You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


====o0o=====

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng


Hồ Chí Minh giai đoạn trước năm 1911

Lớp: TRI104E(GD2-HK1-2223).1
Giảng viên: TS. Nguyễn Mai Phương

Hà Nội, tháng 12 năm 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT MSV Họ và tên Công việc đã giao Đánh giá
Hoàn thành tiểu luận + phân
63 2111210093 Nguyễn Văn Thái Tốt
công công việc
Tổng hợp và kiểm tra nội
29 2113280006 Đào Nhật Hiếu Tốt
dung và làm slide
Nội dung + thuyết trình
51 2113280021 Trần Hoàng Nam Tốt
Phần II.3 - Quá trình học tập
Nội dung + thuyết trình mục
44 2112280056 Dương Hiển Minh Tốt
I.2 - Truyền thống yêu nước
Nội dung + thuyết trình phần
13 2112280017 Phạm Cao Duy Tốt
I.1 - Truyền thống gia đình
Nội dung phần I.1 - Truyền
32 2112280042 Trần Minh Kiên Tốt
thống gia đình
Nội dung + thuyết trình phần
1 2111210003 Nguyễn Thiện An II.2 - Rút kinh nghiệm từ các Tốt
phong trào đi trước
Nội dung + thuyết trình phần
74 2012280024 Nguyễn Đức Minh II.1 - Bối cảnh thời đại & Tốt
Nội dung phần II.3
Nội dung phần I.2 - Truyền
24 1911150028 Phạm Thanh Hải thống quê hương và kiểm tra Tốt
sửa chữa tiểu luận
Nội dung + thuyết trình phần
61 2112280074 Hoàng Thái Sơn Tốt
I.3 - Truyền thống dân tộc

2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
I. Những yếu tố hình thành nên tư tưởng yêu nước của Hồ Chí
Minh 3
1. Truyền thống gia đình – nơi thắp lên ngọn lửa yêu nước trong trái tim
Chủ tịch Hồ Chí Minh 3
2. Truyền thống yêu nước của quê hương xứ Nghệ 5
3. Truyền thống dân tộc 8
II. Những yếu tố hình thành chí hướng cứu nước 11
1. Bối cảnh thời đại 11
a. Bối cảnh trong nước 11
b. Bối cảnh ngoài nước 13
2. Rút kinh nghiệm từ phong trào đi trước 14
a. Phong trào Đông Du 14
b. Phong trào Duy Tân 16
c. So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các vị tiền bối
3. Quá trình học tập và tu dưỡng 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

3
LỜI MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh là vị một vị lãnh tụ vĩ đại và kính mến của dân tộc Việt Nam.
Người là tấm gương sáng cho những thế hệ sau này về tấm lòng yêu nước sâu
sắc, một lòng sống vì dân vì nước, và còn là hiện thân của sự đổi mới, cải tiến
của một đất nước phong kiến, giúp đồng bào ta đi lên từ một nước thuộc địa khó
khăn đi lên trở thành một nước xã hội chủ nghĩa đoàn kết dân tộc, chiến thắng
hai cường quốc trên thế giới Thực Dân Pháp và Đế Quốc Mĩ, và giúp nhân dân
ta có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Với ảnh hưởng to lớn đó, có rất nhiều
bài học về Người mà mỗi chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận và tiếp thu, đặc
biệt là lòng yêu nước và ý chí tìm ra con đường để giành độc lập cho dân tộc.
Tiểu luận này sẽ đi tìm hiểu về những yếu tố hình thành nên tư tưởng của Hồ
Chí Minh trước năm 1911, tức thời điểm người chính thức bước lên con tàu
Amiral Latouche Tréville của người Pháp để tìm ra con đường giải phóng dân
tộc.

Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài, chúng em chắc chắn sẽ
không thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy chúng em rất mong nhận được sự
góp ý thẳng thắn của cô để chúng em có thể hoàn thiện bài tiểu luận của mình
một cách tốt nhất. Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự giảng dạy
và định hướng của cô Nguyễn Mai Phương trong quá trình tìm hiểu bộ môn và
thực hiện đề tài này.

4
I. Những yếu tố hình thành nên tư tưởng yêu nước
của Hồ Chí Minh

1. Truyền thống gia đình – nơi thắp lên ngọn lửa yêu nước
trong trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng
Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là ông Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là bà Hoàng
Thị Loan. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, với
tấm lòng ái quốc của cha, tình cảm nhân ái, vị tha của mẹ, đức tính thương
người, yêu nước, gan dạ từ anh chị em trong gia đình được truyền dạy đến Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua tình yêu thương, sự dạy dỗ của đấng sinh thành, góp phần
hình thành nên nhân cách và tư duy của một bậc vĩ nhân, kiến tạo nên mục tiêu,
lý tưởng và con đường cứu dân, cứu nước cao cả của Người.

Trong gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người được cha - Cụ Nguyễn Sinh Sắc
yêu thương và đặt nhiều hy vọng. Cha là người thầy đầu tiên dạy chữ, dạy làm
người và giáo dục lòng yêu nước cho Người. Người đã được cha cho theo học
với những thầy giáo có lòng yêu nước thương dân; tạo điều kiện cho Người
được tiếp xúc với các văn thân sĩ phu ở khắp Trung Kỳ; được theo cha đến
những nơi có phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi; kết giao với những
người có lòng yêu nước, có chí cứu nước. Ngoài thời gian học tập, Người còn
được cha đưa đi thăm các di tích lịch sử… đem đến những bài học thực tế bổ
ích, quan trọng, góp phần hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách
mạng, tạo thành ý chí, nghị lực và phong cách riêng có của Người.

5
Không chỉ được học các thầy giáo giỏi trong làng, được tiếp xúc với các văn
thân, sỹ phu yêu nước, Nguyễn Tất Thành và anh trai là Nguyễn Tất Đạt đã
được cha cho theo học Trường tiểu học Pháp – Việt Vinh. Đây là cơ sở giáo dục
tân học đầu tiên của xứ Nghệ. Chính tại ngôi trường này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
được tiếp xúc với văn hoá phương Tây và biết đến khẩu hiệu “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” khi mới 13 tuổi, và từ thủa ấy, Người “rất muốn quen với nền
văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”, muốn cứu
dân thoát khỏi cảnh lầm than, giải thoát dân tộc khỏi ách áp bức nộ lệ, đem lại
sự tự do, bình đẳng cho tất cả mọi người dân Việt... Và trong giờ phút thiêng
liêng đến thăm cha trước lúc ra đi tìm đường cứu nước, Người còn được cha
tiếp thêm sức mạnh và động lực để quyết tâm thực hiện xứ mệnh cao cả giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người với câu nói: “ Nước
mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì?”. Ở đây, sự giáo dục của cha
không chỉ truyền cho Người tư tưởng, trí tuệ, học vấn, mà còn truyền cho Người
đạo đức của người cách mạng, phong cách của một vĩ nhân với lòng nhiệt
huyết, chí khí mạnh mẽ và động lực để Người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Đối với mẹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh được học, được chăm sóc nên một nền tảng
đạo đức nhân ái từ sự nuôi dưỡng, dạy dỗ nhân từ và hiền hậu của mẹ. Những
đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam đều hội tụ trong người mẹ ấy. Bằng
cả tấm lòng yêu chồng, thương con, mẹ đã hy sinh tất cả vì chồng con, góp phần
vun đắp nên cuộc đời và sự nghiệp đẹp đẽ của họ. Từ thủa còn nằm nôi, Mẹ đã
dạy Người lòng yêu nước từ những lời ru bằng làn điệu dân ca xứ Nghệ ngọt
ngào, sâu lắng, bằng những câu tục ngữ, ca dao có từ ngàn đời của thế hệ ông
cha:

“Làm người đói sạch, rách thơm

Công danh phủi nhẹ, nước non phải đền…”

6
Mẹ Hoàng Thị Loan đã dùng tính giản dị, khiêm tốn, đức hy sinh, chung thủy,
yêu nước của mình để tác động tích cực đến các con, truyền thụ những hiểu biết
ban đầu về cuộc sống, dạy cho Người biết yêu lao động, biết làm những việc
phù hợp với sức lực và lứa tuổi một cách say mê, chịu khó, sáng tạo để rồi sau
này đã trở thành nếp sống quen thuộc hàng ngày của Người. Có thể nói rằng,
tấm gương của mẹ đã khắc sâu vào tâm khảm, tạo nên bản lĩnh tự lực cánh sinh
trong mọi lúc, mọi nơi của Người... Kể từ khi bước chân ra đi tìm đường cứu
nước và cả quá trình bôn ba khắp các đại dương, các châu lục, Người đã luôn tự
lao động và làm nhiều nghề khác nhau để sống, để học tập và đấu tranh nhằm
mục tiêu cứu nước, cứu dân.

Có thể thấy, tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được lớn lên, nuôi dưỡng trong
mạch nguồn yêu nước của gia đình. Chính truyền thống gia đình, với sự giáo
dục của đấng sinh thành giữ vai trò quan trọng, đặt nền móng và kiến tạo nên
lòng yêu nước, thương dân, ý chí cứu dân, cứu nước; tư tưởng, đạo đức và
phong cách của Người.

2. Truyền thống yêu nước của quê hương xứ Nghệ


Không phải ngẫu nhiên mà người xưa đã nói: “… Nghệ An núi cao, sông sâu,
phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất có danh tiếng hơn cả ở
Nam châu… thực là nơi hiểm yếu như thành đồng, ao nóng của cả nước và là
then khóa của các triều đại.”

Sinh thời, Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã nhận định: “Trong nước ta hàng ngàn
năm nay, Nghệ An là nơi xây dựng cơ sở để chống ngoại xâm, giữ vững nước
nhà. Khi nào phía Bắc mất, người ta lại vào đây để xây dựng lực lượng, gây
dựng sức mạnh, giải phóng cả nước…”.

Thật vậy, lần giở trang sử vàng chống ngoại xâm oai hùng của dân tộc, chúng ta
đều thấy in đậm dấu tích của vùng đất Hồng Lam.

7
Trong thời kỳ chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, Nghệ An không chỉ
nhiệt thành hưởng ứng khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, khởi
nghĩa Lý Bí, cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ… mà còn tự mình đứng ra dương
cao ngọn cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân thù, xây dựng đất nước, đó chính là
cuộc khởi nghĩa lớn do Mai Thúc Loan lãnh đạo (năm 713 – 722).

Bước sang thời kỳ độc lập tự chủ, núi rừng, sông biển và con người nơi đây đã
cùng hợp lực với nhau tạo nên vị thế chiến lược của quốc gia: đất “phên dậu”
thời Đinh – Tiền Lê – Lý; đất “cối kê” thời Trần; đất “đứng chân” và “thanh
mộc” thời Hậu Lê; đất “Phượng Hoàng Trung Đô” thời Tây Sơn; là “thành đồng
ao nóng” và giữ vị trí then khóa của biết bao triều đại. Từ khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, nhân dân Nghệ An cùng các nhà văn thân đã tỏ rõ quyết tâm
“đánh cả Triều lẫn Tây”, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn và Đặng
Như Mai lãnh đạo. Đến khi phong trào Cần Vương dấy lên, Nghệ An không chỉ
sục sôi với cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn – Lê Doãn Nhã, mà còn
hưởng ứng mạnh mẽ cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng lãnh
đạo phát triển ra.

Bước sang đầu thế kỷ XX, cuộc vận động giải phóng dân tộc bùng lên với
phong trào Đông Du và cuộc vận động Duy Tân theo khuynh hướng cách mạng
dân chủ tư sản. Không ai khác, chính Phan Bội Châu – người con ưu tú của quê
hương Nam Đàn, Nghệ An là linh hồn của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt
Nam trước khi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.

Sinh ra trong một gia đình Nho học yêu nước, chứng kiến sự thất bại của phong
trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa diễn ra trên chính quê hương mình và sự
“bất lực” của các bậc tiền nhân… tất cả đã nung nấu, thôi thúc người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi và tìm kiếm một con đường cứu nước mới.
Và như thế, chính mạch nguồn truyền thống yêu nước của vùng đất “địa linh
nhân kiệt” này như một lẽ tự nhiên không chỉ đã sản sinh ra Chủ tịch Hồ Chí

8
Minh mà còn góp phần tạo nên nền móng để hình thành hoài bão ra đi tìm
đường cứu nước của Người.

Xứ Nghệ là một trong số ít những vùng đất tạo nên được dấu ấn sâu đậm trong
bản sắc văn hóa của dân tộc, đó chính là vùng văn hóa xứ Nghệ. Những dấu tích
văn hóa, lịch sử xưa như: Thẩm Ồm, Làng Vạc, Vạn An, Nhạn Tháp, Rú Thành,
Phượng Hoàng – Trung Đô, cùng với hàng ngàn di tích trải qua bao lớp bụi
thời gian nhưng vẫn được lưu giữ, hiện hữu và trường tồn.

Trong quá trình chinh phục và cải tạo tự nhiên, cộng đồng cư dân nơi đây đã tạo
nên một kho tàng văn hóa dân gian rất phong phú, đa dạng. Đó là những làn
điệu dân ca, hát ví, hát dặm, hát đò đưa, hát phường vải trữ tình… Những bài ca
dao, tục ngữ, truyện kể, trường ca, sử thi… đậm đà bản sắc xứ Nghệ.Cùng với
nét đặc sắc của nền văn nghệ dân gian, nền văn học ở đây tuy ra đời muộn
nhưng đã phát triển nhanh chóng với văn phái Hồng Lam nổi tiếng.

Xứ Nghệ nổi tiếng là vùng đất hiếu học. Hình ảnh thầy đồ Nghệ đã trở thành
biểu tượng khắc học của nền giáo dục Nho học. Từ thời Trần, xứ Nghệ đã có
Trại Trạng Nguyên và từ đó về sau số người học hành khoa cử đỗ đạt của vùng
đất Hồng Lam thuộc vào loại cao nhất của đất nước. Từ truyền thống hiếu học
đó đã sản sinh ra nhiều nhà khoa bảng nổi danh như: Trạng Nguyên Bạch Liêu,
Trạng nguyên Hồ Tông Thốc, Thám hoa Nguyễn Văn Giao, Thám hoa Phan
Thúc Trực, Tiến sĩ Ngô Trí Hòa…

Nghệ An cũng là nơi có nhiều nhà giáo trứ danh như: Thám hoa Nguyễn Đức
Đạt, Nguyễn Thức Tự, Phan Bội Châu… và có cả một tầng lớp trí thức bình dân
đông đảo thường đi khắp nơi trong nước để dạy học. Đó là những thầy đồ Nghệ.
Ngoài các thầy đồ còn có nhiều thầy thuốc, hành nghề với phương châm “Nam
dược trị Nam nhân” và lấy y đức “trị bệnh cứu người” làm lẽ sống..

Xứ Nghệ - đất rộng, người đông, khí hậu khắc nghiệt. Từ xa xưa, người dân nơi
đây đã phải vật lộn với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Cộng đồng dân cư

9
Nghệ An đã phải cần cù lao động, chắt chiu tiết kiệm đến mức chịu thiếu, chịu
khổ mà cuộc sống vẫn khó khăn. Đã thế, thiên tai, địch họa lại rình rập, uy hiếp
thường xuyên. Trong hoàn cảnh đó, nhân dân lao động Nghệ An đã sớm biết
đùm bọc, thương yêu, hợp quần cố kết với nhau. Tình thương yêu mà họ giành
cho nhau là chân thành của những người lao động bình dị, chân quê, giàu lòng
vị tha, “trọng tình làng nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Cũng chính
những nhân tố đó đã góp phần hun đúc nên con người Nghệ An với những đức
tính nổi bật như: cương trực, khẳng khái, cần kiệm, giản dị, trưng thực, hiếu
học, giàu nghị lực, ý chí, can đảm, dám xả thân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.

Nhờ sớm được bồi đắp truyền thống lao động từ quê nhà, mang trong mình
những đức tính tốt đẹp, riêng có của con người Nghệ An, Người đã ra đi tìm
đường cứu nước trong tư thế của một người lao động với hai bàn tay trắng. Và
trên hành trình tìm đường cứu nước, chính lao động không chỉ giúp mưu cầu sự
sống mà còn là một phương cách hữu hiệu để Người hoạt động yêu nước, hoạt
động cách mạng, thấu hiểu được tâm tư, tình cảm và ước vọng của giai cấp cần
lao, tiếp thu và vận dụng thành công Chủ nghĩa Mác Lênin – hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản vào hoàn cảnh của Việt Nam.

3. Truyền thống dân tộc


Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh
vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất
nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức
mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh
của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn
dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung.
Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở
thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học
từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.

10
Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và
ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông
đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực
cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.

Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là
các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh
tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp
không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển
hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích
cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm
Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước
Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp
mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy
nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].

Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ
vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước
Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ.
Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước
gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-
1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn
hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống
Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn
mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh
của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần
Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên

11
cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục
đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.

Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà
Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế,
quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở
mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến
lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định,
từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó
khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở
Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-
1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với
quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ
huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.

Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm
lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp
nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên;
Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương
do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu
biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên),
Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân...
Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã
dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở
thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước
quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng
lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.

12
II. Những yếu tố hình thành chí hướng cứu nước

1. Bối cảnh thời đại

a. Bối cảnh trong nước

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà, Đà
Nẵng, từ đó, nước ta phải trải qua cảnh chiến tranh. Trải qua nhiều trận đánh
khác nhau, đến ngày 25/8/1883, Hiệp Định Hecman được ký kết, biến Việt Nam
từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến
dưới sự bảo hộ về chính trị của thực dân Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam
liên tục thất thủ, không lâu sau đó, năm 1884, nhà vua kí hiệp ước Pa-tơ-nốt
công nhận quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị sa
vào tay giặc và bị đày đi biệt xứ.

Giữa bối cảnh trong nước đầy biến động, chàng thanh niên Nguyễn Sinh Cung
khi ấy cũng phải trải qua hoàn cảnh sống gia đình vô cùng khó khăn. Cuối năm
1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hóa.
Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với
mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng
thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo
mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.
Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều
mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung
điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những
người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam
triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm
núm rụt rè; còn phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi
nhục. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê,
những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ,

13
lang thang trên đường phố... Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức của
Nguyễn Sinh Cung, là tiền đề hình thành nên chí hướng cứu nước của sau này.
Đến cuối thế kỉ XIX, Pháp thi hành chính sách “khai thác thuộc địa” thực chất
là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của nhân dân Việt Nam được tiến hành trong khoảng thời gian từ năm 1897 đến
năm 1914 ngay sau khi Pháp tiến hành đàn áp những cuộc đấu tranh của nhân
dân Việt Nam. Pháp tiến hành thành lập liên bang Đông Dương, đứng đầu là
viên toàn quyền Đông Dương người Pháp. Chúng tiến hành chia Việt Nam
thành 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau, cụ thể Nam Kỳ là thuộc địa, Trung
Kỳ là xứ bảo hộ và Bắc kỳ là xứ nửa bảo hộ. Xứ và các tỉnh đều do viên quan
người Pháp Cai trị. Bộ máy chính quyền thời đó thì từ trung ương đến địa
phương đều do thực dân Pháp chi phối , nhằm tăng cường cách áp bức, kìm kẹp,
để tiến hành khai thác Việt Nam, làm giàu cho tư bản Pháp. Sau khi thiết lập bộ
máy chính trị, chúng bắt đầu khai thác nước ta trên mọi lĩnh vực, từ nông
nghiệp, công nghiệp cho đến giao thông vận tải, khiến đời sống nhân dân ta đã
khó khăn nay càng thêm khốn đốn.
Cụ thể, về nông nghiệp thì thực dân Pháp đẩy mạnh tiến hành cướp ruộng đất,
đến năm 1902 thì có đến 182.000 ha đất ruộng bị thực dân Pháp chiếm để lập
nên các đồn điền trồng lúa, cao su, cà phê. Chúng còn tiến hành ép triều đình
nhà Nguyễn khai khẩn đất hoang, tiến hành phát canh thu tô. Về công nghiệp thì
thực dân Pháp tiến hành tập trung và khai thác các mỏ như là mỏ đá, thiếc,
kẽm,... Tất cả các khoáng sản này đều được đưa về Pháp, trong khi chúng khai
thác triệt để nguồn nhân công rẻ mạt tại Việt Nam để vào các hầm mỏ để làm
việc cật lực. Song song với đó thì thực dân Pháp cũng tiến hành cho xây dựng
nhiều cơ sở để phục vụ đời sống của chúng tại Việt Nam như là điện, nước, hay
cơ sở sản xuất xi măng, dệt ... Do tác động của cuộc khai thác thuộc địa đó mà
một số ngành nghề thủ công ở Việt Nam như dệt, gốm… đã bị mai một. Về giao
thông vận tải, những đoạn đường sắt ở Bắc Kỳ và Trung kỳ được xây dựng
nhiều. Đến năm 1912 thì tổng chiều dài đường sắt đã làm xong ở Việt Nam là
14
2.059 km. Thực dân Pháp còn mở rộng đường bộ đến các khu hầm mỏ, đồn
điền, cảng vận chuyển hàng hóa nhằm đẩy nhanh tiến độ vận chuyển và phục vụ
cho mục đích khai thác lâu dài. Trong thương nghiệp thì pháp độc chiếm thị
trường Việt Nam và tiến hành đánh thuế nặng vào hàng hóa nước ngoài. Còn
hàng hóa của Pháp thì được miễn thuế hoặc là mức thuế khá thấp. Pháp còn tiến
hành tăng thuế và thu thêm nhiều loại thuế mới.
Chứng kiến nạn thuế khóa nặng nề cùng với việc nhân dân bị bắt làm phu xây
dựng đường trong tỉnh, làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng
thiêng nước độc, ra đi không có ngày về, nhân dân làm than, ai oán, càng lớn
lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng
thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước.
Sinh ra trong thời điểm mà nước mất nhà tan, xã hội rối ren, dân chúng lầm than
cho nên ước muốn giải phóng dân tộc luôn trường trong suy nghĩ của Hồ Chí
Minh. Từ đó hình thành nên chí hướng cứu nước của Người.

b. Bối cảnh ngoài nước

Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn cạnh tranh tự do sang giai
đoạn độc quyền, trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Xuất hiện các
giai cấp, tầng lớp xã hội mới trong đó có giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Các sự kiện lớn có thể kể đến như: Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đấu tranh
công nhân các nước tư bản dẫn đến cao trào, đặc biệt là ở Liên Xô.
Tại Pháp, năm 1789, cách mạng tư sản Pháp thành công, đánh đổ phong kiến.
Năm 1791 tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền tại Pháp ra đời. Đây là văn
kiện công bố công khai về quyền con người và quyền công dân của cách mạng
Pháp do Hội nghị lập hiến của chính quyền mới triệu tập thông qua vào ngày
28.8.1789.
Cuộc Cách mạng năm 1789 ở Pháp là một cuộc cách mạng tư sản có tính điển
hình nhất ở châu Âu, tiêu diệt chế độ phong kiến và một chính quyền mới -
chính quyển của giai cấp tư sản đã ra đời, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát

15
triển không chỉ ở Pháp mà còn nhiều nước châu Âu khác. "Bản Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền" lịch sử gồm 17 điều đã công khai ghi rõ các quyền
con người và quyền công dân.
Năm 1776 ra đời tuyên ngôn độc lập ở Mỹ. Đây là văn bản chính trị tuyên bố lý
khai khỏi Anh của 13 thuộc địa Bắc Mỹ, được viết bởi Thomas Jefferson và
tuyên bố vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ ghi
dấu ảnh hưởng của Triết học Khai sáng và là kết quả của cuộc Cách mạng Anh
năm 1688. Mở đầu của bản Tuyên ngôn là lời dẫn nhập nhằm khẳng định như
một vấn đề của Luật tự nhiên về khả năng của một dân tộc về giành được độc
lập chính trị; thừa nhận rằng các căn cứ cho sự độc lập như vậy phải hợp lý và
do đó có thể giải thích được, và nên được giải thích.
Chính vì nhận thức được bối cảnh thời đại của quốc tế như vậy, Hồ Chí Minh
lại phần nào củng cố được chí hướng cứu nước của mình, vạch ra trong đầu con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc, và đó cũng là một trong số nguyên nhân
Người quyết định đến Pháp sau này.

2. Rút kinh nghiệm từ phong trào đi trước

a. Phong trào Đông Du

Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản)
học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập nước nhà.
Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan
Bội Châu.

Phan Bội Châu đã thành lập các tổ chức cách mạng bao gồm hội Duy Tân,
hội Cống Hiến được thành lập ở Tokyo, cơ quan liên lạc và Công hội Thương
đoàn được thành lập ở Hồng Kông tiếp đó ông tổ chức phong trào Đông Du
(1905- 1908) đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Phan Bội Châu
đã gửi học sinh sang trường Học hiệu Chấn Võ tại Tokyo cùng với trường Thư
16
viện Đồng Văn Tokyo. Tuy nhiên đến tháng 8/1908 chính phủ Nhật cấu kết với
Pháp trục xuất lưu học sinh kể cả Phan Bội Châu về nước. Giữa lúc cách mạng
Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911), ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam
Quang Phục Hội (1912) với mục đích tập hợp lực lượng đánh đuổi Pháp khôi
phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Sự ra đời
của Việt Nam Quang Phục Hội đánh dấu sự phát triển trong tư tưởng của Phan
Bội Châu từ quân chủ lập hiến lên dân chủ tư sản.

Khuynh hướng cải cách của Phan Bội Châu đã khuấy động lòng yêu nước, cổ
vũ tinh thần dân tộc, tập hợp lực lượng kháng Pháp hùng mạnh. Tuy nhiên nó
cũng có một số hạn chế nhất định ở chỗ cầu viện Nhật Bản. Lúc bấy giờ Nhật
Bản đã trở thành một nước tư bản do nhu cầu tìm kiếm thuộc địa nên Việt Nam
đã trở thành miếng mồi ngon của Nhật Bản vì thế họ nhanh chóng trở mặt khi
đụng đến quyền lợi của họ

● Cái được:
+ Mục đích đặt ra ngày càng tiến bộ, tổ chức gần tiến tới một chính đảng
thực sự.
+ Cụ Phan Bội Châu là người đầu tiên có cái nhìn rộng lớn, biết vươn ra cái
mới, là tấm gương cho đời sau học hỏi.
● Cái không được:
+ Phan Bội Châu bị hạn chế bởi lập trường giai cấp xuất thân và điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nên đã không thể tiếp thu được những tư tưởng chủ
nghĩa tiến bộ.
+ Sai lầm của Phan Bội Châu trong việc cầu sự viện trợ của nước ngoài
không phải là do ông có thái độ ỷ lại, vọng ngoại mà ở chỗ ông chưa
nhận ra được tham vọng của đế quốc Nhật Bản. Cho nên mới nói là hành
động của ông chả khác gì “ đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

17
b. Phong trào Duy Tân

Cuộc vận động Duy Tân, hay còn được gọi là Phong trào Duy Tân hoặc Phong
trào Duy Tân ở Trung Kỳ là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt
Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906 cho đến năm
1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.

Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con
đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục
và văn hoá, với các hoạt động thực tiễn như là mở mang kinh tế, lập các nhà
buôn lớn để tự lực, mở trường dạy học hiện đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa
bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng đến nền chính trị
dân chủ.

Phan Châu Trinh chủ trương tiến hành một phong trào Duy Tân nhằm vận
động cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội và gắn liền với việc động viên lòng yêu
nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại
xâm.

Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân
trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong
khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải
trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phản đối
việc dùng vũ lực để giành độc lập dân tộc quốc như cầu viện bên ngoài “Bất bạo
động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu”.

● Bác đã nhận thức đúng đắn những mặt tích cực và sai lầm trong phong
trào duy tân để tìm ra hướng đi đúng đắn. Tư tưởng của phong trào duy
tân đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải
cách về mọi mặt.
● Những tư tưởng tiến bộ của Phan Chu Trinh cũng được Bác Hồ tiếp thu
và phát triển lên. Đó là không chỉ loại bỏ giặc ngoại xâm mà còn phải loại

18
bỏ giặc đói, giặc dốt. Phong trào đấu tranh của Phan Chu Trinh còn mang
tư tưởng tư sản và phong kiến chưa thể giải phong được dân tộc nên
Người đã chọn con đường giải phóng dân tộc riêng cho mình.

Các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu
xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một
giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử
đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản
mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính
trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát
độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra
con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối
cứu nước.

Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: Sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn
dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng
về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công
nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành
công. Câu hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta.

c. So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các vị
tiền bối.

- Điểm giống nhau con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các vị tiền
bối.

19
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Xuất phát từ lòng yêu nước
thương dân để tìm con đường giải phóng cho dân tộc, cùng với sự bất khuất
kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong
kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên
tục và rộng khắp.Mặc dù hướng đi của Nguyễn Ái Quốc và các bậc tiền bối là
khác nhau, tuy nhiên, họ đều có tư tưởng hướng ra nước ngoài để tìm cách cứu
nước, giành độc lập dân tộc.Tất cả các khuynh hướng cứu nước là những tri
thức phong kiến ưu tú mong muốn giành độc lập cho dân tộc, đại diện cho
phong trào dân tộc dân chủ của mọi tầng lớp yêu nước đầu thế kỉ XX.

Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến
cuộc sống mọi người dân (trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí
Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau thời kỳ "bình định", thực dân
Pháp thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" - thực chất là tăng cường bóc lột,
vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn, càng thêm
khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước
thuộc địa nửa phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân
càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa
cơ bản, vừa chủ yếu. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm
xã hội Việt Nam biến chuyển và phân hóa cùng với đó là sự du nhập của trào
lưu. Vì vậy các phong trào yêu nước đều sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đang
nằm trong tay đế quốc Pháp, và đều xác định được kẻ thù của dân tộc là thực
dân Pháp. Chủ trương cứu nước vừa giống nhau vừa thống nhất với nhau ở khái
niệm “Dân nước và nước dân”.
Ý nghĩa chung cho các con đường cứu nước là thúc dục lòng yêu nước của
nhân dân đương thời, tạo nên trong lòng xã hội những mầm móng, tư tưởng
thúc đẩy sự phát triển của những con đường cứu nước theo những khuynh

20
hướng khác, đã sử dụng được sức mạnh của nhân dân làm gốc, tiếp thu được
những kết quả của cách mạng thể giới và đều hoạt động ở cả trong và ngoài
nước.

- Điểm khác nhau con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các vị tiền bối.

“Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ không thể trông chờ vào sự giúp
đỡ từ bên ngoài để giành độc lập; điều cần thiết là phải dựa vào chính
mình và con đường cách mạng đúng đắn là vô sản.”

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành) đã
tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đề cao
những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách
mạng tư sản tiêu biểu nhưng Người cũng nhận thức rõ và phê phán bản chất
không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Tư
bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ
phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp
bức dân.
Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Đây là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
khẳng định một cách dứt khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản không thể
đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân
dân Việt Nam nói riêng.
Trong giai đoạn 1911 - 1920, Nguyễn Tất Thành đã đi đến nhiều nơi trên thế
giới để tìm hiểu, “ Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên
khoảng gần 30 nước, là một trong những nhà chính trị đã đi nhiều nhất, có vốn
hiểu biết phong phú nhất về thực tế các thuộc địa cũng như các nước tư bản đế
quốc chủ yếu nhất trong những thập niên đầu của thế kỷ XX...”. Nguyễn Tất
Thành đặc biệt quan tâm, tìm hiểu, khảo sát cuộc Cách mạng Tháng Mười; liên
hệ giữa cách mạng Nga năm 1917 với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
21
Nam và rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam...Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta
rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải
có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Mặc dù Bản yêu sách tám điểm của Người với bút danh Nguyễn Ái Quốc gửi
tới Hội nghị hòa bình ở Véc xây - Pháp (1919) không được xem xét nhưng
“Người Pháp coi cuộc đấu tranh đó là một quả bom làm chấn động dư luận
nước Pháp. Còn người Việt Nam coi đó là tiếng sấm mùa xuân... độ ấy người
mình ở Pháp gặp nhau đều nói độc lập, tự quyết, đều nói đến Nguyễn Ái Quốc.
Chính cái tên Nguyễn Ái Quốc, bản thân nó có sức hấp dẫn kỳ lạ”. Qua đây,
Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc; muốn được giải
phóng các dân tộc thuộc địa không có con đường nào khác ngoài con đường đấu
tranh; và các dân tộc chỉ có thể dựa vào lực lượng của bản thân mình, vào chính
thực lực của bản nhân dân mình.
Bằng hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua tầm nhìn hạn chế, ảo
tưởng mong chờ sự giúp đỡ của các chính phủ đế quốc đã từng tồn tại ở một số
nhà yêu nước khác cùng thời. Nguyễn Ái Quốc nhận rõ, trong thế giới chỉ có
“một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’
Humanité, Người nhận ra: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”. Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong Luận cương của Lê nin
lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; lời giải đáp về
vấn đề dân tộc thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới -
mối quan hệ giữa yếu tố sức mạnh dân tộc với sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế.
Người nhận thức được rằng: “Không có một sức mạnh thống nhất của cả nước,
22
không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, công cuộc vận động giải phóng
khó mà thành công được”.
Cuộc gặp gỡ với chủ nghĩa Mác - Lênin vào những năm 20 của Thế kỷ XX là
sự kiện đánh dấu Nguyễn Ái Quốc giác ngộ lập trường, quan điểm vô sản và
quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam theo quỹ đạo của
cách mạng vô sản.

“Thứ hai, Nếu như phần lớn những người Việt Nam xuất dương lúc bấy
giờ là để tìm sự giúp đỡ của bên ngoài, cầu ngoại viện để đánh Pháp, thì
Nguyễn Ái Quốc ra đi là để tìm con đường, cách thức (phương pháp)
đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào.”

Người nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau
khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. ( Mục
đích)
Nguyễn Tất Thành đi sang Pháp. “Các lý do hấp dẫn đưa Người đến nước Pháp
là những truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc
mà Người được nghe, biết và sự tàn bạo của bọn thực dân ở thuộc địa mà Người
đã chứng kiến...Năm 1923, tại Mátxcơva khi trả lời cuộc phỏng vấn của phóng
viên tạp chí Ngọn lửa nhỏ, Người đã giải thích quyết định ra đi của mình như
sau: “Vào trạc tuổi 13 lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: tự
do, bình đẳng, bác ái – đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là
người Pháp - thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp”. Đi sang Pháp tìm
hiểu tận gốc kẻ thù đang áp bức nô dịch đất nước mình, để từ đó có phương
pháp và vũ khí phù hợp đánh đuổi chúng, phải chăng đây cũng là một lý do
quyết định hướng đi của Người. ( Hướng đi)

“Thứ ba, cách đi của Nguyễn Ái Quốc.”

23
Nguyễn Ái Quốc suốt gần 10 năm hoàn toàn sống bằng lao động, với đủ mọi
nghề kể cả những nghề cực nhọc nhất. Tự mình lao động để sống, sống để học
hỏi, sống để tìm cho kỳ được “Cái cần thiết cho chúng ta”. “Con đường giải
phóng chúng ta”. Trong một con người Nguyễn Ái Quốc có cùng 2 thân phận:
người dân mất nước và người lao động bị áp bức. Và như thế, trên cuộc hành
trình của mình với sự lăn lộn trong cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân
dân các nước, với tầm hiểu biết rộng lớn và vốn thực tiễn sâu sắc, phong phú
Người đã có nhận thức sâu rộng hơn sự gắn bó mật thiết giữa yêu nước với
thương dân, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng người lao động đồng thời
nhận thức về thế giới và thời đại theo một lập trường và quan điểm mới so với
các nhà yêu nước đương thời.Nguyễn Tất Thành đã hòa mình, gần gũi với cuộc
sống của nhân dân lao động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được nguyện vọng
và ý chí, năng lực của họ và đồng cảm với họ. Đó là nhận điện đúng đắn kẻ thù
chung của cách mạng thế giới - chủ nghĩa thực dân đế quốc; nhận thức đúng đắn
về lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới - nhân dân lao động.

3. Quá trình học tập và tu dưỡng


Tháng 9 - 1905, vào tuổi 13, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân
phụ Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học
Pháp - bản xứ ở Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu
TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI và “muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”. Trong thời gian làm
thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (1910), Nguyễn Tất Thành được
đọc Tân thư trong gia đình cụ Nguyễn Thông, tiếp cận với các thuyết nhân
quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do những triết gia và văn hào Pháp
khởi xướng như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire… Nguyễn Tất
Thành được đọc một số tờ báo phát hành sang Việt Nam, nên “nảy ra ý muốn
sang xem “mẫu quốc” ra sao”.
24
Ý tưởng đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành
tựu văn minh nhân loại từng bước lớn lên trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thể
hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là bước khởi động để đưa
Việt Nam hội nhập vào các trào lưu tiến bộ của thời đại.
Nguyễn Tất Thành nhận thấy hạn chế trong phong trào cứu nước của các vị tiền
bối. Phong trào Đông Du tan rã, chứng tỏ không thể dựa vào Nhật để đánh
Pháp, điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thất bại
của phong trào Duy tân cũng cho thấy việc trông chờ vào thiện chí của người
Pháp để được trao trả nền độc lập cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”.
Khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, “nhưng vẫn mang
nặng cốt cách phong kiến". Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu
nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không theo con đường của
họ.
Được theo phụ thân đi nhiều nơi gặp những người cùng chí hướng để bàn luận
về thời cuộc, Nguyễn Tất Thành có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tầm suy nghĩ,
thấy rõ sự thống khổ của nhân dân, nên “sớm có chí đuổi thực dân Pháp giải
phóng đồng bào” và không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của
nhân dân không thành công. Làm thế nào để cứu nước là câu hỏi sớm được đặt
ra trong tâm trí người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
Năm học 1908 - 1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, tận
mắt chứng kiến cảnh thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam,
được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành
Thái, Duy Tân và những bàn luận của những sĩ phu yêu nước về con đường cứu
nước.
Ngày 4 - 12 - 1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của
nông dân Thừa Thiên. Họ đi tay không, chỉ đòi giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết
nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào”. Vì những hoạt động
yêu nước, Nguyễn Tất Thành bị người Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh

25
Sắc cũng bị chính quyền thuộc địa khiển trách vì để con trai có những hoạt động
bài Pháp.
Tháng 6 năm 1910, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình tiểu học. Người
không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Lần đầu tiên
Người được tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp
như Rútxô (Rousseau), Vônte (Voltaire), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Sự tiếp
cận với những tư tưởng mới đó càng thôi thúc Người tìm đường đi ra nước
ngoài.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) http://btxvnt.org.vn/truyen-thong-que-huong-xu-nghe-truyen-thong-gia-
dinh-coi-nguon-thuc-day-chu-tich-ho-chi-minh-ra-di-tim-duong-cuu-
nuoc-post2604
(2) https://dbndnghean.vn/truyen-thong-que-huong-gia-dinh-voi-su-hinh-
thanh-nhan-cach-tu-tuong-yeu-nuoc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-5253.htm
(3) https://dbndnghean.vn/truyen-thong-que-huong-gia-dinh-voi-su-hinh-
thanh-nhan-cach-tu-tuong-yeu-nuoc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-5253.htm
(4) http://btxvnt.org.vn/truyen-thong-que-huong-xu-nghe-truyen-thong-gia-
dinh-coi-nguon-thuc-day-chu-tich-ho-chi-minh-ra-di-tim-duong-cuu-
nuoc-post2604
(5) https://prezi.com/vusgokjyb_9o/su-hinh-thanh-tu-tuong-yeu-nuoc-va-chi-
huong-cuu-nuoc-cua-ho-chi-minh-thoi-ki-truoc-nam-1911/
(6) https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-
cuu-nuoc/hanh-trinh-lich-su/khong-gi-co-the-phu-nhan-tam-long-yeu-
nuoc-thuong-dan-cua-nguyen-tat-thanh-661528
(7) https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Cong-cuoc-
chong-Phap-bao-ve-doc-lap-dan-toc-o-Thua-Thien-Hue-1883-
%E2%80%93-1885/newsid/2CC53DEC-4155-4ACA-BC5A-
FA8D70F4FCDB/cid/0381654F-3642-42AA-8235-EC47C1374ECE
(8) https://luatminhkhue.vn/amp/tim-hieu-ve-tuyen-ngon-nhan-quyen-va-
dan-quyen-cua-cach-mang-phap--.aspx
(9) http://baoquankhu4.com.vn/dat-va-nguoi-quan-khu-4/thoi-nien-thieu-cua-
chu-tich-ho-chi-minh-1890-1911-.htm
(10) https://luatminhkhue.vn/amp/cuoc-khai-thac-thuoc-dia-lan-thu-
nhat-cua-thuc-dan-phap.aspx

27
(11) http://m.tuoitrebinhduong.vn/tin-tuc/su-khac-biet-trong-con-duong-
cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-19487.html

28

You might also like