Professional Documents
Culture Documents
Case GBS Nhom 3 Y5A
Case GBS Nhom 3 Y5A
GUILLAIN-BARRÉ SYNDROME
(GBS)
NHÓM 3 - LỚP Y5A
PHẦN HÀNH CHÍNH
1. Họ và tên: LÊ THỊ L.
2. Giới: Nữ
3. Tuổi: 30
4. Nghề nghiệp: Nội trợ
5. Địa chỉ: Quảng Ninh, Quảng Bình
6. Ngày vào viện: 11/9/2014
7. Ngày làm bệnh án: 7/10/2014
BỆNH SỬ
1. Lý do vào viện: Liệt 2 chi dưới
2. Quá trình bệnh lý:
Vitamin B1 100mg TB 8h
a. Về chẩn đoán:
- Đối với bệnh thần kinh thì vấn đề chẩn đoán là quan trọng hàng đầu vì có
nhiều triệu chứng gây nhầm lẫn giữa các bệnh dẫn đến việc dễ chẩn đoán sai
- Bệnh nhân này có hội chứng liệt 2 chi dưới đã rõ trên lâm sàng: mất vận động
2 chi dưới, cơ lực 0/5 (thăm khám ngày 16/9), lúc thăm khám hiện tại là 2/5.
Kèm theo bệnh nhân có phản xạ gân xương mất và trương lực cơ giảm 2 bên
nên em xác định đây là liệt mềm 2 chi dưới.
Về vị trí tổn thương gây ra liệt mềm 2 chi dưới: có thể là thần kinh ngoại biên
hoặc thần kinh trung ương, lâm sàng bệnh nhân có:
Tổn thương thần kinh trung
Tổn thương ngoại biên
ương
Mất vận động hữu ý không
Vận động Mất toàn bộ vận động
hoàn toàn
Phản xạ gân xương Mất phản xạ Mất hoặc giảm sau đó tăng
Phản xạ da bụng Bình thường Giảm hoặc mất
Phản xạ bệnh lý (-) (+) hoặc (-)
Teo cơ Nhanh Ít
Phản ứng thoái hóa (-)
(+)
điện
Không, trừ khi tổn thương
Rối loạn cơ tròn Có
chùm đuôi ngựa
🡪 Các triệu chứng phù hợp để gợi ý đến tổn thương ngoại biên.
- Trong các tổn thương ngoại biên gây liệt 2 chi dưới 2 hoàn toàn thì GB là 1
bệnh hay gặp (sau khi bệnh bại liệt đã được thanh toán), kèm theo tiền sử 2
lần được chẩn đoán GB thì lần này chẩn đoán GB được đặt ra hàng đầu.
- Theo nghiên cứu của tác giả A.K. Asbury & D.R. Cornblath (1990) "Assessment
of current diagnostic criteria for Guillian-Barré syndrome," (đánh giá tiêu chuẩn
chẩn đoán hiện tại đối với hội chứng GB) Ann Neurol, vol. 27 (Suppl.), pp.
S21-S24
Đặc điểm cần thiết cho chẩn đoán
- Liệt tăng dần của cả hai chân và hai tay
- Mất phản xạ gân cơ
Đặc điểm lâm sàng hỗ trợ chẩn đoán
- Diễn tiến toàn phát trong nhiều ngày đến 4 tuần
- Triệu chứng thực thể tương đối đối xứng
- Triệu chứng cảm giác (chủ quan và khách quan) nhẹ
- Liệt các dây sọ (liệt mặt ngoại biên hai bên)
- 2 - 4 tuần sau khi ngưng giai đoạn toàn phát, bắt đầu giai đoạn phục
hồi
- Rối loạn chức năng thần kinh tự trị
- Không có sốt lúc khởi phát bệnh
Đặc điểm cận lâm sàng hỗ trợ chẩn đoán
- Tăng protein dịch não tủy với < 10 tế bào/μL
- Đặc điểm điện thần kinh cơ của giảm dẫn truyền hay block dẫn truyền*
→ Bệnh nhân có nhiều triệu chứng phù hợp với tiêu chuẩn chẩn đoán. Kết hợp
tiền sử đã 2 lần được chẩn đoán và điều trị theo hướng GBS bệnh cải thiện tốt,
diễn tiến bệnh sử của bệnh nhân: xuất hiện sau một đợt cảm cúm viêm long
đường hô hấp trên là thường xuất hiện ở GBS, các triệu chứng rối loạn cảm
giác, vận động xuất hiện đầu tiên ở ngọn chi và lan dần vào gốc chi, đối xứng 2
bên là đặc điểm LS thường gặp của GBS nên càng khẳng định thêm chẩn
đoán. GBS hiện chưa có một tiêu chuẩn vàng nào để chẩn đoán chủ yếu cần
dựa vào diễn biến lâm sàng của bệnh, cận lâm sàng gợi ý thêm và chẩn đoán
loại trừ các bệnh tương tự. Nhưng đây lại là một bệnh cấp cứu của chuyên
khoa TK cần chẩn đoán sớm để có hướng điều trị tốt trước khi xảy ra các biến
chứng hô hấp tim mạch có thể gây tử vong sớm.
b. Về chẩn đoán thể bệnh
- Lâm sàng bệnh nhân mất cả cảm giác và vận động nên loại trừ rối loạn
toàn bộ thần kinh tự trị và hội chứng GB cảm giác.
- Trên bệnh nhân không có tổn thương các dây thần kinh sọ nên ít nghĩ
tới thể Miler-Fisher.
- Em không nghĩ đến thể tổn thương sợi trục (AMSAN và AMAN) vì thể
AMSAN thường có diễn tiến tối cấp trong vòng 1 tuần, lâm sàng có liệt
nặng nề tứ chi, teo cơ nặng, có rối loạn hô hấp, còn thể AMAN thường
liệt đơn độc, các phản xạ thường được bảo tồn nên không phù hợp lâm
sàng của bệnh nhân.
🡪 Hướng đến tổn thương bao myelin cấp: AIDP
Để làm rõ chẩn đoán em đề nghị làm điện cơ đồ (EMG)
c. Chẩn đoán phân biệt:
- Viêm tủy cắt ngang:
Bệnh nhân liệt 2 chi dưới, khởi bệnh đột ngột nên cần chẩn đoán phân biệt với viêm tủy cắt ngang.
Tuy nhiên, nếu là viêm tủy cắt ngang, diễn tiến thường chuyển từ liệt mềm sang liệt cứng sau
khoảng 21 ngày, kèm rối loạn cơ tròn trầm trọng, trong khi bệnh nhân này tới tuần thứ tư mà vẫn
còn liệt mềm và có dấu hiệu hồi phục, không chuyển sang liệt cứng, rối loạn cơ tròn cũng kín đáo.
- Chèn ép tủy và chùm đuôi ngựa:
+ Bệnh thường tiến triển chậm với tổn thương thường khu trú hơn là đối xứng đều 2 bên
+ Nếu chèn ép tủy thì thường rối loạn cảm giác tương ứng với mức chèn ép
+ Nếu chèn ép vào chùm đuôi ngựa sẽ có biểu hiện tổn thương TK đùi hoặc TK tọa (chèn ép vào
đám rối thắt lưng, thắt lưng cùng) và cảm giác đau là ưu thế hơn là mất cảm giác
+ Áp lực DNT thường tăng. Trên bệnh nhân có áp lực DNT bình thường
+ Chụp MRI không thấy tổn thương chèn ép
- Bệnh viêm đa dây thần kinh( do rượu, thiếu vitamin B1, ngộ độc INH...):
Bệnh nhân có triệu chứng phù hợp với viêm đa dây thần kinh như: rối loạn cảm giác vận động dinh
dưỡng từ ngọn chi vào gốc chi, không có đau kiểu rễ. Tuy nhiên, bệnh nhân có phân ly đạm tế bào
không phù hợp với viêm đa dây thần kinh. Hơn nữa, trên bệnh nhân cũng không có biểu hiện bệnh lý
nguyên nhân.
d. Diễn tiến của bệnh:
- Diễn tiến GBS đến 82% là hồi phục hoàn toàn sau 24 tháng, 3% bị tái phát
sau phục hồi, và bệnh nhân nằm trong số ít bị tái phát lần thứ 3.
- Các lần trước bệnh nhân có thể tự đi lại sau 10 đến 20 ngày, nhưng lần
này đã sau 27 ngày điều trị bệnh nhân có phục hồi nhưng chậm, chưa tự
đứng lên được. Do đó bệnh cảnh hiện tại cần chú ý đến thể tổn thương
viêm đa rễ dây thần kinh mạn tính.
e. Biến chứng
- Bệnh nhân có nhiễm trùng đường tiểu rõ ràng trên lâm sàng và cận lâm sàng,
với tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán là Khuẩn lạc > 105/ml. Theo em đây là biến
chứng của tiểu khó gây ứ đọng nước tiểu trong bàng quang tạo thuận lợi cho
nhiễm trùng.
- Nhịp nhanh xoang ở bệnh nhân này theo em là do tình trạng rối loạn thần kinh
thực vật. Tình trạng giảm hoạt phó giao cảm ngoài gây nhịp tim nhanh còn gây
tiểu khó và đại tiện khó. Nhịp nhanh hiện nay vẫn chưa ảnh hưởng đến huyết
động, tuy nhiên bệnh nhân có nguy cơ nhịp chậm, block dẫn truyền do tim bị
kích thích lâu ngày sẽ làm giảm đáp ứng giao cảm. Hiện tại chưa cần điều trị
nhưng cần theo dõi thường xuyên. Em đề nghị làm lại ECG.
f. Biện luận điều trị
- Ở bệnh nhân này, hội chứng Guillain – Barré là hậu quả của sự hủy myelin trên chiều dài
của sợi trục thần kinh nên cần phải điều trị hỗ trợ với các vitamin nhóm B, đặc biệt B12 và
B9 để tái tạo nhân tế bào thần kinh. Như vậy điều trị tại bệnh phòng là hợp lý ở bệnh nhân
này.
- Cơ chế bệnh sinh của hội chứng Guillain – Barré là một phản ứng miễn dịch giữa kháng
thể chống lại tác nhân nhiễm khuẩn có phản ứng với kháng nguyên trên tế bào thần kinh
nên việc điều trị lọc huyết tương hoặc dùng immunoglobulin đem lại hiệu quả. Với bệnh
cảnh của bệnh nhân liệt 2 chi nặng không đi lại được lúc vào viện thì theo hướng dẫn điều
trị BG thì được khuyến cáo sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên sẽ giúp bệnh cải thiện
nhanh chóng, tuy nhiên BN trong các lần trước vẫn hồi phục tốt dù chỉ điều trị hỗ trợ đơn
thuần; hơn nữa 2 phương pháp này đắt tiền và không phải hiệu quả trên tất cả BN nên
bệnh phòng đã không sử dụng. Nhưng hiện tại vào tuần thứ 4 của bệnh - trong giai đoạn
hồi phục thì việc điều trị trên không còn nhiều ý nghĩa.
- Về biến chứng: Bệnh nhân có một bệnh cảnh nhiễm trùng đường tiểu dưới, cấy nước tiểu
dương tính với Klebsiella pneumonia, làm kháng sinh đồ nhạy cảm với nhiều loại kháng
sinh. Bệnh phòng đã điều trị với Spreapim (Cephalosporin thế hệ IV) là một trong những
kháng sinh nhạy cảm, điều trị trong 7 ngày và bệnh nhân có đáp ứng tốt (nước tiểu trong,
bạch cầu niệu (-) ngày 26/9) nên việc điều trị của bệnh phòng là hoàn toàn hợp lý, liều
trình KS đã đủ nên hiện tại không dùng nữa.
CHẨN ĐOÁN CUỐI CÙNG