You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

̣
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Kinh tế chính trị Mác – Lênin

̣
Đề tài: Lý luận sản xuất hàng hoá của C.Mác và vận dụng vào
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Nhóm: 2

Lớp học phần: 2202RLCP1211

Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Thị Vân

Hà Nội, ngày 2 tháng 4 năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ.............................................3
1.1.  Hàng hóa và thuộc tính của hàng hóa:..........................................................................................3
1.2. Sản xuất hàng hóa:.........................................................................................................................3
1.2.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa:........................................................................................3
1.2.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:.............................................................................3
1.2.3. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:........................................................................3
1.3 Các quy luật của sản xuất hàng hóa:...............................................................................................4
1.3.1 Quy luật giá trị:....................................................................................................................4
1.3.2 Quy luật cạnh tranh:.............................................................................................................5
1.3.3. Quy luật cung cầu:..............................................................................................................6
1.3.4. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát:...............................................................................6
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ CỦA C.MÁC VÀO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................7
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:.................................7
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường:..............................................................................................7
2.1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường:...............................................................................7
2.2. Thực trạng vận dụng lý luận sản xuất hàng hoá của C.MÁC vào phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay:...............................................................................................................................8
2.2.1 Tổng quan nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay:.....................................................8
2.2.2. Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay:........................................................................................................................................9
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM....................................................................................................................10
3.1. Thành tựu:....................................................................................................................................10
3.2. Tiềm năng và hạn chế:.................................................................................................................11
3.3. Những biện pháp vận dụng hiệu quả:...........................................................................................12
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................14
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................16

1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của từng quốc gia
từng dân tộc. Vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế trong nhiều thập kỉ qua. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển
ở trình độ cao. Ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự
tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Có thể thấy sản xuất hàng hóa và hàng hóa đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế thị trường, những lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác đã cho ta thấy được vai
trò quan trọng đó của sản xuất hàng hóa và hàng hóa. Lý luận của C.Mác chỉ ra các phạm trù
cơ bản về hàng hóa, tiền tệ, giá cả, quy luật giá trị, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, năng suất lao động... giúp cho việc nhận thức một cách căn bản cơ sở lý luận của các
mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Chính vì thế, việc nghiên cứu về lý luận
sản xuất hàng hóa của C.Mác và tìm hiểu vai trò cũng như tác động của nó đến nền kinh tế,
đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa vô
cùng quan trọng và cần thiết.
Với mong muốn tìm hiểu rõ bản chất, mối quan hệ của lý luận sản xuất hàng hóa với
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhóm 2 quyết định chọn đề tài thảo luận: “Lý luận sản
xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay”
Nội dung bài thảo luận gồm có 3 chương:
 Chương 1: Lý luận của C.Mác về sản xuất hàng hóa.
 Chương 2: Vận dụng lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác vào phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
 Chương 3: Đánh giá
Bài thảo luận chúng em còn nhiều thiếu sót, mong cô và các bạn góp ý để giúp bài thảo luận
của nhóm 2 được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
1.1.  Hàng hóa và thuộc tính của hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị:
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người. Vì vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng do mình
sản xuất ra để ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua. Nền sản
xuất càng phát triển, hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của
sản phẩm.
- Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa người những sản
xuất, trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Khi trao đổi người ta ngầm so sánh lao
động đã hao phí ẩn dấu trong hàng hóa với nhau. Trong thực hiện sản xuất hàng hóa, để thu
được hao phí lao động đã kết tinh, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng để
được thị trường chấp nhận và hàng hóa phải được bán đi.
1.2. Sản xuất hàng hóa:
1.2.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa:
Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức mà ở đó, những người sản xuất ra sản
phẩm không nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của chính mình mà để trao đổi, mua bán.
1.2.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người.
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là, phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành
những ngành, nghề khác nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Theo C. Mác: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập với nhau và
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”. Sự tách biệt về
kinh tế giữa những người sản xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã
hội càng phát triển, sự tách biệt về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng
phong phú.
1.2.3. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán, không phải để người
sản xuất ra nó tiêu dùng.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của
khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa.
3
Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải là giá
trị sử dụng.
Sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp có những ưu thế cơ bản sau
đây:
Một là, sự phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng
ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy
mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động.
Hai là, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong
sản xuất - kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy, họ phải ra sức cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy trình, mẫu mã hàng hóa, tổ chức
tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự túc về quy
mô, trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu... Vì vậy, sản xuất hàng
hóa quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện đại phù hợp với xu thế thời đại ngày
nay.
Bốn là, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế, giao lưu
văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xóa bó nền kinh tế tự nhiên, phát
triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
1.3 Các quy luật của sản xuất hàng hóa:
1.3.1 Quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Do đó ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự xuất hiện và hoạt động của quy
luật giá trị. 
Nội dung quy luật giá trị: Yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Do đó, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội
thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hóa cá biệt phải phù hợp với thời gian lao
động xã hội cần thiết. Vì vậy, họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt
xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi, phải
tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở không dựa trên giá trị cá
biệt.
Quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau trong nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong sản xuất, thông qua sự biến động của giá cả người sản xuất sẽ biết được tình
hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa bằng
hoặc lớn hơn giá trị thì việc sản xuất nên được tiếp tục ảnh, mở rộng. Tư liệu sản xuất, sức
lao động sẽ được tự phát dịch chuyển vào ngành đang có giá cả cao.

4
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có
giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá
cả thị trường, hàng hóa ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn,
góp phần làm cho cung cầu hàng hóa giữa các vùng cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa
các vùng miền, điều chỉnh sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp mua
nhiều).
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động.
Để đứng vững trong cạnh tranh và không bị phá sản người sản xuất phải luôn tìm
cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy,
phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lý, thực hiện tiết
kiệm… Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên,
chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hóa, người
sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng…
làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, thuận tiện với chi phí thấp
nhất. 
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu nghèo một cách tự
nhiên.
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ
năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ trở nên
giàu có. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ
công nghệ lạc hậu… thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ lâm vào trạng thái thua
lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý chạy
theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế…  là những yếu tố có thể làm
tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những tiêu cực về kinh tế xã hội khác.
Quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ,
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người
sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những tác động tích cực
lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường.
1.3.2 Quy luật cạnh tranh: 
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ do
ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật cạnh tranh
yêu cầu, khi tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh bên cạnh sự hợp tác, luôn
phải chấp nhận cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể trong nội bộ
ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng
một ngành hàng hóa. Đây là một trong những phương thức để thực hiện lợi ích của doanh
nghiệp trong cùng một ngành sản xuất. Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cải
tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá
trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó. Kết quả cạnh tranh
trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của từng loại hàng hóa.

5
- Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh giữa các
ngành khác nhau và là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh ở các ngành sản xuất
khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là nhằm tìm
nơi đầu tư có lợi nhất. Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di
chuyển nguồn lực của mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh
doanh khác nhau.
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
- Tác động tích cực của cạnh tranh: Thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, thúc
đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân
bổ các nguồn lực, và cạnh tranh còn thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
- Tác động tiêu cực của cạnh tranh: Cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi
trường kinh doanh, gây lãng phí nguồn lực xã hội và làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
1.3.3. Quy luật cung cầu:
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên
thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất. 
Trên thị trường đâu, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác
động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn
giá trị và ngược lại. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác
nhau.
Quy luật cung cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa;
làm thay đổi cơ cấu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá của hàng hóa; giúp dự đoán xu
thế biến động của giá cả. Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung cầu tồn tại và hoạt
động một cách khách quan. Nhận thức được những tác dụng đó thì có thể vận dụng để tác
động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước
có thể vận dụng quy luật cung cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá
cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng… để tác động vào
các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
1.3.4. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát:
Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ theo yêu cầu của
hàng hóa và dịch vụ. Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số lượng tiền cần thiết cho lưu
thông trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng hóa. Việc không ăn
khớp giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hóa có thể dẫn đến trì trệ hoặc lạm phát. 
- Về nguyên lý, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định
được xác định bằng công thức tổng quát sau:
PxQ
M=
V
Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định;
P là mức giá cả;
Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông;
V là số vòng lưu thông của đồng tiền. 

6
- Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ
biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau: 
M =PxQ−¿ ¿ ¿
Trong đó: P.Q là tổng giá cả hàng hóa;
G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau;
G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán;
V là số vòng quay trung bình của tiền tệ. 
Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá
trị, giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát. Bởi vậy, nhà nước không thể in và phát hành
tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lý của quy luật lưu thông tiền tệ.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ CỦA C.MÁC VÀO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường. Trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị
để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
2.1.2. Đặc điểm chính của kinh tế thị trường:
Thứ nhất, Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng
rãi không chỉ trong thị trường một nước mà giữa các thị trường với nhau; gồm thị trường các
nhân tố sản xuất, thị trường hàng hóa và dịch vụ và các loại thị trường khác. Các thị trường
đó đều phát triển và cạnh tranh công bằng, kết nối các nền kinh tế khu vực và trên toàn cầu.
Thứ hai, sở hữu tài sản và quyền sở hữu tài sản rõ ràng, được xác định cụ thể và được
bảo vệ một cách chắc chắn với độ tin cậy cao.
Thứ ba, các chủ thể thị trường cần phải độc lập về pháp lý và đa dạng về loại hình; có
quyền tự chủ và tự do kinh doanh; tức là tự do quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu,
sản xuất như thế nào, tự do quyết định giá và trao đổi theo cung cầu thị trường.
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành phần của nền
kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt động của mình.
Tham gia vào nền kinh tế thị trường có các chủ thể chính như sau:
- Nhà nước: có vai trò trong việc đảm bảo cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế. Nhà
nước thực hiện các chức năng cơ bản như chức năng xây dựng thể chế, cung cấp các hàng
hóa công cộng thuần túy, quan tâm đến các yếu tố ngoại ứng, kiểm soát độc quyền và phân
phối các hoạt động tư nhân và phân phối lại của cải xã hội.
- Doanh nghiệp: là nơi trực tiếp sản xuất mọi loại hàng hóa và dịch vụ được trao đổi
trên thị trường. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế doanh nghiệp với tư cách là chủ thể
quan trọng của kinh tế thị trường là khâu sống còn, chi phối mức độ lớn động thái của nền
kinh tế.

7
- Người tiêu dùng: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế sản xuất ra nhằm mục tiêu để
bán, tức là người sản xuất là người bán những hàng hóa sản xuất để đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng. Người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường vì nhu
cầu của họ là căn cứ cho sự phát triển sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Tính phong phú của hàng hóa: Các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy hoạt động
của mình nên bất cứ hàng hóa nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất. Nhu cầu của con
người thì vô cùng phong phú dẫn tới sự phong phú của hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường.
Thứ tư, thị trường tất cả các loại tất yếu có cạnh tranh công bằng và trật tự; độc quyền
kinh doanh được kiểm soát có hiệu quả; cạnh tranh không công bằng, không lành mạnh bị
loại trừ. Tự do kinh doanh và cạnh tranh thị trường công bằng, có trật tự là hai yếu tố cơ bản
chi phối phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế và sự lựa chọn của các chủ thể thị trường.
Thứ năm, giá cả tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất (vốn, đất đai,
lao động, tài nguyên thiên nhiên…) đều được quyết định dựa trên sự khan hiếm, cạnh tranh
và quan hệ cung – cầu của yếu tố thị trường.
Do đó, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, không một chủ thể kinh tế nào
quyết định được giá cả. Nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều
tiết của cơ chế thị trường gồm các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh… tác động, phối hợp hoạt động của toàn bộ thị
trường thành một hệ thống thống nhất.
Thứ sáu, sự đào thải sáng tạo hay cạnh tranh thị trường một cách công bằng, có trật tự
sẽ lựa chọn người thắng cuộc. Hàng hóa nào có nhu cầu lớn thì sẽ có nhiều người sản xuất.
Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng thì việc cạnh tranh là tất yếu.
2.2. Thực trạng vận dụng lý luận sản xuất hàng hoá của C.MÁC vào phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay:
2.2.1 Tổng quan nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay:
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa
phát triển, bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hóa của nước ta không giống như
nền sản xuất hàng hóa của nước khác trên thế giới, thiếu cái cốt vật chất của một nền kinh tế
phát triển với những đặc trưng tiêu biểu:
- Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển biến từ kém phát triển, mang nặng tính tự
cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa, vận
hành theo cơ chế thị trường.
Xuất phát từ thực trạng “tiêu điều”, nền kinh tế nước ta sau nhiều năm chiến tranh,
kết cấu hạ tầng và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất, công nghệ lạc hậu, thu thập bình quân
cả nước còn thấp khiến dung lượng hàng hóa trên thị trường thay đổi rất chậm chạp, khả
năng cạnh tranh thấp. Và nền kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế
nước ta ra khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp thời
đại.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đất nước chuyển sang cơ chế thị trường là
phù hợp quy luật khách quan, đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống. Nhờ chuyển sang nền
kinh tế thị trường mà kinh tế thay đổi căn bản, nhờ cơ chế thị trường mà phân bố các nguồn

8
lực một cách hiệu quả hơn. Các động lực lợi ích đã phát huy tác dụng, cơ chế quản lí, mới
được vận hành và ngày càng tham gia tốt hơn vào phân công lao động quốc tế.
- Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng
đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, phát triển nền kinh tế hàng hóa cả trong điều
kiện ngân sách hạn hẹp. Nó vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu
cầu xã hội, lại vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng XHCN.
Nhận thức được tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là tất yếu khách quan, từ
đó có thái dộ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển theo nguyên tắc tự nhiên của
kinh tế, phục vụ cho việc đi lên XHCN ở nước ta.
- Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng xhcn với vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước và sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý
của nhà nước. Về bản chất, đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng XHCN, vừa kế thừa
những thành tựu của loài người, vừa gắn liền với đặc điểm và mục tiêu chính trị là kết hợp
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Trước đây, ta đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế
tư bản chủ nghĩa, cho thị trường là bản chất. Giờ đây ta hiểu rằng thị trường không mang
bản chất chế độ, mà là chế độ xã hội có biết tận dụng lợi thế đó để phục vụ chế độ mình
không.
Trong các thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo do bản chất vốn
có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên đảm bảo cho các thành
phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai trò của nó chỉ được
khẳng định khi phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác, sớm chuyển
đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả để đứng vững và chiến
thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.
Mặt khác sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường không thể nào
giải quyết được hết những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế - xã hội
đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hóa bất bình đẳng, ô nhiễm
môi trường…Những hiện tượng và tình trạng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay
gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói
chung và nền kinh tế hàng hóa nói riêng. Vì vậy, sự quản lí vĩ mô của nhà nước là không thể
thiếu.
2.2.2. Sự biểu hiện của lý luận sản xuất hàng hóa trong phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay:
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
- Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng XHCN: Phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về
tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi tiến
9
hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
- Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế; trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền
kinh tế.
- Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân
phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
- Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản
lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội. Đảng khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế
vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh
tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phát huy những
ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền
kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính sách,
pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. Nhà
nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường pháp lý
cho sự phát triển các thành phần và các chủ thể kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc
phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
- Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một
động lực để xây dựng CNXH, hội nhập quốc tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật kinh tế
cơ bản tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1. Thành tựu:
Hiện nay, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam đã thành công khi áp
dụng đúng đắn một số biện pháp được vận dụng hiệu quả từ lý luận sản xuất hàng hóa của C.
Mác. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể và đầy
triển vọng. Chúng ta đã thực hiện phân công lao động một cách hiệu quả theo như một trong
hai điều kiện tiên quyết C. Mác đã đề ra. C. Mác nhận định phân công lao động xã hội là
biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, “Trình độ phát triển lực lượng sản
xuất của một dân tộc bộc lộ rõ ràng nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động”,

10
và cho rằng “phân công là hình thức cơ bản của nền sản xuất xã hội”. Ưu thế của nó là sẽ
giúp ta thấy được sức mạnh của sự phân công lao động xã hội trên cơ sở phát huy từng thế
mạnh của từng cá nhân, từng khu vực trong việc tạo nên giá trị thặng dư phát triển xã hội.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam phát triển phù hợp lực lượng sản xuất xã
hội thì sản phẩm xã hội sẽ ngày càng phong phú đáp ứng với nhu cầu đa dạng của mỗi
người. Hiện tại, Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế phát triển các vùng thâm canh,
chuyên môn hóa...
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, quan hệ phân phối bảo đảm công
bằng và tạo động lực cho phát triển. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những
người có hoàn cảnh khó khăn, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp xã hội.
Phát huy vai trò của các vùng kinh tế động lực, đồng thời, quan tâm phát triển các vùng kinh
tế chậm phát triển, không để mở rộng khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa
các vùng, các địa phương. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phát triển
của đất nước.
Việt Nam hiện đang là một trong những nước trên thế giới tham gia xuất khẩu nhiều
mặt hàng quan trọng nhất, cả về gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và gần đây là các mặt hàng
nhân tạo như giày dép, hàng may mặc và điện tử. Xuất khẩu quan trọng nhất, cả về các mặt
hàng như gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản và gần đây là các mặt hàng nhân tạo như giày dép,
hàng may mặc và điện tử. Hoạt động thương mại quốc tế hiện nay của Việt Nam đã áp dụng
đúng đắn điều kiện: Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất mà C. Mác đã nêu
ra trong lý luận về sản xuất hàng hóa của mình.
3.2. Tiềm năng và hạn chế:
 Tiềm năng:
Cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta phát triển nhờ có sự
chuyển đối từ kinh tế hàng hóa lên kinh tế thị trường:
- Phân công lao động xã hội ở nước ta: với tư cách là cơ sở chung của sản xuất hàng
hóa chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát tiến mạnh về cả chiều rộng lẫn
chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển,
thể hiện ở tính đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm trao đổi trên thị trường.
Việc chuyên môn hóa sản xuất không chỉ ở các sản phẩm với nhau mà còn ở các chi tiết của
một sản phẩm.
- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể: tồn tại nhiều loại hình sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất nên tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên
quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thực hiện bằng quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
 Hạn chế:
- Kinh tế thị trường ở trình độ thấp kém: Chúng ta tiến hành chuyển nền kinh tế từ nền
kinh tế tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN bắt đầu vào năm 1989, tuy thu được
những thành tựu to lớn song nền kinh tế của chúng ta vẫn ở trình độ thấp kém.
- Các loại thị trường đã được hình thành phát triển nhưng chưa đồng bộ.
11
- Nhiều thành phần kinh tế tham thị trường: Nền KTTT định hướng XHCN ở VIệt
Nam có nhiều thành phần kinh tế tham gia trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo do
vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại đan xen với
nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.
- Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng ta nhận định “hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và
nhất quán, thực hiện chưa nghiêm, công tác tài chính, ngân hàng giá cả, kế hoạch hóa, quy
hoạch xây dựng quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính…đổi mới chậm.
Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ
đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp
gây tác động xấu tới sản xuất. Chế độ phân phối còn bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập
siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kIềm chế nhưng chưa vững chắc”
- Nền kinh tế mở cửa hội nhập trong tình trạng trình độ phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta còn quá thấp so với các nước khác: Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa về
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra cho mỗi nước những thuận lợi nhưng đồng thời là
những khó khăn thách thức hết sức gay gắt. Tuy nhiên với thực trạng nền kinh tế của chúng
ta như hiện nay, vấn đề hội nhập đang đặt ra cho Nhà nước và các doanh nghiệp phát huy nỗ
lực để chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập. Phải đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá để
khi chúng ta chủ động hội nhập sẽ không bị bỡ ngỡ và hội nhập một cách có hiệu quả.
3.3. Những biện pháp vận dụng hiệu quả:
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là
một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, nhờ đó mà sử
dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. Tất cả các thành phần kinh
tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mô, tỷ trọng, trình độ có khác nhau nhưng
tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã
hội, phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo
hướng chuyên môn hóa, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành
nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao
động.
Cần tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động
trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế
giới. Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài
nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.
Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; phát triển vững
chắc thị trường tài chính theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất
động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản; phát triển thị trường sức
lao động trong mọi khu vực kinh tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ…
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
12
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu
thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy cần
đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ,
mất cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong
và ngoài nước. Vì thế, trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số
yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống thông
tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm…
- Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài
chính, tiền tệ, giá cả
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển, là điều kiện để
các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định
chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng
cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt là công cụ rất quan trọng để
quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát
triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài
chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản
lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi.
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu kinh tế thị
trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật, chính sách và các
đòn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt,
ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước…
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ (vĩ mô và vi mô) tương ứng, phải có
năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm,
chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường XHCN mà nhân dân ta đã chọn. Song song
với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn
với đội ngũ đó, nhằm kích thích nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh
doanh.
- Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác; phải quán triệt nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ
chính trị – xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và đầu tư nước
ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.

13
KẾT LUẬN
Đất nước ta đã trải qua hơn hai mươi năm trên chặng đường đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta mới chỉ bắt đầu phát triển một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ chế thị trường. Việt
Nam khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường đã hội tụ những
điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Do đó, nhờ áp dụng lý luận về sản xuất hàng hóa và hàng hóa của C.Mác đã tạo cơ
hội cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam cho đến ngày nay. Lý luận
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Nó giải thích được bản chất của các thuộc tính hàng hóa, sự phân biệt biệt giữa yếu tố bản
chất và hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua bán hàng hóa. Nó cũng là nền tảng để giải
thích sự ngang bằng về giá trị trong đổi. Lý luận giúp phân tích đầy đủ về bản chất của tế
bào kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó trong quá trình trao đổi mua bán. Riêng
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nó là cơ sở lý luận để đòi
hỏi đảm báo tính cạnh tranh, tính công bằng và hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước.
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, nhóm đã hoàn thành bài thảo luận với hy
vọng giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng thể về “Lý luận sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận
dụng vào phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

14
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 CNXH Chủ nghĩa xã hội
2 TBCN Tư bản chủ nghĩa
3 XHCN Xã hội chủ nghĩa
4 KTTT Kinh tế thị trường

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩ. “Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học -
không chuyên lý luận chính trị)”, NXB Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội, năm 2019.
2. Nguyễn Quang Thuấn, “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”, Tạp chí của Ban tuyên giáo trung ương, năm 2022.
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu-nghia-o-viet-nam-137544 [Truy cập ngày 13/03/2022].
3. Nguyễn Thị Hương, Lê Thị Phương, “Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, năm 2021.
https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/thuc-tien-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-
huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-331532.html [Truy cập ngày 13/03/2022].

16

You might also like