You are on page 1of 5

1.

2 Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

1.2.1 Khái niệm thực tiễn

Thực tiễn, theo quan niệm của Triết học Mác - Lênin được sử dụng để chỉ ra
rằng triết học không chỉ là một lĩnh vực trừu tượng, mà còn liên quan mật thiết
đến cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Là toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội.

- Hoạt động sản xuất vật chất: Là hình thức thực tiễn đầu tiên nguyên thủy
nhất mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động với tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất. Ví dụ: hoạt động gặt lúa của nông dân, hoạt
động của các công nhân trong nhà máy sản xuất,...
- Hoạt động chính trị - xã hội: Là hoạt động thuộc về các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm tạo ra các mối quan hệ xã hội giúp thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Ví dụ: hoạt động bầu cử Quốc hội, hoạt động
tiến hành đại hội Đoàn Thanh niên,...
- Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hoạt động được thực hiện bởi con
người hoặc được con người lặp lại những trạng thái tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của các đối tượng nghiên cứu.
Ví dụ: hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học để tìm ra vacxin phòng
ngừa dịch bệnh,...12

Các hình thức của thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong đó
hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết
định đối với các hình thức thực tiễn khác.

1.2.2 Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn vừa là cơ sở vừa là động lực của nhận thức, cụ thể:

1
Giáo trình Triết học Mác Lênin
2
Wikipedia https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%B1c_ti%E1%BB%85n_(tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB
%8Dc)
- Cơ sở: Thực tiễn là nền tảng của nhận thức, cung cấp “tài liệu” cho hiện
thực khách quan giúp con người có được nhận thức đồng thời thúc đẩy sự
nhận thức phát triển.
 Qua các hoạt động thực tiễn, con người cho sự vật bộc lộ những
thuộc tính, những mối liên hệ và con người dựa trên cơ sở đó để nhận
thức chúng. Một ví dụ cho khái niệm này có thể là quá trình nghiên
cứu khoa học về tính chất của nước. Thông qua việc tiến hành các thí
nghiệm và quan sát trực tiếp, con người có thể phát hiện ra rằng nước
có các thuộc tính như trong suốt, dẫn điện, dẫn nhiệt và tự nhiên tồn
tại dưới ba trạng thái: rắn, lỏng và khí. Những khám phá này được đặt
trên cơ sở của hoạt động thực tiễn và từ đó con người nhận thức và
hiểu rõ hơn về tính chất của nước.
 Thông qua các nhận thức thực tiễn, con người ngày càng hoàn thiện
hơn các giác quan của mình mà từ đó khả năng nhận thức ngày càng
được nâng cao. Một ví dụ cụ thể cho khái niệm này là quá trình học
tập và trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Khi con người tiếp xúc
với nhiều trải nghiệm và thông tin khác nhau, các giác quan của họ,
như thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác, được kích
thích và phát triển như qua việc đọc sách, nghe nhạc, tham gia vào
các hoạt động thể chất và tương tác xã hội, con người có cơ hội cải
thiện khả năng quan sát, nghe và cảm nhận môi trường xung quanh.
Điều này dẫn đến việc nâng cao khả năng nhận thức của họ, giúp họ
hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới xung quanh và bản thân mình.
- Động lực: Là yêu cầu của thực tiễn sản xuất vật chất và chính trị - xã hội
buộc con người phải nhận thức thế giới. Mặc dù nhu cầu nhận thức của con
người là vô hạn nhưng qua hoạt động thực tiễn con người ngày càng bộc lộ
sự mâu thuẫn giữa nhận thức có hạn của mình với sự vận động phát triển
không ngừng của thế giới khách quan, từ đó thúc đẩy con người phải liên tục
nhận thức. Ví dụ cụ thể cho khái niệm này là cuộc sống hàng ngày của một
nhà khoa học. Nhà khoa học luôn đặt ra nhiều câu hỏi về thế giới xung
quanh và cố gắng tìm kiếm câu trả lời thông qua nghiên cứu và thí nghiệm.
Điều này phản ánh động lực của thực tiễn, bởi vì nhu cầu sản xuất vật chất
(ví dụ: phát triển công nghệ mới) và nhu cầu chính trị - xã hội (ví dụ: giải
quyết vấn đề môi trường) đòi hỏi con người phải liên tục nhận thức thế giới
để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề này. Mặc dù nhà khoa học có kiến
thức hạn chế và khả năng nhận thức bị giới hạn, nhưng họ vẫn phải liên tục
học hỏi và nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và vận động phát triển
không ngừng của thế giới khách quan.

Thực tiễn thúc đẩy sự ra đời mạnh mẽ các ngành khoa học tự nhiên và xã hội:

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích cuối cùng của thực tiễn là
giúp con người trong hoạt động biến đổi thế giới, cải tạo hiện thực khách
quan nhằm phục vụ đời sống vật chất-tinh thần của con người và xã hội loài
người. Một ví dụ cho khái niệm này là việc áp dụng kiến thức khoa học để
giải quyết vấn đề nước sạch trong cộng đồng. Thực tiễn yêu cầu chúng ta
nhận thức về tình trạng nước sạch là một yêu cầu thiết yếu để cải thiện chất
lượng cuộc sống của cả xã hội. Các nhà khoa học, kỹ sư và chính trị gia
cùng hợp tác để nghiên cứu và phát triển các phương pháp xử lý nước hiệu
quả và tiết kiệm chi phí. Qua việc áp dụng kiến thức khoa học và công nghệ
vào thực tiễn, họ giúp cải tạo hiện thực khách quan bằng cách cung cấp
nước sạch và an toàn cho cộng đồng, phục vụ cho đời sống vật chất và tinh
thần của con người và xã hội.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Qua thực tiễn kiểm nghiệm của nhận
thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn, vậy
nên chính thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong
nhận thức. Một ví dụ cho khái niệm này là việc áp dụng phương pháp khoa
học để kiểm tra hiệu quả của một loại thuốc mới. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta
kiểm tra và đánh giá các thông tin và dữ liệu thu thập được từ thí nghiệm và
nghiên cứu. Trong trường hợp này, nếu một loại thuốc được phát triển để
điều trị một bệnh lý cụ thể, thì các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành các thử
nghiệm lâm sàng để kiểm tra hiệu quả và an toàn của thuốc đó trên con
người. Kết quả của các thử nghiệm này, được coi là thực tiễn, sẽ là tiêu
chuẩn để xác định liệu thuốc đó có thực sự hiệu quả và an toàn hay không và
do đó, chính thực tiễn trở thành thước đo giá trị của những kiến thức khoa
học đã đạt được trong quá trình nghiên cứu và nhận thức.

Thực tiễn là tiêu chuẩn một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tương
đối, vừa có tính tuyệt đối:

- Tính tuyệt đối thể hiện ở: Thực tiễn là cái duy nhất, là tiêu chuẩn khách
quan để kiểm nghiệm chân lý, ngoài ra không có cái nào khác. Vì vậy chỉ có
thực tiễn mới có khả năng xác đúng cái đúng và bác bỏ cái sai ở mỗi giai
đoạn lịch sử để có thể xác định được chân lý. Ví dụ như trong lịch sử ta đã
học về cuộc Cách mạng Công nghiệp đã thay đổi hoàn toàn cách con người
sản xuất và sinh sống. Thực tiễn của cuộc Cách mạng Công nghiệp là duy
nhất và không thể thay thế. Nó là tiêu chuẩn tuyệt đối để đánh giá và so sánh
với các giai đoạn lịch sử khác.
- Tính tương đối thể hiện ở: Thực tiễn ngay một lúc nào đó không thể ngay
lập tức khẳng định được cái đúng và bác bỏ cái sai. Hơn nữa, bản chất hiện
thực luôn vận động và phát triển một cách liên tục nên thực tiễn có thể phù
hợp ở giai đoạn lịch sử này nhưng lại không phù hợp ở giai đoạn lịch sử
khác.3 Ví dụ như trong lĩnh vực khoa học, các lý thuyết được xem xét và
thay đổi theo thời gian dựa trên sự phát triển của kiến thức và công nghệ có
thể kể đến như lý thuyết về vận tốc ánh sáng trong vũ trụ đã trải qua nhiều
điều chỉnh và cải tiến từ thời Newton cho đến thời Einstein. Sự phát triển
của kiến thức và công nghệ đã làm thay đổi cách chúng ta hiểu về hiện thực,
biến thực tiễn thành một tiêu chuẩn tương đối mà phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử khác nhau.

Ý nghĩa:

- Nhờ có thực tiễn mà bản chất của nhận thức mới được làm rõ
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của chân lý nên mọi
nhận thức đều xuất phát từ thực tiễn

3
Giáo trình Triết học Mác Lênin
- Phải thường xuyên quán triệt những quan điểm thực tiễn, luôn đi sâu, đi sát
thực tiễn, tiến hành nghiên cứu và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc
nhằm giúp chúng ta tránh những chủ quan sai lầm như chủ nghĩa chủ quan,
giáo điều bảo thủ, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa xem lại...4

4
https://phandien76.violet.vn/

You might also like