You are on page 1of 6

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC UEH


KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


Giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ Lâm Hoàng Trang
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Lớp học phần: 21C1HIS51002613
Họ và tên sinh viên: Đặng Uyển Nhi
Mã số sinh viên: 31201021238

Hồ Chí Minh – 2021


LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành bài tiểu luận cuối kì môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, em xin
chân thành gửi lời cảm ơn đến cô Đỗ Lâm Hoàng Trang đã giảng dạy và truyền đạt cho em
những kiến thức bổ ích, những bài giảng cuốn hút để em có thêm nhiều kiến thức về lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Em đã cố gắng hoàn thành bài tiểu luận của mình tốt nhất có
thể, nhưng có thể còn nhiều sai sót, em rất mong nhận được nhận xét từ cô. Cảm ơn cô đã
đọc bài của em.
__________________________________________________________________________

ĐỀ BÀI
Bằng những kiến thức đã học về môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, anh, chị hãy
trả lời các câu hỏi sau: 
1. Trình bày quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về kinh tế (1976-1986) và ý nghĩa của quá trình này. (5
điểm) 
2. Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là nhiệm vụ bức thiết, sống còn của Việt Nam?
Bạn có thể vận dụng được gì cho bản thân từ những bài học kinh nghiệm của Đại hội VI của
Đảng (1986). (5 điểm)  

Bài làm
1.
a/ Trình bày quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về kinh tế (1976-1986)

Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là Thời kỳ bao cấp là giai đoạn
áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai
đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Đây là thời kỳ của 2 kế hoạch 5 năm
1976-1980 và 1981-1986. 

Thời kỳ bao cấp hay còn gọi là cơ chế kế hoạch hóa tập trung có những đặc điểm sau:

- Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
- Các cơ quản hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết
định của mình
- Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ
quản lý kém năng lực.

Nhà nước bao cấp bằng những hình thức:

+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn
giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng
cho cán bộ, công nhân viên, theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với
mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ
tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.

+ Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách
nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đố làm nảy sinh cơ chế “xin – cho”.
Cơ chế này trong những thời kỳ nhất định đã tập trung được tối đa các nguồn lực kinh tế,
phát huy được sức mạnh tổng hợp cả nước, phù hợp với điều kiện có chiến tranh. Bên cạnh
đó, còn có những hạn chế:

+ Thủ tiêu cạnh tranh.


+ Kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ.
+ Triệt tiêu động lực kinh tes đối với người lao động.
+ Không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.

Vậy nên, việc rập khuôn máy móc mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô vào
miền Nam đã dẫn đến sự trì trệ nền kinh tế nghiêm trọng, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung ngày càng lộ rõ những bất cập, khiếm khuyết, không thể phát triển. Do áp lực gay gắt
của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta  không còn con đường nào khác phải tiến
hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết
là tư duy kinh tế.

Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về
kinh tế: 

-Bước đột phá đầu tiên đổi mới: Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là bước đột
phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai
lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản
xuất bung ra”.

+Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi
tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp.

+Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố
Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền
chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và
Quyết định số 26-CP (1-1981) về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm
và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.

Tại Đại hội V, Đảng đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Thế nhưng, tuy đã nhìn nhận ra
những khiếm khuyết, hậu quả trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và đề ra được
hai nhiệm vụ chiến lược, đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn, khuyết điểm ở đây là
trong khâu tổ chức thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết.
Đại Hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa thực sự kiên
quyết đoạn tuyệt với mô hình kinh tế cũ, vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải
tạo XHCN ở miền Nam trong 5 năm, chủ quan và nóng vội tiếp tục đầu tư, phát triển công
nghiệp nặng một cách tràn lan, noi theo Liên Xô nhưng không xem xét khả năng thực tế, coi
nhẹ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ dẫn đến đầu tư không những lãng phí mà còn không
hiệu quả.

- Từ những sai lầm của đại hội V, Đảng ta tiếp tục có bước đột phá trong tư duy kinh tế. Hội
nghị Trung ương 8 (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi, đổi
mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển
sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực chất, các chủ trương của Hội nghị
Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật sản xuất hàng hóa trong
nền kinh tế quốc dân.

- Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước
quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
+ Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra
sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
+Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
+ Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng
đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính
sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. 

b/ Ý nghĩa của quá trình quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam qua 3 bước đột phá tư duy về kinh tế (1976-1986):

- Ở bước đột phá thứ nhất, Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản
và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy kinh tế  nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”,  "giải phóng lực lượng sản
xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi
ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã
đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
-Ở bước đột bá thứ hai và thứ 3, nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy về kinh tế
này là những nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần
thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế,
lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới
mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước
chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
- Những khởi đầu trong việc tìm tòi đổi mới luôn đầy thử thách, khó khăn và phức tạp, có
thể nói 3 bước đột phá tư duy về kinh tế trong giai đoạn 1976-1986 có ý nghĩa quan trọng,
bước đầu loại bỏ tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người, từ đó
mở đường giúp Đảng không ngừng phát triển tư duy về kinh tế cho đến nay.
2.
a/ Tại sao đến năm 1986 đổi mới đất nước là nhiệm vụ bức thiết, sống còn của Việt
Nam?

- Đến năm 1986 đổi mới đất nước là nhiệm vụ bức thiết, sống còn của Việt Nam vì Việt
Nam đang trong tình trạng bị bao vây cấm vận bởi các thế lực thù địch. Trong 10 năm đổi
mới đất nước đi lên CNXH ( 1976 - 1986)  ta đã đạt được một số thành tựu, song cũng gặp
và mắc phải không ít những sai lầm. "Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ trong công tác tổ
chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu động lực phát triển ". Từ đó dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng về kinh tế-xã hội. Lương thực thực phẩm khan hiếm. Tỷ lệ lạm phát
lên đến trên 747,7% vào năm 1986. Cùng lúc đó tình hình thế giới có nhiều chuyển biến
như: cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, làm thay đổi quan hệ của
các nước trên thế giới – xu thế đối thoại trên thế giới dần thay thế xu thế đối đầu, cuộc
khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Liên Xô, Chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng
toàn diện, trầm trọng,.. Như vậy, vấn đề đổi mới là vấn đề bức thiết, có ý nghĩa sống còn đối
với nước ta, đồng thời là phù hợp với xu thế chung của thời đại nhằm khắc phục sai lầm,
khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đầy mạnh công cuộc xây dựng
CNXH. Phát biểu tại một hội nghị cán bộ cao cấp ngày 10/7/1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước Trường Chinh khi đó đã thẳng thắn nêu vấn đề: “Trong lúc này chúng ta chỉ có hai khả
năng lựa chọn: đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường cũ để chết?” Và Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI ( 12/ 1986) là cái mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện đổi mới này.
Nguyên nhân và thực trạng của sai lầm mà kế hoạch 5 năm lần 1 và lần 2 ( 1976- 1980 và
1981- 1985) được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( 12/ 1986) phân tích và phê phán
sâu sắc 1 cách khách quan và thẳng thắn. Từ đó đưa ra chủ trương quan điểm đổi mới đất
nước đi lên CNXH. Chủ trương quan điểm đó đã chính thức đi vào cuộc sống và lòng dân
và cứ thế tiếp tục cho tới ngày hôm nay.

b/ Bạn có thể vận dụng được gì cho bản thân từ những bài học kinh nghiệm của Đại
hội VI của Đảng (1986)

Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một
đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Từ những bài học kinh nghiệm quý báu trên, em đã có những vận dụng thực tế cho bản thân
như sau:
- Với bài học thứ nhất “lấy dân làm gốc”, em đã nhìn nhận rõ hơn tầm quan trọng của con
người trong bất kỳ một tập thể hay một xã hội nào. Để xây dựng và phát triển đất nước thì
cần có sự đồng lòng giữa Đảng và người dân, để một tập thể (lớp học, công ty,...) đạt được
mục tiêu chung và những thành công tốt đẹp cần có sự đồng lòng, thống nhất giữa trưởng
nhóm và thành viên, giữa người lãnh đạo và nhân viên, mọi kế hoạch, chủ trương, chính
sách cần quan tâm đến nguyện vọng, lợi ích của mọi người. Ngược lại, cách làm việc độc
đoán, mệnh lệnh, xa rời với nhân dân hay thành viên, nhân viên của mình , không quan tâm
đến cảm nhận và lợi ích của nhân dân hay thành viên, nhân viên của mình sẽ làm suy yếu
sức mạnh của tập thể, khó lòng đạt được thành công khi thực hiện mục tiêu chung.
- Với bài học thứ hai “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế”, em học được rằng mọi suy nghĩ,
hành động đều phải xuất từ thực tế, tôn trọng và làm theo quy luật khách quan, có nhận thức
đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế, không viễn vông, xa rời thực tế mà phải suy xét, ra
quyết định hành động, tận dụng nguồn lực của bản thân một cách tốt nhất, phù hợp với khả
năng hiện tại của mình chứ không so sánh rồi máy móc áp đặt cách làm của người khác lên
bản thân mình để rồi nhận lấy những sai lầm đáng tiếc.
- Với bài học thứ ba “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”,
trong vai trò là một sinh viên kinh tế trẻ, năng động và mang trong mình niềm tự hào dân
tộc, em sẽ cố gắng phát huy truyền thống, sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc Việt mình nhưng
đồng thời học hỏi và hòa nhập với các nền văn hóa, khoa học, công nghệ trên thế giới. Từ
đó giao thoa, chọn lọc, tích lũy những gì hay và tốt của dân tộc mình và dân tộc bạn để ngày
càng hoàn thiện bản thân. Chỉ có như vậy mới góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng
phát triển, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
- Với bài học thứ tư “chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa”, em cũng cố gắng xây dựng bản thân,
chung tay cùng Đảng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước Việt Nam.

__________________________________________________________________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nguyễn Trọng Phúc và nnk (2019), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
2. Lê Minh Nghĩa (2018), Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Trang thông tin điện tử Hội
đồng lý luận Trung ương.
3. (1991), Đảng cộng sản Việt nam : Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000 . NXB Sự thật , Hà Nội.

You might also like