gì đẹp nhất có thể. Đối với một người cầm máy, Phùng hiểu rằng khoảnh khắc hiếm hoi này không phải lúc
nào cũng xuất hiện, không phải người nghệ sĩ nào cũng có diễm phúc được trời ưu ái ban cho một “cảnh
đắt” như thế này. Đứng trước cảnh đẹp tuyệt vời như vậy, có ai lại không muốn lưu giữ nó, như ao ước kì
lạ của nhà thơ Xuân Diệu khi nhà thơ thốt lên:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Khi đã thu được cảnh đắt vào lòng, vào máy cũng là lúc tâm hồn ngập tràn niềm hạnh phúc “do cái
đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Câu văn ghi lại tâm trạng cảm xúc của Phùng rất chân thật, giàu
sức gợi. Chính điều này đã gợi lên rất nhiều liên tưởng sâu xa trong lòng bạn đọc, để mỗi người chợt nhận
ra rằng: Thiên chức của người nghệ sĩ là phải phát hiện cái đẹp. Niềm vui, niềm hạnh phúc của người nghệ
sĩ chân chính là được khám phá, phát hiện và chiêm ngưỡng cái đẹp. Cuộc đời của con người là hành trình
hướng tới cái đẹp. Nhà văn Thạch Lam khẳng định: “văn chương là thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và
phong phú hon".
Cảnh chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh có thực, nhưng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho nghệ thuật.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã rất thành công khi miêu tả cảnh đắt trời cho bằng thứ ngôn ngữ giàu chất
tạo hình nên đã vẽ lên một bức tranh cảnh biển buổi sáng có sương mù tuyệt đẹp đúng như những gì mà
thiên nhiên đã ban tặng cho con người. “Câu chữ của Nguyễn Minh Châu như muốn ganh đua cùng vẻ đẹp
của tạo hóa, biết khoe vẻ đẹp của đường nét, ánh sáng. sắc màu của thiên nhiên." (Bùi Minh Đức).
(Sáng tạo “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, , vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong
cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình” (Nam Cao). Từ điểm
nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cảnh đắt trời cho, ta thấy rằng, việc khám phá vẻ đẹp của cuộc sống
không hề đơn giản nếu như không có tâm và tầm. Chính vì thế, để tạo nên những trang viết có sức lay động
tâm hồn con người cần lắm sự tìm tòi, sáng tạo, khơi được những nguồn nước trong lành tưới tắm những
tâm hồn chai sạn trước sương gió cuộc đời.)
Đoạn văn cho thấy được con mặt tinh tường của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong việc miêu tả
cảnh vật. Ông đã nắm bắt được thần thái của cảnh vật để miêu tả rất sống động, sắc nét tạo nên một bức
tranh đẹp. Đoạn văn là một trang viết đẹp thể hiện tình yêu thiên nhiên say đắm của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu bên sâu tâm hồn con người Việt Nam. | Tình
huống truyện độc đáo khi tác giả đã tạo ra một tình huống nhận thức mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
cuộc sống. Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất là nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng nên điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật Phùng, người nghệ sĩ có con mắt
tinh tường. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo với những rung động rất chân thành, mãnh
liệt của người nghệ sĩ chân chính, có lương tâm nghề nghiệp => tạo nên đoạn văn đẹp viết về thuyền và
biển.
Ngôn từ nghệ thuật là chất liệu chính của để nhà văn xây dựng lên tác phẩm văn học, đi sâu khám
phá đời sống rộng lớn và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa nhân văn. Ngôn từ nghệ thuật là biểu hiện sống
động sự sáng tạo của nhà văn khi lựa chọn, sắp xếp những từ ngữ trong đời sống hằng ngày để tạo nên
những thứ vân chữ mang dấu ấn cá nhân. Ngôn từ nghệ thuật trong đoạn văn được nhà văn Nguyễn Minh
Châu sử dụng rất giàu hình ảnh, giàu màu sắc và đường nét. Những hình ảnh so sánh “như bức tranh mực
tàu của một danh họa thời cổ” “như sữa có pha chút màu hồng hồng” “im phăng phắc như tượng” ta mới
thấy được đó là thứ ngôn ngữ của trí tưởng tượng bay bổng, của sự quan sát và cảm nhận rất tinh tế. Chính
ngôn từ nghệ thuật này, đã tạo nên trang viết giàu chất thơ. Cái đẹp của ngôn ngữ đã bắt được cái thần ngoại
cảnh để người đọc phải công nhận là “cảnh đất trời cho”. Sức hấp dẫn của đoạn văn đến từ thứ ngôn ngữ
đẹp như thêu hoa dệt gấm.
Tóm lại, đoạn văn đã thể hiện rất sống động những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trước
khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời sau bức
ảnh, Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra bao vấn đề có ý nghĩa triết lí và nhân sinh sâu sắc. Từ đây, ta nhận ra
rằng, việc nhìn ra cái đẹp của sự vật, của con người là điều rất cần thiết. Cái nhìn ấy sẽ đủ sức để cứu vớt
bao mảnh đời bất hạnh, đau khổ.

Đề 2: “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ ... hai bàn chân để lại những vết chân to và sâu
trên bãi cát hoang vắng.”
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống
nhận thức trong tác phẩm.
Bài làm
Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tài năng và tinh anh” (Nguyễn Ngọc) của văn học Việt
Nam hiện đại.| Ông quan niệm: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc
cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường (...) để bênh vực
cho những con người không còn có ai để bênh vực”. Tác phẩm nghệ thuật thể hiện cách nhìn của nhà văn
về cuộc sống, sự khao khát công lý xã hội: nó là lời tâm sự, sám hối, là tiếng nói của tình yêu cái đẹp không
đạt được, là gánh nặng ưu tư về lẽ đời, lẽ còn mất của nhân sinh và vũ trụ. Hiện thực cuộc sống với tất cả
những phức tạp, đa diện ấy được Nguyễn Minh Châu phát hiện và thể hiện đầy tinh tế trong truyện ngắn
"Chiếc thuyền ngoài xa". Đặc biệt, đoạn trích miêu tả phát hiện thứ hai của nghệ sĩ Phùng “Từ chỗ chiếc
xe tăng mà tôi đang đứng ... hai bàn chân để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng” bộc lộ
những niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh. Từ
đó, ta thấy được tình huống nhận thức rất độc đáo của tác phẩm.
| Chiếc thuyền ngoài xa thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện
“Bến quê”(1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng
tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thể sự - đời tư thế hiện mối
quan hoài thường trực của nhà văn “những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống". Sự thật
nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh từ lâu
trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo bạn mai trong không gian xa rộng của biển cả.
“Tác phẩm chứa đựng cái ý nghĩa rộng lớn, sâu xa: nó khiến người ta giật mình nếu quen nghĩ rằng cuộc
đời đã hết đau thương, nó khơi gợi người cầm bút nên nhìn kĩ vào những gì ẩn sau vẻ đẹp điền viên bề
ngoài để nhớ tới trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người”. (Lã Nguyên)
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung - nơi
anh đã từng chiến đấu để chụp một tấm ảnh thuyền biển, bổ sung cho cuốn lịch năm mới. Sau nhiều ngày
“phục kích”, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương.
Nhưng khi chiếc thuyền vào gần bờ, anh kinh ngạc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
| Trong đoạn trích, nhà văn đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hện về nghệ thuật và đời sống
qua hiện thực nghiệt ngã của gia đình hàng chài . Sau khi chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ vào đến bờ
thì bước xuống từ đó không phải là những con người toàn thiện như cổ tích mà đó là người đàn bà vùng
biển trạc ngoài 40 tuổi, với thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ do di chứng của bệnh
đậu mùa, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt sau những đêm mất ngủ vì đánh lưới, tấm lưng áo bạc phếch , rách
rưới, nửa thân dưới ướt sũng vì lội nước…Tác giả không đặt tên cụ thể mà gọi nhân vật một cách phiếm
định – người đàn bà hàng chài, mụ, bà ta. Cũng giống nhân vật “thị” trong “Vợ nhặt” (Kim Lân), Nguyễn
Minh Châu muốn khắc họa thân phận điển hình của những người phụ nữ lao động nghèo vùng biển, dường
như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy, sự lam lũ của
người đàn bà khiến ta nhớ đến hình ảnh bà Tú trong bài thơ thương vợ của Tú Xương:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi, cam chịu “ người đàn
bà đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân . Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: "có tấm lưng rộng", đi chân chữ bát khuôn mặt
"độc, dữ". Hiện thân của sự lam lũ, nghèo đói, vất vả trước cuộc sống mưu sinh . Chỉ bằng vài nét vẽ, người
đàn ông được khắc họa như là hiện thân của gánh nặng cuộc đời đã kéo cong tấm lưng. Nam Cao đã viết
trong tác phẩm Sống mòn "Sự thật ở bên ngoài to lớn quá, mạnh mẽ quá, ăn hiếp hẳn cuộc đời tưởng
tượng, hiện hình bằng giấy trắng mực đen...".
Bạo lực gia đình diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn. Hình ảnh chiếc xe tăng hỏng tượng trưng
cho chiến tranh đã kết thúc, đã đi qua con người cứ nghĩ sẽ được sống trong hạnh phúc, sung sướng. Nhưng
không, chiến tranh đã đi qua nhưng con người ta phải bước vào cuộc chiến đấu mới: chiến đấu chống lại
đói nghèo, chống lại bạo lực gia đình, đây là cuộc chiến rất cam go, ác liệt. Lão đàn ông “lập tức hùng hồ,
mặt đỏ gay, lão rút trong người chiếc lưng của lính ngụy ngày xưa; chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận
như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm nghiến răng ken két, giọng điệu rên rỉ, đau đớn: Mày chết hết đi cho ông nhờ, chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ” Cách đánh thật man rợ. Cường độ và tốc độ đánh đạt đến đỉnh điểm” của sự giận dữ,
căm thù và đau đớn. Diễn tả điều này, “Nguyễn Minh Châu đã trút bỏ hết trang sức của ngôn từ”(Bùi Minh
Đức) để thay vào đó là những từ ngữ cực tả “như lửa cháy” “quật tới tấp” “thở hồng hộc” “nghiến răng ken
két” mới diễn tả được đầy đủ, chính xác cảnh tượng kinh hoàng này. Chồng đánh vợ bằng tất cả sự căm
thù, tức giận, bằng tất cả sức mạnh của cơ bắp và tinh thần, đánh thậm tệ, dã man như đánh kẻ thù số một.
Mặc dù vậy người đàn bà không chống trả, không van xin, không chạy trốn. Khi Thúy Kiều bị Tú Bà tra
tấn đã phải thốt lên trong đau đớn:
“Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau”.
Người đàn bà cũng vậy, mụ đâu phải là mình đồng da sắt, là con người bình thường ai mà không đau được
chứ! Thế mà mụ lặng câm chấp nhận đòn roi của chồng như người đi biển chấp nhận sóng gió vì con. Quả
thực, những điều diễn ra là sự tận cùng bạo lực gia đình. Trước cảnh tượng đó, Phùng sau vài phút “ há
mồm ra nhìn” , anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” . Nhưng cũng chưa kịp làm gì thì lại
chứng kiến cảnh tượng đau lòng hơn “Bỗng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra
thằng Phác... thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ, căng thẳng làm nó chạy qua không nhìn thấy tôi”.
Phản ứng của thằng Phác là lao vào “giằng được chiếc chắt lưng. liền dướn thắng người, vung khóa quật”
vào bố nó. Như vậy thằng bé cũng đã dùng hết sức có thể cùng với sự giận dữ, căm thù, căm giận để đánh
bố nó. Vì tình thương mẹ mà Phác đã đánh bố, đã phạm phải tội lớn nhất của đời người, tội bất hiếu khó
tha thứ. Phác đã vi phạm đạo đức nghiêm trọng của con người. Có thể nói, việc bảo vệ mẹ khỏi đòn roi là
một động cơ tốt đẹp, trong sáng đáng trân trọng nhưng Phác lại có những hành động sai lầm. Đáng thương
hay đáng trách đây? Người đàn ông vũ phu “định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền
dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người xưa nói “hổ
dữ không ăn thịt con”. Đây chưa đến nỗi là hành động của hổ dữ, nhưng cách đánh của lão đàn ông cũng
thật đáng trách biết bao. Quả thực, những điều diễn ra là sự tận cùng bạo lực gia đình. Mối quan hệ gia
đình, quan hệ huyết thống vốn là một mối quan hệ rất thiêng liêng, cao đẹp nhưng giờ đây đã bị phá vỡ bởi
những hành động bạo lực chồng chất, dã man. Con người thật tội nghiệp, nhỏ bé trước cuộc sống mưu
sinh, trước cảnh sống nghèo đói.
( Văn học trước Cách mạng tháng Tám - 1945 đã miêu tả vấn đề cơm áo gạo tiền đã khiến những
người trí thức bị “ghì sát đất,” để sống đời thừa như những thanh sắt bị hoen ghỉ ra giữa cuộc đời, để họ cứ
chết dần, chết mòn, chết khi đang còn sống. Đó là thực trạng đau xót được nhà văn Nam Cao phản ánh chân
thực trong những trang viết của ông về đề tài người trí thức. Cũng vì cái đói, Lão Hạc trong truyện ngắn
cùng tên của Nam Cao phải ăn bả chó để bảo toàn mảnh đất thiêng cho người con trai. Đó là những con
người sống trong chế độ cũ, xã hội nửa thực dân phong kiến phi nhân đạo. Đau đớn thay, nỗi đaudân phong
kiến phi nhân đạo. Đau đớn thay, nỗi đau về cơm áo gạo tiền còn kéo dài sang tận chế độ mới, khi hòa bình
đã lập lại, đất nước đã thống nhất nhưng cái đói vẫn là mối đe dọa đến cuộc đời của nhiều người dân trong
những năm 80 của thế kỷ XX. Cái nghèo đói đang mang đến nguy cơ phá hủy những mối quan hệ vốn
thiêng liêng và tưởng chừng rất bền chặt. Đặt ra vấn đề này, Nguyễn Minh Châu đã làm thay đổi bao mắt
nhìn, óc nghĩ của mọi người về cuộc đời, về thân phận của con người bằng tất cả tấm lòng nhân đạo sâu
sắc, thấm thía và cảm động. Như vậy, chiếc thuyền vào gần bờ đã có kết quả hoàn toàn trái ngược với vẻ
đẹp của sự toàn bích, toàn thiện; giờ đây là sự hiện thân của cái xấu, cái ác, cái phi đạo đức. Hình ảnh chiếc
thuyền ở gần là hiện thân của cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn với đói nghèo và bạo lực. Tấm ảnh về chiếc
thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp.
Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ
xuống lấp đầy những nốt rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư
phủ của con thuyền.)
Nghệ sĩ Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã
là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo
nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa. Phùng kinh ngạc đứng há hốc mồm, vứt máy ảnh
định nhảy vào can thiệp. Thiên chức của người nghệ sĩ không chỉ khám phá, rung động trước cái đẹp mà
phải đứng lên chống lại cái ác, cái xấu xa. Khát vọng giải phóng người đàn bà khỏi đòn roi luôn tồn tại
trong lòng Phùng.Chính việc chứng kiến cảnh bạo lực gia đình đã làm thay đổi quan điểm, cách nhìn cuộc
đời của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời. Đây cũng là một tình huống mới để câu chuyện phát triển sang
một hướng khác.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều
nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây
nhà văn khẳng định, cùng một chiếc thuyền nhưng ở hai thời điểm, hai khoảng cách lại cho kết quả hoàn
toàn trái ngược nhau. Cuộc đời luôn chứa đựng nghịch lí oái oăm. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối
lập, những mâu thuẫn giữa đẹp - xấu, ác – thiện. Đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình
thức và nội dung không phải bao giờ cũng trùng khít nhau. Đừng vội đánh giá con người, sự vật qua hình
thức bên ngoài. Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng dõng dạc cần phải bước vào cuộc chiến chống lại cái ác,
bạo tàn, xấu xa.
Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất là nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng nên điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Xây dựng đối thoại sinh động
hấp dẫn. Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thể góp phần khắc sâu chủ đề - tư tưởng cho
tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo tạo nên một tác phẩm rất đặc sắc giàu sức
ám ảnh.
Qua 2 phát hiện,Tác giả đã tạo ra một tình huống nhận thức độc đáo.Đó là tình huống nhân vật
Phùng đang trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh
vợ một cách vô lí, dã man. Từ đây, nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những
thay đổi: từ chỗ khám phá cái đẹp của bức tranh thiên nhiên qua cảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh đã phát
hiện ra những nghịch lí của cuộc đời, để rồi cuối cùng nhận thức được nhiều điều: nghịch lí giữa cái đẹp
của nghệ thuật với sự trần trụi, bị đát của cuộc sống hiện thực, nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng
vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ. Với
tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan
hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thuật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa
trong màn sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất gần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách
khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân
thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Kết bài : Tóm lại, đoạn văn đã thể hiện rất chân thành, sâu sắc những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng, từ đó, tác phẩm đặt ra bao vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Từ câu chuyện về một bức ảnh
nghệ thuật và sự thật cuộc đời sau bức ảnh, Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra bao vấn đề có ý nghĩa triết lí
và nhân sinh sâu sắc. Từ đây ta nhận ra một điều: chuyện cách nhìn đời, nhìn người như thế nào chưa bao
giờ là đơn giản dễ dàng. Phải chăng chỉ có tấm lòng nhân ái, trái tim mang mối quan hoài thường trực về
số phận con người mới giúp con người có cái nhìn sâu sắc, đúng đắn hơn? Cuộc đời cần lắm những ánh
mắt, những điểm nhìn như vậy.

Đề 3: “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình... - Có chứ, chú !
Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...” . Phân tích nhân vật người đàn bà hàng
chài trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong cách tự sư triết lí của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Bài làm
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Người phụ nữ từ xa xưa đến nay luôn khơi nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thi sĩ, nhạc sĩ, bởi
lẽ, mỗi người phụ nữ luôn là một tác phẩm đẹp là tạo hóa ban tặng cho thế giới này. Xuất hiện trong thơ
văn, phần lớn hình ảnh người phụ nữ luôn đẹp, không cách này thì cách khác, họ luôn được miêu tả vẻ đẹp
từ hình thức cho đến tâm hồn. Là một người có trái tim đa cảm, Nguyễn Minh Châu - “người mở đường
tài năng và tinh anh” của văn học Việt Nam hiện đại - đã chắp bút viết ra tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
bằng tình huống truyện độc đáo. Trong đó, hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người
nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới , đặc biệt là trong đoạn “Người
đàn bà bỗng chép miệng. con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình...-Có chứ chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Từ đó, ta thấy về phong cách tự sự triết lí của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Chiếc thuyền ngoài xa thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện
“Bến quê”(1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng
tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thể sự - đời tư thế hiện mối
quan hoài thường trực của nhà văn “những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống".
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, người đọc hầu như không hề được biết đến tên gọi của người đàn
bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài,
lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Ngoại hình trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như
đang buồn ngủ. Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nhưng người đàn bà ấy vẫn không chịu “chia tay" với gã chồng vũ phu
tàn bạo. Chánh án Đầu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện, khuyên giải nên bỏ chồng nhưng người đàn
bà nhất định từ chối. trong chính tòa án huyện khi chị kể về cuộc đời của mình.
Trong sự cảm thông chân thành của Phùng và Đầu, cuối cùng chị kể cho Phùng và Đầu nghe câu
chuyện cuộc đời mình: Hồi nhỏ chị sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng xấu lại bị lên đậu mùa nên
mặt rỗ, lớn lên không có ai lấy, chị đã có mang với anh chàng chài hay đến mua bả về đan lưới. Chồng chị
là người hiền và cục tính không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì sinh nhiều con , sống trên chiếc thuyền
chật chội, gánh nặng kinh tế dồn lên người chồng ,biến lão thành một người vũ phu. Từ đó, cứ mỗi lần bế
tắc, lão chồng lại đánh vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Thế nhưng chị vẫn không hề
chống trả, van xin hay tìm cách chạy trốn. Khi các con lớn, chị xin lão chồng được lên bờ đánh như là một
đặc ân. Đau xót thay, khi chị kể về hoàn cảnh của gia đình trong những ngày vụ Bắc khi phong ba biến
động, cả gia đình hàng tháng trời ăn xương rồng luộc chấm muối. Chao ôi, chiến tranh đã đi qua, niềm vui
hân hoan ngập tràn khi đất nước được giải phóng
“Cả đất trời rực rỡ sắc cờ hoa
Mừng đất nước trong bài ca chiến thắng”
Cứ tưởng rằng con người ta sẽ bước sang một trang đời mới hạnh phúc ấm no. Thế mà vẫn có những
con người phải ăn xương rồng luộc chấm muối ngay trong thời bình, thời đại mới. Xót xa biết bao khi Lão
Hạc phải ăn quả sung, củ chuối để qua ngày đoạn tháng vì chế độ cũ tàn bạo dã man khi thực dân Pháp và
phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, thì nay trong thời bình vẫn có phận đời cơ cực , phải ăn
xương rồng chấm muối hàng tháng như thế.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy, cùng với cuộc sống lam lũ , nghèo khó, thất học sẽ chẳng
biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn
bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi đến tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy
nhưng chị đã xin quan tòa rằng " quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó". Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn,
người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm
tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Ta thử tính xem, nếu chị nuôi
con 100% thì một mình không thể chèo chống khi phong ba biển động; nếu để chồng nuôi thì vất vả sẽ tăng
thêm, áp lực sẽ dồn lên đầu ông chồng, lúc này mọi đau khổ, uất ức lại trút lên đầu những đứa con thơ tội
nghiệp; còn nếu 50% số con ở với mẹ và 50% ở với bố thì gia đình đã bị tan đàn xẻ ghé. Rõ ràng, các
phương án đều không thể nào trọn vẹn đôi đường. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người,
khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một
người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ
phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghĩ, họ
không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn. Nhất là cuộc sống lênh đênh trên bốn bể
là nước, họ phải chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày nhiều hơn phụ nữ trên
đất liền. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ
nữ. Qua câu chuyện, người đọc thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài được hiện ra. Người
đàn bà hàng chài chấp nhận đòn roi của chồng như người đi biển chấp nhận sóng gió là vì các con cho thấy
đức hi sinh cao cả của một người mẹ:
“Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”.
Vì thương con nên chị muốn các con được lớn lên trong không khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên
chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố
của mình. Chị thấu hiểu rằng đòn roi của chồng sẽ làm tan nát trái tim non nớt của các con; làm tổn thương
tinh thần nên chị đã xin lão chồng được lên bờ đánh như một đặc ân. Bởi thế , khi thằng Phác “như một
viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” , chị đã “ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không
muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng
với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó. Niềm vui của chị thật giản đơn
khi "vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no". Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh
để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh
cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Chị hiểu thế nào là gia đình, hiểu
thiên chức của người phụ nữ, nỗi khổ của người chồng, chị đã có phương án lựa chọn tối ưu nhất. Trên tòa
án huyện, người đàn bà không hé răng nói xấu chồng dù chỉ nửa lời mà ngược lại chị nhận hết lỗi về mình
“lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá". Qua đó, chị hiện lên với vẻ đẹp của sự bao dung, vị tha,
cao thượng đáng trân trọng. Nếu như Phùng, Đẩu, Phác nhìn lão chồng vũ phu bằng thái độ lên án, hằn học
thì người đàn bà lại nhìn bằng thái độ cảm thông “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” vì gánh nặng mưu sinh mà anh trở nên vũ phu, người đàn ông
chính là nạn nhân của hoàn cảnh sống, cho ta thấy người đàn bà đã có cái nhìn đa chiều, đa diện.
Nhân vật người đàn bà hàng chài đã góp tạo nên trị nhân đạo sâu sắc khi nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt vẻ đẹp khuất lấp. Vẻ đẹp của người đàn bà
chính là viên ngọc đẹp ẩn giấu trong sâu thẳm trong con người Việt Nam mà nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã cố công đi tìm đúng như ông quan niệm: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người”. Số phận và vẻ đẹp của người đàn bà được hiện lên từ câu chuyện ở tòa
án huyện khiến người ta vừa ngạc nhiên, xót xa, vừa trầm trồ, thán phục. Vẻ đẹp đó vẫn còn rất nhiều trong
cuộc đời nhưng đâu dễ gì tìm ra được nếu như thiếu sự cảm thông cùng cái nhìn đa chiều, đa diện.
Cái hay của đoạn văn là câu chuyện rất giản dị nhưng mặn chát vị đời lam lũ nhọc nhằn. Đối với
Phùng: nhờ câu chuyện này đã giúp Phùng nhận thức rõ hơn về các nhân vật và về chính cuộc đời mình.
Phùng nhận thấy cần tránh lối nhìn định kiến và phải có cái nhìn đa chiều, đa diện. Đây là vấn đề cực kì
cần thiết không chỉ đối với nghệ thuật mà còn đối với cuộc sống đương thời. Phát hiện và nhận thức của
Phùng về người đàn bà, về Đầu, về mình, anh bừng tỉnh trong nhận thức và suy nghĩ, một người nghệ sĩ
chân chính luôn mong muốn được hoàn thiện bản thân.
Bằng tình huống truyện độc đáo mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc sống, ngôn ngữ kể
chuyện rất sinh động, hấp dẫn, tác giả đã chọn ngôi kể thứ nhất, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là người kể
chuyện, nên điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể trở nên khách quan, chân thực và giàu tính thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật rất phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Xây dựng đối thoại sinh động
hấp dẫn. Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế góp phần khắc sâu chủ đề- tư tưởng cho tác
phẩm. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, sắc sảo, tạo nên một tác phẩm rất đặc sắc giàu sức ám
ảnh.
| Tư tưởng tác phẩm có liên quan chặt chẽ đến yếu tố triết luận. Bởi, tư tưởng bản thân nó đã mang
tính “thông thái, sáng suốt” lại được thể hiện một cách “thông thái” nghĩa là độc đáo, hấp dẫn. Như vậy, đề
cao tính tư tưởng của tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã chọn định hướng triết luận cho ngòi bút của mình.
Nguyễn Minh Châu đã dùng nhân quan triết học để soi chiếu, lí giải, nhận thức, phân tích hiện thực. Từ
những vấn đề rất cụ thể, rất gần gũi lại chứa đựng những thông điệp mang tầm khái quát rộng lớn, mà cốt
lõi là tinh thần nhân bản: Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là một con người
Mọi dòng sông đều đồ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những
vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm của văn học nghệ thuật.
Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới để đặt ra và
cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân
chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt tới tầm nhân bản. Muốn vậy “Nhà văn chân chính là
phải nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê - Khốp). Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi
được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người
đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân
đạo.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc
như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc
phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong
tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập,
đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn,
thui chột.
DÀN Ý THAM KHẢO
A. MỊ TRONG ĐÊM ĐÔNG CỨU A PHỦ
1. MỞ BÀI
-Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác
phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống
trị của thực dân phong kiến. Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc phần cuối trong phần 1 của truyện Vợ chồng A Phủ , kể về diễn
biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ.
II. THÂN BÀI
Giới thiệu sơ lược về Mị: một cô gái xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo. Vì món nợ truyền kiếp
của gia đình và sự tàn ác của bọn chúa đất miền núi Tây Bắc mà Mị trở thành nạn nhân của chế độ
cho vay nặng lãi. Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra. Trong đêm tình mùa xuân, nhờ tác
động bởi ngoại cảnh, men rượu, tiếng sáo, Mị có sức sống tiềm tàng, khao khát hạnh phúc, tình yêu;
nhưng bị A Sử dập tắt phũ phàng.
Giới thiệu sơ lược về A Phủ: một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lí Pá
Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.
Hai con người đau khổ không hẹn mà gặp nhau tại nhà thống lí Pá Tra trong đêm đông nơi núi
cao lạnh lẽo.
Diễn biến tâm trạng Mị
Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt đêm, đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp
lửa kia thì Mị đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu
lần. Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản
năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng.Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa,
điệp từ “chỉ” diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu
trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của
sức sống trong Mị.Tuy có lúc A Sử đi chơi đêm về, ngứa tay ngứa chân, “đánh Mị ngã ngay xuống
cửa bếp”, nhưng đêm sau Mị vẫn gan lì, lặng lẽ phản kháng, tiếp tục ra sưởi lửa như đêm trước. Bởi
lẽ ngọn lửa đã là người bạn, là cứu cánh của Mị .Từ “vẫn” tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền
bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống
dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.
Sau sự nổi loạn ở đêm tình mùa xuân không thành, Mị đã bị cường quyền, thần quyền nhà
thống lý Pá tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào trạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả trước đây. Điều
đó thể hiện trong cách Mị nhìn A Phủ bị trói đứng.Lúc đầu, Mị có trạng thái thản nhiên đáng sợ. Mị
trơ lì tê liệt đến mức vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi. Ba chữ “cũng thế thôi” tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác
thái độ lạnh lùng của nhân vật. Nghĩa là cô không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn
không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại.Đó là thái độ thản nhiên đáng sợ vì không có tình
đồng loại. Vì sao? Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết
không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Hai là, cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã
tạo cho Mị một sức ì, một quán tính cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều
đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên cô đã trở nên chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với
cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì “tảng đá”.
Nguyên nhân quan trọng nhất đã tác động đến tâm lý của Mị để từ sự chai sạn vô cảm đã
sống dậy những cảm xúc mãnh liệt, đã bừng dậy khát vọng tự do đó chính là dòng nước mắt của A
Phủ. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ đã tác động mạnh đến
tâm lý của Mị, đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị A Sử
trói đứng như vậy, nước mắt chảy xuống mà không thể lau đi được. Chính việc sống lại những kí ức
đó đã khiến Mị nhận thấy sự đồng cảm, đồng cảnh giữa mình và A Phủ, để từ lòng thương mình, cô
đã thương người và cuối cùng là hành động cứu người.Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật
nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị: Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết.
Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã
dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm
hồn người phụ nữ cùng khổ. Cùng với lòng thương người, Mị đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân
đạo của cha con nhà thống lý chúng nó thật độc ác. Từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn
đọa đày ở nhà thống lý đến chỗ cảm nhận được điều này là một bước tiến trong nhận thức và tình
cảm của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần
quyền và cường quyền nữa.
Khi ý thức dần trở lại , Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ. Vì tin là mình đã bị
ma nhà thống lý Pá Tra nhận mặt nên cô ý thức được sự ràng buộc của đời mình, chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi. Còn với A Phủ, Mị nhận rõ sự bất công Người kia việc gì mà phải chết
thế ? Ý thức rõ được hậu quả khi một ngày kia A Phủ trốn được rồi thì mình sẽ bị trói và chết bên
cái cọc ấy nhưng Mị không thấy sợ. Dù không nói ra một cách rõ ràng nhưng những suy nghĩ của
Mị đã cho thấy cô chấp nhận cái chết về phía mình để tìm cách cho A Phủ được sống. Đến đây có
thể thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mị quên đi sự sống của bản thân đế đổi lấy sự sống cho
người khác.Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha trong tâm hồn Mị.
Như vậy, từ lúc chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến
phức tạp. Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa cắt dây mây cởi trói
cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị
trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một
chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi,
còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của
Mị lúc này: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi
thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị
như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị
suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm
câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do
của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính
là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị
và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm
đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ
Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc
Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung.Tô Hoài đã rất cảm
thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Và bằng một trái tim nhạy cảm và
chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư
tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó.Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định
được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự
vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc
sống. .
Đoạn trích đã thể hiện khả năng miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, đi sâu khai thác diễn biến tâm
trạng của nhân vật, ngôn từ độc đáo, giàu ý nghĩa. Cách miêu tả rất cụ thể, thủ pháp tăng tiến; nhịp
văn thúc bách, nhanh, gấp, lời văn nửa trực tiếp…tất cả đã khắc họa thành công diễn biến tâm lí của
nhân vật Mị. Qua đó, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: bạo lực không thể đè bẹp, hủy diệt khát
vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Trong mọi cảnh ngộ, họ luôn luôn tìm cách vươn lên bằng
khát vọng tự do, hạnh phúc, bằng sức mạnh yêu thương và sự dẫn đường chỉ lối của cách mạng sau
này.
*Bình luận giá trị nhân đạo trong đoạn trích
- Khái niệm: Tư tưởng nhân đạo là giá trị cơ bản của các tác phẩm chân chính được tạo nên bởi
niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những nỗi đau của con người và cảnh đời bất hạnh
trong cuộc sống, đồng thời biểu dương ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người,
thấu hiểu được tâm tư tình cảm và giúp họ nói lên ước nguyện cũng như đấu tranh để giành được
ước nguyện ấy. Từ đó, bộc lộ sự căm phẫn các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người.
- Biểu hiện:
+ Tác giả thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao
động miền núi Tây Bắc trước Cách mạng;
+ Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi cao Tây Bắc;
+ Trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt của nhân dân Tây Bắc và đặc biệt
nhà văn tin vào khả năng cải tạo hoàn cảnh, khả năng cách mạng của họ.
- Đánh giá:
+ Tư tưởng nhân đạo góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Qua đó, nhà văn gửi gắm
tấm lòng yêu thương và niềm tin mãnh liệt vào con người.
+ Tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài vừa có sự kế thừa, tiếp thu tư tưởng nhân đạo trong văn
học Việt Nam những giai đoạn trước đồng thời vừa có sự mới mẻ, phù hợp với thời đại.
III. KẾT BÀI
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu
vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Màu sắc dân tộc đậm
đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát
sáng trong truyện ngắn này.“Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn
đọc , nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong
truyện ngắn “Đời thừa”. Tác phẩm xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội
nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955.

B. SỨC SỐNG CỦA MỊ TRONG ĐÊM MÙA XUÂN


I.Mở bài
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành
nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài.
Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp cùng sống,
cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm
hứng để viết truyện này. Tác phẩm thành công không chỉ do vốn sống, tình cảm của nhà văn mà
còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử
dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý
và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng
hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó
ta thấy được ………………
II.Thân bài
a.Giải thích:
– Sức sống tiềm tàng là sức sống tiềm ẩn bên trong, là khát vọng về một cuộc sống tự do, hạnh phúc
lúc nào cũng nhen nhóm bên trong con người, chỉ cần gặp thời cơ thuận lợi sẽ bùng lên mạnh mẽ.
b. Phân tích biểu hiện của sức sống tiềm tàng ở nhân vật Mị
b.1. Cảm nhận khát quát về nhân vật
Mị là một cô gái Hmông đẹp người đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, ham sống, giàu
lòng yêu đời và tài hoa… nhưng phải đổi cả cuộc đời và tuổi trẻ của mình vì món nợ truyền kiếp
của cha mẹ để lại. Mị bị A Sử cướp về làm vợ, phải sống chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm tối.
Từ một cô gái trẻ trung yêu đời, Mị đã bị biến thành công cụ lao động, ý thức tê liệt từ khi bị
bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Nhưng ở người con gái ấy vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh
mẽ. Ngọn lửa của lòng ham sống, muốn được sống tự do, hạnh phúc; muốn được yêu thương vẫn cứ
như thỏi than hồng bị giấu vùi dưới đống tro tàn, khi có ngoại cảnh tác động, nó sẽ nhen lên, để rồi
bùng cháy mạnh mẽ. Tô Hoài đã phát hiện và miêu tả sự hồi sinh ấy bằng những trang viết thấm
đẫm tình người.
b.2. Nguyên nhân của sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng
Để chuẩn bị cho việc trỗi dậy sức sống của Mị, Tô Hoài đã miêu tả những yếu tố ngoại cảnh
tác động đến tâm hồn cô. Tác nhân đầu tiên chính là vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân, cái thời tiết rét
lạnh cuối đông đầu xuân do “Hồng Ngài năm ấy ăn tết sớm” nên Gió và rét rất dữ dội, nhưng vẫn
đậm chất thơ qua hình ảnh “ cỏ gianh vàng ửng”. Dường như sắc xuân đến đã làm cho đất trời, lòng
người rộn ràng, náo nức những lễ hội. “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra
phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ” . Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh
quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy. Những đêm mùa xuân của vùng cao Tây Bắc là những đêm tình
của trai gái hẹn hò.Tây Bắc vào xuân qua lời văn của Tô Hoài đậm sắc màu dáng hình của xứ sở
với đầy đủ âm thanh, ánh sáng khiến lòng người xốn xang. Và không khí mùa xuân về trên rẻo cao
cũng đã khiến lòng Mị xốn xang những cảm xúc.
Tác nhân tiếp theo là âm thanh tiếng sáo. Tiếng sáo là bài ca về hạnh phúc, là biểu tượng về
tình yêu đôi lứa.Tiếng sáo gợi nhắc một thời vàng son của Mị: “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi” ,“Có
biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Âm thanh tha thiết của tiếng sáo đã tác
động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị, khơi dậy những kỉ niệm về tuổi thanh xuân bấy lâu bị vùi lấp trong
cuộc sống làm dâu gạt nợ đầy cơ cực cay đắng. Tiếng sáo như ngọn gió len lỏi vào sâu thẳm trong
tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc lứa đôi, thổi bùng lên đốm lửa sống tưởng chừng đã
nguội tắt trong Mị.Sự thức tỉnh về mặt ý thức đã dẫn đến những hành động gần như tất yếu của Mị.
b.3. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân
Khi nghe tiếng sáo đầu núi vọng lại, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Một cô
Mị bao ngày câm lặng lầm lũi giờ bỗng cất tiếng hát, dù đó chỉ là những tiếng nhẩm thầm, thì vẫn là
một tín hiệu về sự đổi thay. Và đặc biệt nhất là lời bài hát đi tìm người yêu lại cất từ một người đàn
bà đã có chồng, chứng tỏ cuộc hôn nhân của Mị không hạnh phúc và người đàn bà này chưa bao giờ
nguôi quên mong ước tìm kiếm cho mình một tình yêu đích thực. Rồi Mị uống rượu. Mị “lén lấy
hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái cách Mị uống rượu được nhà văn đặc tả đầy ấn tượng. Không
phải là uống để thưởng thức mà là uống như để quên đi phần đời cay đắng vừa qua, uống để nén
bao nhiêu tủi cực vào lòng. Chén rượu xuân đã đánh thức sức mạnh trong con người Mị, giúp cô
can đảm thoát ra thực trạng bị trói buộc, cầm tù về thể xác lẫn tinh thần. Lòng cô đang sống lại
những ngày trước.Lúc này, tâm hồn Mị như thăng hoa trong ngập tràn cảm xúc. Từ trong chết mòn,
chai lì vô cảm, Mị bỗng thấy “phơi phới trở lại”. Cô “đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày
trước”. Rồi cô nhận ra: Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Lần đầu tiên, sau những tháng
ngày mất hết ý niệm về thời gian, không gian, mất hết ý thức về bản thân, bây giờ Mị đã có ý thức
trở lại. Mị nhận ra giá trị và khát vọng của mình, thấy mình có quyền được sống, được đi chơi Tết
như bao người phụ nữ có chồng khác. Thế rồi, lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy. Khát vọng hạnh
phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.
Sự tự ý thức của Mị chính là biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đang bừng dậy trong
tâm hồn cô , là biểu hiện của khát vọng tự do và bình đẳng.. Không những thế, trong giây phút ấy,
Mị còn thầm so sánh mình với người đàn bà khác để nhận ra sự bất công mà mình phải chịu. Và
cũng chính lúc này, Mị cảm nhận rõ sự bất hạnh của mình “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau. Nếu có lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”… Nếu trước đây
Mị chai sạn, vô cảm với những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần, Mị không còn tưởng đến việc ăn lá
ngón tự tử thì giờ đây Mị lại muốn chết ngay khi nhận ra hoàn cảnh thực tại đầy cay đắng của mình.
Đó chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một bên
là khát vọng sống được thức tỉnh với một bên là thực tại bất hạnh vẫn đang hiện hữu. Khi Mị
thấy nước mắt ứa ra, là chứng tỏ ý thức của Mị đang hồi sinh, Mị cảm nhận được hoàn cảnh đau xót
tủi nhục của mình.Tô Hoài đã miêu tả thành công công những xung đột gay gắt trong lòng Mị, đó
là xung đột giữa lòng yêu đời và sự chán đời, giữa lòng ham sống với sự tuyệt vọng vì bị cầm tù,
đày đọa.
Tuy nhiên tiếng sáo vẫn bay lơ lửng ngoài đường.Trong đoạn trích, tiếng sáo được nhắc đến nhiều
lần là một dụng ý nghệ thuật. Tiếng sáo đi từ xa tới gần , từ ngoại cảnh đi sâu vào tâm hồn, từ văng
vẳng bên ngoài rồi thiết tha gợi nhắc bên trong.Tô Hoài từng tâm sự rằng: “Tiếng sáo kia quá tha
thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát sống,
khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa” . Tiếng sáo ấy như tiếng gọi tha thiết của tình
yêu và cuộc sống đã thôi thúc Mị hành động. Mị đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa đèn cho sáng”. Câu văn không chỉ miêu tả hành động của Mị thắp lên ngọn đèn vật lý để
thắp sáng căn buồng mà còn bao hàm ý nghĩa Mị đang thắp sáng cuộc đời quá ngột ngạt, tăm tối
của mình. Mị thắp lên ánh sáng để xua đi bao âm u, lạnh lẽo nơi ngục thất đang giam hãm tuổi
thanh xuân và khát vọng hạnh phúc của Mị, cũng là thắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa sống trong tâm
hồn Mị. Trong đầu Mị luôn chập chờn ý nghĩ: Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Ý nghĩ ấy thúc
giục Mị tiếp tục hành động nối tiếp hành động: Quấn lại tóc, lấy cái váy hoa để đi chơi xuân.Từ một
người đàn bà cam chịu lầm lũi, ý thức tê liệt, cả cái chết để giải thoát cũng không muốn, bây giờ lại
muốn làm đẹp muốn đi chơi, là cả một quá trình thay đổi lớn. Ta thấy Mị đang dần dần hồi sinh với
những cảm xúc rất chân thực, những mong muốn rất chính đáng của một con người. Như vậy,
Tiếng sáo ấy đã thức dậy cả mùa xuân trong Mị, thức dậy ký ức xa xôi những ngày xuân đến. Điều
ấy làm ta chợt nhớ đến một anh Chí bâng khuâng tỉnh dậy sau “ những đêm dài triền miên say” lắng
đọng nghe tiếng “chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên
sông, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Chính thanh âm vang vọng của cuộc sống đánh thức những
con người vốn bị lãng quên trong tận cùng của đau khổ. Mị cũng như anh Chí kia tỉnh giấc sau một
cơn mê dài.
Giữa lúc lòng yêu đời, sự ham sống, sức hồi sinh trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị
quật xuống phũ phàng nhất. A Sử thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà. A Sử bước lại lấy thắt
lưng trói hai tay Mị rồi dùng sợi đay trói đứng Mị vào cột, rồi quấn cả tóc Mị lên cột làm cho Mị
không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Hắn trói Mị như thể trói một tội nhân thiên cổ, đầy dã
man. Dùng chính sợi đay- một vật quen thuộc Mị làm việc bao năm để trói, để xiết Mị vào kiếp trâu
ngựa mãi mãi không thoát ra được. Mái tóc vừa sửa soạn lại để ngẩng mặt nhìn đời, để theo đuổi
những khát khao đã bị quấn vào cột . Hành động tàn bạo ấy của hắn đã trói cái khát vọng vừa mới
manh nha của người phụ nữ tội nghiệp. Sợi dây trói là hiện thân hung tợn của một lối hành xử đầy
tính dã man thời trung cổ, hiện thân của sự vùi dập quyền sống chính đáng, tự do và hạnh phúc của
con người. Việc A Sử tắt đèn,“khép cửa buồng lại” một cách lạnh lùng tàn nhẫn như dập tắt luôn sự
sống vừa mới bùng lên trong Mị, phong kín cánh cửa tâm hồn mà Mị vừa hé mở..
Tuy nhiên, dù thể xác bị trói buộc nhưng Mị không cảm nhận được nó nữa, vì sức mạnh tinh
thần của Mị đã chiến thắng nỗi đau về thể xác. Bởi với một người bị vùi dập mang bản năng sống
mạnh mẽ một khi trỗi dậy sẽ mãnh liệt không gì cản được. Chính tiếng sáo và men tình tiếp tục dìu
Mị đi trong đêm tình mùa xuân rạo rực, đắm say. Tiếng sáo rập rờn trong tâm hồn Mị khiến Mị
“vùng bước đi”. Đây là chi tiết nghệ thuật độc đáo thể hiện sức sống tiềm tàng, sức phản kháng
mãnh liệt của Mị. Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả hành động Mị – “Mị vùng bước đi”. Mị quên thực
tại, Mị đang sống trong men tình, trong tiếng sáo gọi bạn yêu.
Nhưng rồi khi “Mị vùng bước đi” sự đau nhức của thể xác như một vết cắt xé ngang hồi
tưởng đưa Mị về với hiện tại. Tiếng sáo vụt mất chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách” Âm thanh
của tiếng chân ngựa là âm thanh của hiện thực, âm thanh của tiếng sáo là âm thanh của giấc mộng.
Nếu ở đầu tác phẩm, Mị đồng hóa mình như “con trâu con ngựa” thì giờ đây khi rơi xuống tận cùng
đau khổ lần nữa nơi địa ngục,Mị đau đớn bội phần thổn thức: “mình còn không bằng con ngựa”.
Cả đêm ấy, Mị vẫn phải trói đứng như thế. “ Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa”.
Cũng là men rượu, là thanh âm, là tiếng chó sủa đằng xa quen thuộc nhưng dường như giờ đây tất
cả không còn chiếm ngự trong tâm hồn cô để sống lại những hồi ức đẹp nữa. Điều đó còn thể hiện
cả trong văn phong của tác giả, khi nhà văn tinh ý đến mức xây dựng các cấu trúc câu văn đặc biệt,
ngắn gọn đến kì lạ rồi “ khẽ khàng đặt một dấu chấm cuối mỗi câu”, như sự chia cắt, phũ phàng
đang hiện hữu vậy. Dù đêm tình mùa xuân đi qua, Mị lại trở về với cuộc sống tăm tối nhưng tâm
trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân giống như một tia lửa nhỏ mà “một tia lửa nhỏ
hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn). Tia lửa ấy chính là tiền đề dẫn đến hành động cởi
trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.
c. Nghệ thuật
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: Khát vọng mãnh liệt- sự thực phũ
phàng khiến sức sống ở Mị. Qua đoạn trích miêu tả sự hồi sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân đã
chứng tỏ tài năng bậc thầy của Tô Hoài trong khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, khai thác
dòng suy nghĩ phức tạp trong nhân vật và nghệ thuật trần thuật đầy hấp dẫn, linh hoạt. Nhà văn đã
phân tích thành công những diễn biến vô cùng phong phú, phức tạp của Mị mà vẫn nằm trong vòng
tình lí của sự sống. Hình tượng nhân vật Mị tiêu biểu cho số phận đau thương và vẻ đẹp tâm hồn
của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc,của ng dân lao động TB dưới sự áp bức của bọn chúa đất. Họ
là những con người đã từ đau thương vươn lên đấu tranh tự giải phóng cuộc đời mình.

d. bình luận đuôi phân hóa

III.Kết bài
Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc.Ông đã đồng cảm với số
phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ , đồng thời căm phẫn lên án, tố cáo sự tàn bạo
của giai cấp thống trị miền núi.Không chỉ thế, nhà văn còn ngợi ca những vẻ đẹp của người dân lao
động TB, đó là khát vọng sống, khát vọng tự do, tư tưởng đấu tranh phản kháng và khả năng làm
CM để tự giải phóng cuộc đời mình. Đâylà nét mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài cũng
như của VH giai đoạn 45-75.
….…………………………………………………………………………………………………….

VỢ NHẶT
KIM LÂN
ĐỀ 1
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không
phải.
………………… Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần
tu sửa lại căn nhà
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 30)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn trích. Từ đó nhận xét nghệ
thuật khắc họa tính cách nhân vật của nhà văn Kim Lân
GỢI Ý THAM KHẢO
I.MỞ BÀI
Viết về người nông dân không phải là đề tài mới hay hiếm gặp . Nhưng cái cốt của một tác
phẩm có thành công với đề tài này hay không là do sức hấp dẫn của những cây bút. Nếu như Nam
Cao thành công khi khắc họa nhân vật Chí Phèo nhằm nói lên sự tha hóa bần cùng của người nông
dân trong xã hội thực dân phong kiến thì Kim Lân cũng khắc họa thành công người nông dân tên
Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt của ông. Vẫn là đề tài nông dân ấy nhưng Kim Lân đã khơi được
những nguồn chưa ai khơi là thân phận rẻ rúng bị coi như rơm rác của con người. Qua nhân vật
Tràng, nhà văn đã khẳng định những nét đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Đặc biệt
, đoạn trích “sáng hôm sau…..” không chỉ khắc họa được vẻ đẹp của người nông dân (anh Tràng)
mà còn thể hiện được sự độc đáo trong việc xây dựng nhân vật của nhà văn Kim Lân
II.THÂN BÀI
1. Khái quát về tác phẩm
Truyện Vợ nhặt in trong tập “Con chó xấu xí” được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của
Kim Lân. Tác phẩm vốn có tiền thân từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở
thời kì trước Cách mạng). Hòa bình lập lại (1954), Kim Lân viết lại thành truyện ngắn Vợ nhặt
Tác phẩm Vợ Nhặt ra đời trong hoàn cảnh đất nước rơi vào nạn đói kinh hoàng thời
kì 1945, khi mà nhân dân ta chịu cảnh chết đói như ngả rạ, người người nhà nhà rơi vào cảnh khó
xử. Không khí của những làng quê được miêu tả “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người
trong làng đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được
cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Xóm nghèo ấy cũng là xóm ngụ cư,mọi
người tứ phương đổ về ai cũng mong muốn tìm được cái ăn để đỡ đói qua ngày.
Chỉ với vài nét miêu tả của nhà văn, người đọc đã thấy được hình ảnh một người đàn
ông xấu xí, thô kệch. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của
những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào
bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng
có những ý nghĩ gì vừa lý thú vừa dữ tợn…”. Cái điệu “vừa đi vừa tủm tỉm cười” khiến cho hình
tượng nhân vật trở nên cô độc, lẻ loi giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều, xơ xác.
2. Cảm nhận đoạn trích
a. Yếu tố tác động
- Khung cảnh thiên nhiên
+ Thời gian thay đổi: mở đầu tác phẩm là buổi chiều chạng vạng >< buổi sáng mùa
hè ấm áp
+ không gian thay đổi: Câu chuyện mở đầu bằng những gương mặt u ám và những
âm thanh thê thiết , tất cả tối sầm lại vì đói khát >< tràn ngập ánh nắng chói lóa của buổi sớm mùa

- Cảnh đời sống gia đình:
+Ngăn nắp gọn gàng, sạch sẽ: ngôi nhà xiêu vẹo, rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại -> nay được thu dọn, quét tước sạch sẽ, gọn gàng: quần áo rách, cũ vắt lâu
ngày được mang ra phơi; hai ang nước vốn khô cong nay được đổ đầy ăm ắp…
Mẹ Tràng lúi húi giẫy những búi cỏ dại (từ láy “lúi húi, cặm cụi” => chịu khó
Người vợ quét lại sân, tiếng chổi kêu sàn sạt: âm thanh rõ ràng, âm thanh của
sự sống (khác với âm thanh tiếng quạ, tiếng khóc hờ ở đầu tác phẩm)
→ Hình ảnh bình dị, thân thuộc theo hướng tích cực được quan sát bằng ánh mắt háo
hức vì ngạc nhiên, bất ngờ trước sự thay đổi lớn lao của xung quanh của Tràng, khác với sự vô tâm
như thường thấy.
b. Diễn biến tâm lí và hành động của Tràng
Ban đầu Tràng bất ngờ, cứ tưởng mình đang mơ, thế nên tâm trạng hắn “êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Các từ láy diễn tả trạng thái cảm giác chính xác : cảm giác hạnh
phúc của người vẫn chưa tin được sự thật đẹp đẽ mà mình đang có.
- Sức mạnh kì diệu của hạnh phúc đã làm thay đổi hẳn con người Tràng: Từ dáng vẻ bên
ngoài Không còn cái dáng đi “ ngật ngưỡng”, “ Cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước”. Bây giờ đã là
cái dáng đi đàng hoàng và tỉnh táo “ Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân → Sự thay
đổi của dáng vẻ bên ngoài nói lên sự thay đổi lớn lao của tâm hồn
-Hắn thấy “rất thấm thía cảm động” trước cảnh tượng đời thường, giản dị đó là cảnh mẹ
chồng và nàng dâu cùng nhau dọn dẹp, thu xếp nhà cửa. Trước đây, khi chưa có vợ, cuộc sống đói
khổ, đơn điệu, Tràng vô lo vô nghĩ. Chính vì thế, cảnh tượng ấy khiến Tràng vô cùng cảm động.
- Trong lòng Tràng dấy lên sự yêu thương gắn bó đối với ngôi nhà – tổ ấm của mình: "Bỗng
nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". Hai chữ "lạ lùng" nói lên sự đổi
thay lớn lao trong suy nghĩ của Tràng. Tình cảm với gia đình của Tràng không hề hời hợt, bâng quơ
bây giờ đã là máu thịt, là mạch kết nối bền chặt trong Tràng. Nhà văn Kim Lân đã vận dụng một
loạt những từ láy “thấm thía, lạ lùng, phấn chấn, đột ngột” để miêu tả thật tinh tế cảm xúc, tâm trạng
vui sướng, ngỡ ngàng ngập tràn tâm hồn Tràng. Bởi đối với anh, tất cả như một giấc mơ đẹp nay đã
hóa hiện thực.
Không chỉ thế, Tràng còn nhận thấy mình cần phải có bổn phận và trách nhiệm vì từ nay,
“hắn đã có một gia đình”. Từ nhận thức mình "đã có một gia đình", Tràng nghĩ đến những điều xa
xôi hơn: "Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng". Đó
chẳng phải là khát vọng thầm kín mà vô cùng mãnh liệt trong con người tội nghiệp đó sao? Khát
vọng về một mái ấm gia đình, một nơi che mưa che nắng, một tổ ấm có "vợ" và "con cái" của hắn –
khát vọng đời thường giản dị mà trong cảnh đói lại trở nên thiêng liêng, cảm động biết bao. Vậy
nên, trong lòng hắn, một lần nữa lại tràn ngập "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột". Lần này,
Tràng vui sướng, không phải vì "có vợ", mà lớn lao hơn, hắn có một "gia đình". Hai tiếng “gia
đình” và hình ảnh so sánh “cái nhà như cái tổ ấm” hiện lên thật thiêng liêng. Đó là hình ảnh của sự
sống, đem đến sinh khí mới mẻ cho cuộc đời Tràng.
- Suy nghĩ ấy, khiến lần đầu tiên hắn thấy mình đã trưởng thành "bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người". Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn phận và trách nhiệm với gia
đình. Đó là quy luật tâm lí tất yếu. Tràng cũng vậy, "hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ
con sau này". Có lẽ ý thức về bổn phận là phạm trù ý thức vừa mới định hình trong Tràng, từ khi
hắn nhận thức được sự thiêng liêng của hai tiếng "gia đình". Hắn đã thực sự trưởng thành, trở thành
người đàn ông của gia đình.
Không chỉ thay đổi trong suy nghĩ, ý thức, trách nhiệm với gia đình của Tràng còn thể hiện
qua hành động "hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà". Từ láy “xăm xăm” một lần nữa được Kim Lân sử dụng để diễn tả động thái hăm hở,
hào hứng, mạnh mẽ của Tràng, gợi lên tư thế của một người chủ gia đình thực sự đang dần lớn lên
và được khẳng định trong con người anh. Cái dáng vẻ "xăm xăm" ấy nói lên biết bao quyết tâm, sự
nhiệt thành, bao tình yêu của hắn dành cho gia đình. Hành động ấy trước đây đâu phải là hành động
thường nhật của hắn, đó là sự chuyển biến lớn. Chính niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu
thương, tình mẹ con vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm trong lòng hắn biết bao ước vọng về hạnh
phúc, bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn. Ở Tràng đã bừng thức, một sức sống mới
mẻ tràn ngập trong lòng người đàn ông đang sống bên bờ vực của cái chết. Qua nhân vật, KL thể
hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc
giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc
sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.
Tâm trạng của Tràng sau đêm tân hôn được Kim Lân miêu tả thật chân thực, xúc động, từ đó
gợi nhắc người đọc liên tưởng đến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao). Sau
đêm gặp thị Nở, khi nhận được sự chăm sóc đầy tình người của thị, Chí Phèo cũng đã có sự hồi
sinh. Từ một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Chí khao khát hoàn lương, được làm người lương
thiện. Như vậy, từ sự chuyển biến trong tâm trạng cũng như hành động của Tràng, Chí Phèo,… các
nhà văn hiện thực đã cho người đọc thấy sức mạnh cảm hóa của lòng nhân ái, tình yêu thương, khát
khao hạnh phúc gia đình của con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn mãnh liệt và đáng
trân trọng
Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm
nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật. Trong truyện ngắn, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu
sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt,
trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình,
vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Để làm nổi bật tư tưởng ấy, Kim Lân đã lựa chọn
khắc họa nhân vật Tràng xuyên suốt trong tác phẩm
Nhà văn đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo – tình huống nhặt vợ để qua đó thấy
được sự thay đổi trong tính cách, tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Đoạn trích đã thể hiện diễn biến
tâm lí tinh tế của Tràng ở buổi sáng hôm sau, kết hợp với ngôn ngữ kể, tả mộc mạc, giản dị và cách
kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
* Đuôi bình luận : nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật
Khái niệm: Nghệ thuật khắc họa nhân vật được hiểu là nhà văn đã sử dụng các phương tiện,
các biện pháp nghệ thuật để tái hiện lại những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí…
của Tràng trước những cảnh ngộ, những tình huống.
-Biểu hiện:
+ Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng với đầy đủ ngôn ngữ, diện mạo, hành động,
tính cách và diễn biến tâm trạng tinh tế mà lo- gic, hợp lí, đặc biệt là sự đổi thay trong tâm trạng của
nhân vật Tràng: từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm thành người đàn
ông trưởng thành, có trách nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh
của khát vọng hạnh phúc... có thể biến những điều không thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt
ngào.
+ Đoạn trích đã thể hiện thành công diễn biến tâm lí của Tràng ở buổi sáng đầu tiên
sau khi có vợ bằng cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ kể, tả mộc mạc, giản dị,
dùng nhiều từ láy có sức biểu cảm ...
- Đánh giá:
Thông qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích, nhà văn muốn
nhắn gửi đến độc giả những “thông điệp nghệ thuật” giàu ý nghĩa nhân sinh

Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong
nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng
với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên
trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình và
và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất. Đó
cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn đọc
qua đoạn trích.

ĐỀ 2

“… Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người
đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh.
…………………………..
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?...”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr 30,31,32)
Phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về sự thay
đổi của nhân vật người vợ nhặt
1. Mở bài
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy.”
(Tố Hữu)
Những vần thơ của Tố Hữu gợi nhớ về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 trong tâm trí biết
bao người. Nỗi ám ảnh ấy đã đi vào văn chương với những tác phẩm nổi tiếng mà khi đọc, người ta
rùng mình với một sự kiện thương đau đã qua. Tiêu biểu trong số đó có tác phẩm “Vợ Nhặt” của
Kim Lân-một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc, nhà văn của đồng ruộng, “một lòng một dạ đi về
với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam” (Nguyên Hồng) . Tác phẩm
“Vợ Nhặt” đã tái hiện chân thực tình cảnh khốn khó của người nông dân trong nạn đói, đồng thời
ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của con người dù cuộc sống tăm tối vẫn không ngừng khao khát, sẻ chia
và hướng tới tương lai. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong
đoạn trích ……
2. Thân bài
a. Phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích:
- Giới thiệu chung về nhân vật người vợ nhặt:
+ Lai lịch: Không nhà cửa, không gia đình, không tên (Tác giả chỉ gọi là thị, cô ả, người đàn
bà)→Cuộc đời thị là một số o tròn trĩnh, thể hiện tính chất cay đắng của thân phận con người
+ Ngoại hình: Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, gầy sộp, áo quần tả tơi như tổ đỉa…→ Thân phận khốn
khổ, đói nghèo truy đuổi không biết bám víu vào đâu…
- Tính cách:
+ Trước khi làm vợ Tràng: Thị chao chát, chỏng lỏn trong lời nói, vô duyên trong hành động.
Được Tràng cho ăn, thị ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc và chấp nhận theo không về làm vợ
Tràng
Cái đói đã làm thị đánh mất cả sĩ diện  thị cần một nơi nương tựa, bấu víu.
- Sau khi về làm vợ Tràng, thị hoàn toàn thay đổi, trở thành người phụ nữ đúng mực, bộc lộ
nhiều phẩm chất đáng quý. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích trên.
+ Thị trở nên hiền hậu, đúng mực
+ + Trong hành động: Chăm chỉ quét dọn nhà cửa, vườn tược, vun vén cho tổ ấm; chăm
chút cho bữa cơm gia đình; hiền thục đoan trang khác hẳn trước đây, chính Tràng cũng nhận ra
hôm nay “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì
chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”
++ Trong lời nói, cử chỉ: “Trống gì đấy, u nhỉ?”, “Ừ, sao nhà biết?”
+ Biết cảm thông với hoàn cảnh khốn khó của nhà chồng:
++ Chuẩn bị và cùng ăn bữa cơm ngày đói với gia đình chồng
++ Trong bữa cơm, khi đón nhận bát chè khoán thực ra là cháo cám từ người mẹ, Thị “đưa
lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”
+ Thị còn là người gieo niềm tin và hướng về tương lai:
++ Bữa cơm đón nàng dâu mới thật thảm hại diễn ra trong tiếng thúc thuế dồn dập ngoài kia
khiến bà mẹ từ đầu đã cố vui, gượng vui cũng phải quay mặt để giấu đi giọt nước mắt. Thế nhưng,
cũng chính tại thời khắc tuyệt vọng đó, thị lại thắp lên một niềm hy vọng mới cho Tràng bằng câu
hỏi đầy ngạc nhiên “- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?”
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn
phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.”
++ Khi Trang phấn khởi hỏi lại “ Việt Minh phải không?”, thị đã trả lời thật lễ phép và hào
hứng: “- Ừ, sao nhà biết?...”
→Đánh giá: Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung đã thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc
xây dựng tình huống truyện độc đáo, eo le; cách kể tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với
nhiều chi tiết đặc sắc; nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm
lí tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắc lọc và giàu sức gợi cảm. Qua đó, tác giả đã xây
dựng thành công nhân vật người vợ nhặt, có thể thấy thị là nạn nhân của nạn đói, nhưng trong sâu
thẳm vẫn là người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó, khát khao mái ấm gia đình và có niềm
tin vào tương lai. Nhân vật góp phần làm toát lên giias trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

Đề 3

… “ Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ
sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình. ……..

…..Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi,
người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống
thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai chấp nhặt chi cái
lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr 28, 29)
Cảm nhận của anh / chị về vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích .Từ đó nhận xét
ngắn gọn về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân

GỢI Ý THAM KHẢO


I.Mở bài
– Kim Lân là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa , các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là
g người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
– Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm
1945, tác phẩm ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
– Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.
II.Thân bài
1.Giới thiệu nhân vật
Trong tác phẩm “Vợ Nhặt”, nhân vật Bà cụ Tứ được nhà văn Kim Lân dành nhiều tâm huyết
xây dựng và đóng một vai trò quan trọng giúp bật lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Bà cụ Tứ
xuất hiện trong “ tiếng ho húng hắng”, dáng người “ lọng khọng” , “ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”.
Đó là những nét khắc họa đầu tiên đầy ấn tượng về ngoại hình, dáng vẻ của một người mẹ nghèo
khổ, vất vả gánh nặng lo toan, cái đói, cái nghèo dường như đã đè nặng lên đôi vai dằng dặc cả một
đời người của bà.
2.Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
Dù cuộc sống cơ cực trăm bề, nhân vật bà cụ Tứ vẫn toát lên những phẩm chất cao quý để
lại cảm xúc, ấn tượng trong lòng người đọc mà trước tiên có lẽ chính là hình ảnh một người mẹ
thương con hết mực, bao dung, nhân hậu.
(Buổi chiều khi Tràng “ nhặt” được vợ, về đến nhà, bà cụ vô cùng ngạc nhiên. Bà ngạc
nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà
theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. Nhà văn đã chắt lọc những từ ngữ hết
sức tinh tế để diễn tả tâm lí bà cụ Tứ. “Phấp phỏng” thể hiện tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn,
không biết điều gì đón đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “Chợn” thì
anh ta đi thẳng vào niềm vui. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của lại là một tâm lý phức
tạp. Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất
tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn
dồn dập trong đầu bà: “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? Không phải con
cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao
người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng thực sự mà nói, một người thấu trải lẽ
đời,việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại không nhạy cảm
trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy
cảm ấy. Bà cụ không hiểu vì lâu nay nào dám nghĩ con trai mình có thể có vợ. Vả lại, ai mà dám lấy
vợ giữa mùa đói kém này! Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là
sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Nhờ thái
độ của Tràng cùng không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về
làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa mà trong lòng chỉ
ngổn ngang trăm bề.)

* Nếu đề chỉ ra như đoạn trích trên thì bắt đầu thân bài từ đây

- Diễn biến: Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng
biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào.
Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ,
Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón
mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh Tràng đâu có thế.
Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra
đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: “Có việc gì thế
vậy? Anh Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.

Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi,
nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính
bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện “vợ nhặt”, mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên
đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tác phẩm đi theo 1 chiều hướng rất logic
của tâm lý nhân vật.
Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức không còn tin vào mắt, vào
tai mình nữa “Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý
không hiểu”. Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tủi cực,
ai oán, xót thương… Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua
lời xác nhận của con trai: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ…”
Con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng. Giọt nước mắt chỉ “rỉ”
ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc. “Kẽ mắt
kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn
tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: tình thương con thắt lòng. Bà hờn tủi cho mình, xót
thương cho các con vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ:“chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này.
Còn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con
trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ
cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy
tâm sự. Thán từ “Chao ôi” đứng đầu câu đã tạo nên một giọng điệu oán than, nó bắt trọn cảm xúc
chua xót của một người làm mẹ. Đời người mẹ có gì đau hơn khi nghe chuyện “trăm năm” của con
lại lẳng lặng “ cúi đầu” ? Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào, chua xót, đắng cay nén sau chữ “ thì “ đầy
vô vọng.Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà
thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con, còn bà thì có “dăm ba
mâm cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là
nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp.

(Nhà văn Nam Cao từng quan niệm “ Nước mắt là giọt châu của loài người”. Trong văn học,
nhiều nhà văn cũng dụng công khắc họa “giọt nước mắt” thành chi tiết nghệ thuật, giàu sức gợi và
để lại nhiều dư ba như “ giọt nước mắt lấp lánh” của A Phủ của Tô Hoài, “ giọt nước mắt trên
khuôn mặt chằng chịt rổ” của người đàn bà hàng chài ( Nguyễn Minh Châu) và ở tác phẩm này,
Kim Lân đã khắc họa chi tiết giọt nước mắt “ như một hạt bụi vàng làm nên tác phẩm lớn”. Đó là
giọt nước mắt đong đầy những xúc cảm, tình thương con bao la của tấm lòng người mẹ, khi mà lí trí
dù cố nén vào lòng, thì nỗi đau vẫn giằng xé và chực trào “ hóa châu lệ”. Trong cái kẽ mắt nứt nẻ
của thời gian sương gió, đã rỉ ra giọt nước mắt tình mẫu tử thiêng liêng, nhưng hiếm thấy ở tuổi già.
Và chắc phải đau đến cùng cực tâm can thì mới “ rỉ ra hai dòng nước mắt” ấy. Như Nguyễn Khuyến
từng viết:
“Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.”)

Bà xót thương cho các con. Thứ nhất là xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu
rằng con trai bà không được bình thường, không được may mắn như con nhà người. Nghĩ thế nhưng
bà không hề rẻ rúng coi thường cô con dâu mà ngược lại tấm lòng người mẹ ấy trào dâng những
tình cảm dành cho người con gái cùng đường lỡ bước:“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ…”. Trong suy nghĩ đầy nhân văn
ấy, người mẹ đã đồng cảm với cô con dâu bị nạn đói đẩy cho tới đường cùng buộc phải liều thân
theo một anh chàng xấu xí về làm vợ. Cũng trong suy nghĩ ấy bà cũng thầm cảm ơn cô con dâu vì
nhờ thị mà con trai bà mới có được vợ. Tình thương người đàn bà vợ nhặt ấy còn được thể hiện
trong hành động vồn vã, ân cần, cử chỉ quan tâm “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”, trong suy nghĩ nhân hậu: “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu
là con trong nhà rồi”.Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ:“Ừ! thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải
là “vui lòng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là
vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ
cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm
tay.
Không chỉ là người mẹ thương con hết mực, bà cụ Tứ còn là người mẹ của truyền
thống, đạo lý tốt đẹp. Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng.
Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Bà nghĩ đến khi “ông
giời bắt chết” bởi cái đói đâu chừa một ai?, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài
nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không? Bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của
bà: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt”, ông lão, cô con gái út - chính
những người thân yêu của bà cũng bị nạn đói cướp mất. Cái đói năm ấy đã đặt con người vào hoàn
cảnh khốn cùng khi sự sống mong manh như ngọn đèn trước gió, “người chết như ngả rạ”. Trước
mắt bà là bóng tối, dòng sông có sáng trắng nhưng cũng đành “ uốn khúc trong cánh đồng tối”.
Kim Lân ba lần tả bà cụ Tứ khóc và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà:“Biết rằng chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng
lo cho con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?”. Lần
thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng
trên khuôn mặt già nua khắc khổ: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa: “Giời đất này
không biết có sống qua được không các con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi
chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết
bao.
Nhưng bà đã gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi
vợ chồng son. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc
quan. Là người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm.
Khổ đau, đói rét không quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ tin rằng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta
thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho
khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai
con “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô
giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp
biết nhường nào!
Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui
hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khuôn mặt bà cụ Tứ có sự thay đổi
từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc của toàn bộ
câu truyện. Cái khuôn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì hôm nay “rạng rỡ” bấy
nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những dòng cuối.
Bà đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi
lòng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn cả “chè
khoán” bằng cám nhưng bà cụ vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão
nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà còn mở ra một viễn cảnh tươi sáng
qua câu chuyện đàn gà: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem…”. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao
điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi – sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết.
Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà.
Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ
đến con đường sống”. Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lông mọc còn
chồi nảy cây”.
Đánh giá nghệ thuật
Tác phẩm thành công bởi tình huống truyện độc đáo; nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc,
đối thoại sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ
lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo…. tạo ấn tượng sâu sắc nơi
người đọc về một người mẹ nghèo mà bao dung, nhân hậu, có tinh thần lạc quan, khỏe khoắn. Ngòi
bút đôn hậu của Kim Lân đã khám phá những hạt ngọc quý sâu thẳm trong tâm hồn con người: dù
đói rách thảm thương nhưng vẫn bao dung, nhân hậu, nghĩa tình. Ẩn sau những trang văn thấm đẫm
tình người, là ân tình người cầm bút.

3. Nhận xét về tinh thần nhân đạo được tác giả gởi qua nhân vật bà cụ Tứ

Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số
phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát
hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người,
người mẹ (bà cụ Tứ) dành cho con (Tràng và thị) trong nạn đói, dù nghèo đói và khổ cực đến đâu,
ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia
đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ. Đồng thời , tố cáo tội
ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật là nguyên nhân chính gây ra nạn đói khủng khiếp.

Kết bài
Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành
cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu
cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn,
hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền
được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của
cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy
làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ
nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của 1 truyện ngắn “hiện thực – nhân bản”.

You might also like