Professional Documents
Culture Documents
Văn 9
Văn 9
Chiến tranh đã đi qua và cuộc sống hôm nay là cuộc sống yên vui, hạnh phúc. Ngồi
trong căn nhà nhỏ, trong không khí yên bình của đất nước, tôi ngước nhìn ánh trăng
rằm đang sáng rực giữa bầu trời đêm quanh những vì sao lấp lánh. Ánh trăng thơ
mông gợi nhắc trong tâm tưởng tôi về những kỉ niệm cùng đồng đội tham gia chiến đấu
trong chiến dịch Việt Bắc năm xưa. Đó là những đêm trăng dài cùng người đồng đội
vượt lên mọi gian khổ nơi chiến trường để thực hiện lí tưởng Cách mạng cao đẹp và là
kết tinh của tình đồng chí thiết tha.
Anh và tôi, hai con người xa lạ gặp nhau trong chiến khu. Khi ấy chúng tôi đều là là
những thanh niên trẻ, vô tư và tràn đầy nhiệt huyết để chiến đấu vì ngày mai tươi sáng
của dân tộc. Nếu quê hương anh “nước mặn đồng chua” thì làng tôi cũng nghèo “đất
cày lên sỏi đá”. Chúng tôi đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, cuộc sống của
chúng tôi nghèo nàn đủ đường. TUy cái nghèo đớn đau nhưng nó cũng là điều khằng
định được sự chân chất trong tôi, những con người của miền quê nông thôn nồng
hậu ,ấm áp.
Từ hai con người hoàn toàn xa lạ, hai chúng tôi đã gặp nhau và trở nên thân thiết trong
chiến trường bom đạn này. Và có thể nói, hoàn cảnh khắc nghiệt ấy đã vun đắp tình
cảm giữa tôi với anh. Như bao người lính khác, lí tưởng, nhiệm vụ của chúng tôi
là“Súng bên súng, đầu kề sát đầu”. Nhớ lại những đêm cùng đắp chung chăn dưới nền
trời lạnh cóng, để cùng nhau chống chọi cái lạnh và giữ cho mình niềm tin đẹp tôi vô
cùng xúc động. Tình tri kỉ giữa anh và tôi-tình đồng chí giản dị mà thanh cao đã hình
thành như thế đó.
Hai chúng tôi đều phải rời khỏi quê hương để tham gia chiến đấu. Và dẫu dù có xuất
thân khác nhau, đến từ miền đất v ới đặc trưng riêng nhưng có lẽ giấc mơ về ngày đất
nước độc lập, giấc mơ và mong ước cống hiến ấy đã thôi thúc conn gười chúng tôi.
Những đêm cạnh nhau, anh kể tôi nghe chuyện về quê hương anh trong niềm nhung
nhớ khôn nguôi. Nghe anh tâm sự về cảnh nhà với bao nỗi vất vả tôi thấy vô cùng
thương anh. Ruộng nương anh gửi cả cho bạn thân mình cày hộ, còn căn nhà đành
phải bỏ mặc cho gió to tàn phá. Câu chuyện riêng tư, anh chia sẻ cho tôi thể hiện được
tình cảm gắn bó và sẻ chia bên nhau. Anh tin tưởng và cùng tôi tâm sự để ít nhất trong
ngày đông lạnh giá nơi chiến trường thi chúng tôi càng thêm gắn bó, yêu thương.
Ở rừng có đại dịch sốt rét làm các chiến hữu của tôi chết rất nhiều. Anh với tôi biết từng
cơn ớn lạnh, rét run cả người, toàn thân thể ướt ngập mồ hôi. CHúng tôi sợ, sợ căn
bệnh ấy như ác quỷ nhưng cũng chỉ dám hi vọng vào ngày mai tốt đẹp, tươi sáng hơn.
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá- thiếu thốn ấy đủ đường. Hai người bạn bên
nhau cùng tương trợ cho nhau vượt qua khó khăn. ,Dẫu mệt mỏi, dẫu khổ sở nhưng
miệng vẫn cười, cười trong cái lạnh cóng để động viên an ủi nhau.
Những đêm rừng hoang sương muối, anh và tôi đứng canh gác cạnh bên nhau “chờ”
giặc tới. Nhiệm vụ hàng đầu của chúng tôi là chiến đấu và tình đồng chí của chúng tôi
đã sưởi ấm lòng giữa cảnh rừng hoang lạnh giá. Nhưng đêm lạnh không chỉ có chúng
tôi mà còn một người bạn nữa là vầng trăng tri kỉ. Súng và trăng tuy gần mà xa, hài
hòa, đan cài vào nhau tạo nên cảnh đẹp giữa đêm.
Đất nước bây giờ đã độc lập, bình yên và tôi càng thêm hiểu, thêm trân trọng những
ngày tháng sống trong gian khổ. Nhớ về khoảng thời gian còn chiến đấu, nhớ về anh-
người bạn tri kỉ của năm xưa. TÌnh cảm đồng chí thiêng liêng, cao cả ấy tôi vô cùng
trân trọng.
Tưởng tượng gặp gỡ và trò chuyện với người lính trong bài thơ
Đồng chí của Chính Hữu.
Chiến tranh luôn là nỗi đau đau đáu trong lòng mỗi người. Nhưng có lẽ đau đớn và xót xa khôn
nguôi hơn cả là những con người đã oằn mình trong cuộc chiến ấy vì bảo vệ biên cương. Hôm
nay, nhân ngày Quân đội nhân dân Việt Nam, trường tôi có mời một bác cựu chiến binh đã tham
gia chiến trường chống Pháp năm xưa. Trò chuyện, tâm sự với bác sau buổi lễ kết thúc tôi mới
có dịp được hiểu rõ và biết được bác chính là anh lính năm xưa được nhà thơ Chính Hữu khắc
họa qua bài thơ Đồng chí.
Biết rằng hôm nay sẽ có một cựu chiến binh đến thăm trường nhân ngày Quân đội nhân dân Việt
Nam nên tôi vô cùng háo hức. Tôi ấn tượng khi nhìn thấy bác bởi vẻ ngoài thật đặc biệt. Chân
dung bá là chân dung người lính đứng tuổi vô cùng uy nghi trong bộ quân trang màu xanh cùng
rất nhiều quân hàm. Đó có lẽ là niềm kiêu hãnh và tự hào khôn cùng ở bác.
Dáng đi của bác có phần chậm chạp hơn bởi tuổi tác. Nhìn mái tóc bạc trắng, những vết chân
chim nơi khóe mắt bác giúp tôi nhận ra dấu hiệu thời gian. Để ý kĩ tôi thấy cánh tay hoạt động
không được linh hoạt mà có phần chậm hơn bình thường. Tôi chợt hiểu ra đó có lẽ là vết thương
chiến tranh đã để lại. Bác vô cùng xúc động khi bài hát Quốc ca vang lên và khi nghe về truyền
thống lịch sử của dân tộc. Tôi còn chú ý hơn cả đến ánh mắt, sự chú tâm nhìn xuống các bạn học
sinh phía dưới dõi theo từng hoạt động của chúng em.
Cuộc gặp gỡ, nói chuyện với bác diễn ra dù chỉ ít phút nhưng khiến tôi xúc động khôn nguôi.
Tôi may mắn là người đại diện cho toàn khối để lắng nghe câu chuyện của bác khi buổi lễ kết
thúc. Bác hiền hậu, ân cần qua từng cử chỉ, hành động. Và tôi còn thêm bất ngờ khi biết bác
chính là người lính trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
Hòa bình đất nước được lặp lại, bác là người may mắn trong số những người lính được trở về
quê hương, sau những ngày kháng chiến gian lao, đứng giữa sự sống và cái chết. Đến bây giờ
được sống trong hòa bình, độc lập, trong lòng bác vẫn luôn khao khát được một lần về thăm quê
của bạn, quê người đồng chí năm xưa.
Bác là anh cả trong một gia đình có sáu anh em, cha mẹ bác là những người nông dân vất vả,
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, sống trên một vùng quê khó khăn “đất cày lên sỏi đá”, bác
luôn mong muốn quê mình giàu có, đẹp hơn nữa. Cuộc kháng chiến vừa bắt đầu, bác đã xin nhập
ngũ. Rời quê hương lên đường, bác thấy thật hạnh phúc và cần cố gắng biết bao.
Vào quân đội bác được cử lên Việt Bắc – nơi chiến trường khốc liệt nhất của chiến tranh. Ngày
ra quân, hành quân trên đường đi đến Việt Bắc bác mới thấy hết được sự cực nhọc, vất vả của
những người lính cụ Hồ.
Đến nơi, những người lính đi trước bác vài hôm đã nghĩ sẵn ở đó. Nổi bật trong số đó, người
có thiện cảm với bác từ lần đầu tiên là một anh lính trạc bằng tuổi tôi bây giờ, dáng người cao
cao, trông thật nhanh nhẹn. Như một phản xạ, bác nhanh chóng đến bắt chuyện với anh.
Anh ấy có vẻ hơn ngại ngùng, chỉ cười gượng. Như đã được định sẵn, hai bác cùng chung
một tiểu đội mang tên BK107. Đêm về bác không sao ngủ được bởi nôn nao muốn kết bạn với
anh lính trẻ chung chí hướng như mình. Bác lại gần anh, thủ thỉ về chí hướng, về khát khao đuổi
hết giặc ra khỏi quê hương, về tự tin có thể đánh bại bọn chúng. Người con trai ấy hơi sững sờ,
chắc là tại vì bác quá tự tin.
Câu chuyện dần cởi mở và tự nhiên hơn. Mình ở Nam Định, vùng “nước mặn đồng chua”,
khổ lắm! Con người chân lấm tay bùn. Vậy là từ hai người xa lại hai bác đã trò chuyện và quen
nhau, ngày cùng nhau làm nhiệm vụ, tối đắp chung chăn. Đứng cạnh bên nhau, nhìn về phía xa
xa, bác và người lính ấy mong sao hòa bình được lặp lại, chiến tranh kết thúc. Nếu không có
chiến tranh thì chắc chắn sẽ không có những giọt máu rơi xuống, sẽ không có những giọt nước
mắt rơi xuống, tiếng khóc chờ chồng, chờ cha.
Bác kể về xuất thân của bác và đồng đội đều là người lính nông dân nghèo khó. Đồng đội cùng
chung nhau lý tưởng, đồng đội cùng sống trong hoàn cảnh gian khó và đồng hành vượt lên khắc
nghiệt với căn bệnh sốt rét, với áo rách, quần vá...Các bác đã động viên nhau vượt qua khó khăn
và trở thành tri kỉ, là người bạn thân thiết gắn bó với trăng, với không khí chiến trường khắc
nghiệt. Tôi chỉ biết điều ấy qua trang thơ, nay qua lời kể của bác em thêm bồi hồi, xúc động khôn
nguôi.
Cuộc gặp gỡ lần đầu của hai bác tuyệt biết bao! Ngày hôm nay gặp thế hệ chúng tôi hôm nay,
là tương lai đất nước, bác kể lại những kỉ niệm xưa. Sao ngày ấy dù sống trong hoàn cảnh khắc
nghiệt của chiến tranh mà hai bác vẫn luôn nở nụ cười trên môi, vẫn lạc quan yêu đời.
Bác nhìn tôi với niềm tin tưởng, hy vọng cũng như niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai của đất
nước. Giọng bác dịu hiền yêu thương: Các cháu hãy cố gắng nối tiếp truyền thống cha anh. Bác
và cả dân tộc đều trông chờ vào thanh niên sức dài vai rộng. Người lính đồng chí năm xưa nay
vẫn ở đây như một chứng nhân lịch sử để nhắc nhở tất cả chúng tôi bằng tình yêu thương lớn
lao.
Cuộc trò chuyện với Bác kết thúc giúp tôi hiểu ra nhiều điều. Chiến tranh khắc nghiệt gian khổ
nhưng cũng làm sáng rõ và nổi bật vẻ đẹp của anh lính bộ đội cụ Hồ dẫu mấy chục năm qua thì
vẻ đẹp, khí thế ấy sống mãi.
Hóa thân người lính kể lại bài thơ Tiểu đội xe không kính
Ngồi trên chiếc ghế đá mát lạnh tôi ngước nhìn khung trời màu xanh biếc, vô tận mà tôi
nhớ đến ngày xưa. Những ngày tháng tôi cùng đồng đội ở chiến khu, trên chiếc xe
không kính quen thuộc. Tôi hớp một ngụm nước chè xanh quen thuộc, rồi xoay đầu
qua nhìn ông bạn Tâm cũng đang chăm chú nhìn phương xa. Tôi bảo: “ Mới đây nhanh
quá ông nhỉ, thoắt đã hơn chục năm rồi.”, ông ấy mỉm cười nói: “Ừ, đúng thế". Và cả hai
cùng ngồi thẫn ra, đều mang vẻ vui buồn lẫn lộn…
Nhớ những tháng ngày năm 46, thực dân Pháp lại một lần nữa xâm chiếm đất nước,
cùng với một quy mô hùng hậu và nhiều loạt vũ khí tối tân thời bấy giờ. Lúc ấy tôi chỉ
vừa tròn hai mươi tuổi nhưng vì độc lập đất nước, tôi đã gia nhập đội ngũ bằng cả trái
tim của mình dù biết phải xa gia đình để đến chiến khu. Tuy ở chiến khu rất gian nan và
khó khăn nhưng ở đấy tôi không hề cô đơn. Vì tôi đã có thêm rất nhiều người anh em,
có cùng chí hướng với tôi là giành lại tự do cho đất nước, cho nhân dân và tôi gọi họ là
những “đồng chí”. Trong đó có ông bạn vẫn luôn gắn bó với tôi đến bây giờ.
Lúc đầu tôi chưa quen lắm, nhưng dần dần chúng tôi trở nên thân thiết nhiều hơn như
bằng hữu lâu năm. Mỗi tối bọn chúng thường ngồi tụ lại với nhau rồi kể chuyện của
mình cho những người còn lại nghe. Bỗng có một anh lớn hơn tôi tầm hai, ba tuổi hỏi:
“Quê chú ở đâu ra sao?” tôi trả lời: “ Em ở một ngôi làng nghèo đất cày lên sỏi đá luôn
đó anh.” Nói đến đây tôi chợt nhớ đến ba mẹ chốn quê nhà, không biết mẹ có còn đau
chân hay không, ba có đỡ bệnh chưa. Rồi anh ấy lại nói: “ Quê hương anh cũng nghèo
lắm, nước thì mặn, đồng thì chua. Khổ lắm chú ạ, lúa nó cứ chết hoài.”. Mọi người say
sưa ngồi cười cười, nói nói suốt đêm mà không ai hay biết gì hết, cho đến tận trời tờ
mờ sáng.
Tôi nhớ những ngày còn ở chiến khu, túp lều của chúng tôi được dựng ở những cánh
rừng núi hoang vu nên đêm xuống sương ẩm che phủ khắp mọi nơi. Chúng tôi đã cố
gắng san sẻ chăn cho nhau để giữ ấm rồi trở thành những đôi tri kỷ. Nhưng cho dù
chúng tôi có chăn đi nữa thì nó vẫn không đủ ấm và có một số người bị bệnh rất nặng.
Vì là rừng nên muỗi cũng nhiều đặc biệt là loại muỗi truyền bệnh sốt rét. Bộ đội đã bỏ
xác không ít người chỉ do loại bệnh chết người này, đội ngũ dần ít đi. Điều đó khiến
những người còn lại trong đó có tôi vô cùng hoảng loạn nếu tình hình này vẫn cứ tiếp
tục…
Nhưng chúng tôi, những người yêu quê hương, tổ quốc sẽ không bao giờ gục ngã bởi
bất kỳ trở ngại nào. Vì nền độc lập đất nước, không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đã
bỏ qua sự ích kỷ của riêng mình, nỗi sợ hãi cá nhân để xung phong lên đường cứu
nước. Nhưng chắc chắn trong lòng mỗi người nhớ luôn đến người thân ơi quê nhà, lo
lắng nhà cửa bây giờ có bình yên hay không. Tất cả chúng tôi bỏ lại sau lưng những
nỗi nhớ da diết vì đại cuộc, cho dù phải hy sinh.
Trên con đường hành quân, mọi người chúng tôi phải leo lên từng con dốc, băng qua
từng dòng suối siết chảy. Chúng tôi cứ đi mãi, đi mãi, từ ngày này qua ngày kia không
kể bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Mặc cho thời tiết có như thế nào, dù nắng hay mưa,
chúng tôi vẫn luôn vượt qua. Đi đến nỗi quần áo của mọi người cũng bạc màu và rách
đi vài chỗ. Không chỉ thế, chân chúng tôi cũng đã chai sần vì đi quá nhiều vả lại chúng
tôi chẳng có một đôi giày chắc chắn để mang. Tuy thế chúng tôi không màng đến. Đôi
lúc khí trời rét lạnh nhưng bên trong chúng tôi vẫn hừng hực lửa, quyết tâm chống chọi
lại với sự ghẻ lạnh của thiên nhiên và mỉm cười cùng đồng đội, cùng nắm tay đi qua hết
đoạn đường đầy chông gai này.
Ban đêm, khu rừng ngập tràn sương muối lạnh buốt cả hai tay. Xung quanh tối mù mịt,
những tán cây cũng trở nên tối đen, chỉ còn ánh trăng óng ánh màu bạc tỏa chiếu khắp
nơi. Chúng tôi núp dưới bụi cây to, vai vác trên mình những cây súng thô sơ chờ địch
đến rồi chớp lấy thời cơ mà xông lên. Đó là một trận quyết liệt giữa quân dân Việt Nam
và bọn thực dân hung ác.
Giờ đây chiến tranh đã kết thúc, chúng tôi cũng đã lớn tuổi nhưng kỷ niệm thời niên
thiếu về những lần xông pha trên chiến trường sẽ không bao giờ xóa nhòa trong lòng
tôi, cũng như mọi người. Những kỷ niệm chúng tôi ngồi kể chuyện, ca hát với nhau về
niềm tin chiến thắng của đất nước. Tất cả như một câu chuyện mà tôi không bao giờ kể
hết được nhưng nó sẽ chẳng bao giờ có thể mất được.
Kể lại cuộc gặp gỡ của em với người lính lái xe trong bài
bài thơ Tiểu đội xe không kính
Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22
tháng 12, trường chúng tôi đã mời một đoàn khách đặc biệt đến thăm, đó là đoàn cựu
chiến binh về thăm và trò chuyện với chúng tôi. Các chú lần lượt giới thiệu về mình,
hoàn cảnh công tác và những thành tích mình đạt được. Lớp tôi vinh dự được chọn là
lớp sẽ tiếp đãi và được nói chuyện với các chú. Sau đó, trường dẫn đoàn vào một
phòng rộng, từng em xếp chỗ ngồi với các chú, tôi được nói chuyện cùng chú Hoà,
người lính đã lái những chiếc xe không kính khiến tôi hết sức tò mò. Cuộc nói chuyện
đã đem đến cho tôi nhiều trải nghiệm thú vị.
Dù năm tháng qua đi lâu, nhưng chính những năm gian khó đã rèn luyện cho chú sức
khoẻ, vóc dáng săn chắc, có một vẻ gì đấy kiên cường, mạnh mẽ.
Tôi hỏi chú: "Những năm tháng lái xe trong điều kiện hoàn cảnh như vậy, chú làm cách
nào để vượt qua được ạ?”
Chú chia sẻ: “Cháu biết không, làm người lính lái xe tuy không dễ dàng, bọn chú phải
luôn giữ vững tư thế ung dung, tự tại của người lính. Đã ngồi trong buồng lái là con mắt
phải luôn nhìn thẳng bao quát mọi hướng không gian để tránh máy bay, tránh hố bom
của đoàn xe ta tiến lên phía trước.”
Em hiểu được mặc dù thiếu đi những vật chất, điều kiện cần thiết nhưng dường như
những người lính như chú Hoà lại càng thêm toát ra vẻ đẹp hiên ngang , dũng cảm của
mình.
Chú nói: "Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày
xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao
nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì "bom rơi đạn lạc" như vậy mà
các chú lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, những cô thanh
niên xung phong, các bạn trên cùng tuyến đường sát vai đầy ý chí bên nhau, họ dẫn
đường cho nhau, các chú còn phải đi trong bóng để không ngừng tiến về phía trước
trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Ban ngày mịt mùng, hoang dại, mĩ ném bom
như ném rác, đến ban đêm hòng tiêu diệt quân ta, chúng cũng thả bom hòng phá
đường đi. phá vỡ chiếc cầu nối Bắc - Nam. Nhưng bọn chú chưa bao giờ lùi bước dù
có phải hi sinh, đoàn xe dù không có kính vì bị "bom giật bom rung kính vỡ đi rồi"
nhưng vẫn cứ băng băng chạy về phía trước, nghĩ đến cũng hiểm, chẳng hiểu sao lúc
ấy, lại mạnh mẽ, dạn dày thế. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là
đèn vỡ, nào là thùng xe xước... Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy
hiểm như thế, các chú dùng lửa trái tim để thắp sáng con đường tăm tối vượt hiểm
nguy”.
Câu chuyện của chú đầy thu hút tôi, thích nhất là lúc chú đùa rằng xe không có kính, lại
chạy nhanh với người lính lái xe còn thấy con đường trước mắt như chạy thẳng vào tim
mình, đây là hình ảnh độc đáo cũng có thể là biểu tượng cho con đường cách mạng,
hành trình trái tim. Xe không có kính khiến cho cảnh vật bên ngoài thiên nhiên như gần
gũi hơn, xoá nhoà mọi khoảng cách. Rồi chú kể về những nguy hiểm luôn luôn gần kề,
cái sống cái chết lúc nào cũng trong gang tấc. Lái xe không kính thì mối nguy hiểm gần
nhất là bụi đất. Đường Trường Sơn vừa dài, không chỉ đường gập ghềnh khó đi mà
mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi dày đặc đến mức mắt cay xè, nhuộm
trắng tóc. Rồi cả mưa cũng như tập kích bất ngờ. Mưa xối xả quất vào người, vào mặt,
vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn nhiều lần rồi thậm
chí, những chuyến xe vẫn về đến hẹn quả là kì tích.
Câu chuyện với chú giúp tôi học thêm nhiều điều có ý nghĩa hơn.
Một ngày như bao ngày khác, tôi cùng anh em trai tráng khỏe mạnh lên con thuyền ra
khơi vào lúc trời nhá nhem tối. Khi mặt trời xuống biển, không gian bước vào màn đêm
cũng là lúc khởi đầu chuyến ra khơi của đoàn thuyền. Thuyền tôi ra khơi mạnh mẽ như
một con chiến mã, thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồn, cứ băng ra biển, xé tan
màn đêm. Biển Đông giàu có với rất nhiều loài cá quý, nào là cá bạc, cá thu đang lấp
lánh giữa biển trăng, là cá nhụ, cá chim, cá đé. Anh em ngư dân chúng tôi ra khơi với
tâm thế vô cùng hứng khởi, lòng phơi phới niềm tin về một chuyến đi bội thu. Không
còn là nô lệ chịu áp bức, được tự do làm chủ công việc khiến ai cũng hăng say lao
động chẳng màng mệt nhọc, vất vả. Để xua tan những nỗi lo trước biển lớn, những
nặng nhọc đêm dài đánh cá, chúng tôi ngân nga những câu hát, đó như là bài ca lao
động đầy niềm vui cùng thiên nhiên. Dàn lưới ra xung quanh thuyền như một thế trận
bủa vây, chúng tôi bắt đầu nghêu ngao hát, hát và gõ vào thuyền để dụ cá vào lưới.
Mỗi ngư dân chúng tôi đều rất biết ơn biển cả, biển cho nguồn sống là cá, biển cho
công việc và giúp chúng tôi được lớn lên thành người, biển cả như là người mẹ thứ hai
của mỗi người. Tờ mờ sáng, khi sao vẫn còn, chúng tôi phải nhanh tay kéo lưới để kịp
trời sáng, mẻ lưới đầy cá nặng trĩu, mấy anh em chung tay kéo mới lên được. Chuyến
ra khơi đã bội thu, chúng tôi xếp lưới, căng buồm quay thuyền trở về. Ra khơi hào
hứng bao nhiêu thì trở về càng thêm phơi phới bấy nhiêu.
Qua công việc ra khơi đánh cá hàng ngày, tôi luôn thầm ấp ủ ước mơ hòa hợp và chinh
phục thiên nhiên. Tôi muốn mình có thể làm giàu từ biển nhưng mong muốn bảo vệ sự
trù phú, giàu có của biển.
Du khách đến với Sa Pa – mảnh đất trong sương không chỉ ấn tượng bởi những
cảnh đẹp, những dinh thự cao tầng mà còn ấn tượng bởi sự hiếu khách, hồ hởi của
người dân nơi đây. Là một lữ khách nhỏ tuổi từ thủ đô Hà Nội, cùng gia đình lên
thăm Sa Pa, tôi mới thực sự cảm nhận sự đón tiếp nồng hậu, chân tình, cởi mở của
người thị trấn giản dị “Sa Pa”. Đặc biệt, tình cảm ấy được khởi nguồn từ cuộc gặp
gỡ, trò chuyện với nhân vật thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của nhà
văn Nguyễn Thành Long.
Chiếc xe của chúng tôi dừng lại dưới chân núi nghỉ lại thị trấn Sa Pa. Dọc theo
con đường đất đỏ lên núi, được biết cách đây là đỉnh Yên Sơn – ngọn núi khá
cao tại Sa Pa này. Chao ôi! Khung cảnh nơi đây thật đẹp. Từng dải núi uốn lượn
trập trùng bao trùm là cả màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Những dải mây vắt
ngang núi như những dải lụa đào uốn lượn, bồng bềnh và huyền ảo. Hình như
vẻ đẹp mộng mơ này tôi đã gặp ở đâu rồi thì phải, sao quen quá! Tôi không tài
nào nhớ nổi, hai bên là những cây thông chỉ cao quá đầu, thấp thoáng vài căn
nhà nhỏ kiểu nhà sàn. Những bông hoa tử kinh màu tím khẽ đung đưa theo
chiều gió như đang e ngại ngập ngừng núp trong làn sương mù ảo, thật nên thơ
và gợi cho người ta cảm giác thoải mái, khoan khoái, không náo nhiệt, ồn ào tấp
nập như nơi đô thị. Theo con đường mòn nên núi, trong đầu tôi xuất hiện bao ý
nghĩ vẩn vơ, thú vị, bỗng có một giọng nói vang lên từ bên trái tôi, tôi giật mình
quay lại. Xuất hiện trước mắt tôi là bác trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng khỏe
mạnh, khuôn mặt chữ điền, trên tay còn cầm một chiếc máy bộ đàm. Bác ni