You are on page 1of 11

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC


BÀI TẬP
Môn học:
LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Lần 7:
CÁC TỘI PHẠM VỀ KINH TẾ
Nhóm 2 Lớp: HC46B1
1. Phạm Hoàng Tuấn (NT) – 2153801014233
2. Lê Thị Bích Ngọc – 2153801014162
3. Nguyễn Minh Nhật – 2153801014178
4. Huỳnh Lê Yến Nhi – 2153801014180
5. Lê Trung Phát – 2153801014193
6. Nguyễn Văn Phú – 2153801014196
7. Nguyễn Phạm Mai Phương – 2153801014202
8. Nguyễn Thị Hoài Phương – 2153801014203
9. Rah Lan Soni – 2153801014214
10. Nguyễn Thanh Thanh Tâm – 2153801014221

Thành phố Hồ Chí Minh, 4/2023


I. NHẬN ĐỊNH.

Nhận định 25: Mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới
chỉ là hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều
189 BLHS).
Nhận định SAI.
Cơ sở pháp lý: Điều 188, 189 BLHS 2015.
Hành vi mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hoá qua biên giới căn cứ vào
mục đích phạm tội có hai trường hợp: Đối với mục đích là nhằm buôn bán sẽ cấu
thành Tội buôn lậu theo Điều 188 BLHS 2015; còn nếu không nhằm mục đích buôn
bán thì sẽ cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo Điều 189
BLHS 2015. Do đó, mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới không
chỉ là hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới mà còn có
thể cấu thành Tội buôn lậu.
=> mục đích

Nhận định 27: Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so
với tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì
hàng hóa là hàng giả.
Nhận định SAI. Vì căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 7 Điều 3 Nghị định
98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại,
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì hàng
hóa là hàng giả khi có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật
cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ
đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc
tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng
hóa. Do vậy, hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn (nhưng phải từ
70% trở xuống) so với tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi
trên nhãn, bao bì hàng hóa thì mới được xem là hàng giả, các trường hợp trên 70% thì
không là hàng giả.
Điểm b khoản 7 Điều 3 NĐ 98/2020:

Nhận định 29: Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được
quy định tại Điều 192, 193, 194, 195 BLHS.
Nhận định SAI.
Về mặt lý luận, hàng giả được chia làm 2 loại: bao gồm hàng giả về nội dung
(giả về chất lượng và công dụng) và hàng giả về hình thức (giả mạo về nhãn hiệu, kiểu
dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ).

[1]
Các quy định tại Điều 192, 193, 194, 195 thì đối tượng tác động ở đây là hàng
hóa giả mạo về nội dung. Còn tại Điều 226 đối tượng tác động của nó là hàng giả
nhưng là giả mạo về hình thức. Như vậy, hàng giả không chỉ là đối tượng tác động của
các tội phạm quy định tại Điều 192, 193, 194, 195 mà còn là đối tượng tác động của
tội phạm xâm hại quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 226 BLHS 2015.
Điều 226: đối tượng tác động là nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ
tại Việt Nam. Chứ không phải là hàng giả.
Hàng giả:
+ Giả về nội dung (Điều 3 NĐ 98/2020): hàng hóa phải trên tiêu chuẩn 70%,
dưới 70% = giả về nội dung.
+ Giả về hình thức: nhãn hiệu hàng hóa, bản thân không phải là thương hiệu
nhưng giả về thương hiệu để thu lợi bất chính
=> Hàng giả là đối tượng tác động của Điều 226 là SAI. 226 nói Đối tượng tác
động là nhãn hiệu/ chỉ dẫn địa lý.

Nhận định 30: Không phải mọi trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở
lên đều cấu thành Tội trốn thuế được quy định tại Điều 200 BLHS.
Nhận định ĐÚNG. Vì căn cứ vào quy định từ điểm a đến điểm i khoản 1 Điều
200 BLHS 2015 thì chỉ khi thực hiện hành vi thuộc một trong những quy định trên,
trốn thuế với số tiền từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc dưới 100 triệu
đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án
về tội này về một trong các tội quy định tại các Điều 188, 189, 190, 191, 192, 193,
194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội trốn thuế. Như vậy, các
hành vi trốn thuế khác không được liệt kê tại khoản 1 của điều này dù có từ 100 triệu
trở lên cũng không cấu thành Tội trốn thuế (Điều 200 BLHS).
Nhận định ĐÚNG
CSPL: 188, 189, 200 BLHS
Mặt khách quan: Hành vi cố ý không kê khai/ kê khai sai về thuế đối với hàng
hóa xk,nk; Kê khai sai với thực tế hàng hóa xk,nk mà không khai bổ sung hồ sơ khai
thuế sau khi bổ sung hàng hóa đã được thông qua. Tuy nhiên ngoài cấu thành tội trốn
thuế theo Điều 200 mà còn có thể cấu thành tội theo Điều 188, 189.

Nhận định 34: Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước quy định tại Điều 203 BLHS chỉ là hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi
nội dung hoặc ghi nội dung không đầy đủ, không chính xác theo quy định.

[2]
Nhận định SAI. Vì ngoài hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi
nội dung không đầy đủ, không chính xác theo quy định thì còn có các hành vi khác
như:
- Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung nhưng có hàng hóa dịch vụ đi kèm;
- Mua, bán hóa đơn giả, hóa đơn chưa có giá trị sử dụng, hết hạn sử dụng, hóa
đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác để hợp thức hóa hàng hóa dịch vụ mua vào
hoặc cấp cho khách hàng khi bán hàng hóa dịch vụ;
- Mua, bán hóa đơn có chênh lệch về giá trị hàng hóa dịch vụ giữa các
bên của hóa đơn.
04 hành vi trên đều được xem là hành vi Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước quy định tại Điều 203 BLHS.
Nhận định SAI.
CSPL: Khoản 3 Điều 2 TTLT 10/2013
Mà còn có các hành vi khác….

Nhận định 37: Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang
được bảo hộ tại Việt Nam đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 226 BLHS).
Nhận định SAI. Vì căn cứ vào quy định tại Điều 226 BLHS, để cấu thành Tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thì hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đang được bảo hộ tại Việt Nam phải thỏa mãn thêm điều kiện đối tượng là hàng hóa
giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc hành vi đó phải
thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; gây thiệt hại cho
chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Như vậy, mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt
Nam không hẳn đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226
BLHS).
Nhận định SAI.
CSPL: Khoản 1 Điều 226
Hành vi khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu CN là hành vi cố ý xâm
phạm đối với nhãn hiệu/ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Như vậy =>
chỉ cấu thành tội phạm trong TH đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu/ chỉ dẫn địa
lý đang được bảo hộ tại VN gây thiệt hại theo quy định điều luật này.

Nhận định 44: Mọi hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi
trường thì cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS).
Nhận định SAI. Vì căn cứ vào quy định tại Điều 235 BLHS 2015, có thể thấy
rằng, gây ô nhiễm môi trường là hành vi chôn, lấp, đổ, thải, xả thải ra môi trường các

[3]
chất gây ô nhiễm ; phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ ra môi trường. Như vậy,
hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường là hành vi gây ô nhiễm
môi trường nhưng để cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường theo Điều 235 BLHS thì
hành vi này phải đủ định lượng theo quy định tại khoản 1 Điều này. Như vậy, mọi
hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường thì chưa hẳn cấu thành
Tội gây ô nhiễm môi trường.

II. BÀI TẬP.

Bài tập 16:

A và B đến gặp M tại quán nhậu X để bàn chuyện làm ăn (B không quen
M trước đó). Sau khi bàn bạc công việc, A nói có việc phải đi trước và nói B tự đi
về. B đề nghị M cho đi nhờ xe một đoạn. M đồng ý và để B chở bằng xe gắn máy
của M. Trên đường đi, B vờ đánh rơi cặp xách để M xuống xe nhặt giúp. Lợi
dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B phóng xe đi mất. Sau đó, B đã bị bắt cùng
tang vật là chiếc xe gắn máy của M (trị giá 20 triệu đồng).

Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B trong vụ án này và giải thích
tại sao?
Hành vi của B trong trường hợp trên cấu thành Tội cướp giật tài sản (Điều 171
BLHS).
- Khách thể của tội phạm: hành vi phạm tội cướp giật tài sản của B xâm phạm đến
quyền sở hữu của chủ tài sản là M.
- Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi chiếm đoạt tài sản của B thể hiện rõ hai dấu
hiệu đặc trưng để cấu thành tội danh này là tài sản được chiếm đoạt cách “công khai”
và “nhanh chóng”:
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai của B thể hiện khi thực hiện hành
vi phạm tội của mình, B không lén lút hay giữ bí mật hành vi phạm tội mà để cho M
có thể phát hiện ra hành vi chiếm đoạt tài sản ngay khi hành vi này đang được thực
hiện (B phóng xe đi mất trước sự chứng kiến của M). Trong trường hợp này, B nhận
thức được M chắc chắn biết được hành vi phạm tội của mình khi phóng xe đi mất
nhưng không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình.
+ Hành vi phạm tội của B còn được thực hiện một cách nhanh chóng khi B lợi dụng
sơ hở của M để nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng lẩn trốn, tẩu thoát cùng
chiếc xe. Trong trường hợp này, M không có sơ hở vì M đang ngồi trên xe cùng với B,
nên B không thể chiếm đoạt được tài sản. Nhưng B đã cố tình tạo ra sở hở bằng thủ
đoạn gian dối là vờ đánh rơi cặp xách để M xuống xe nhặt giúp, lợi dụng lúc M sơ hở
xuống nhặt cặp xách thì B đã nhanh chóng phóng xe chạy đi.
+ Hậu quả:

[4]
- Mặt chủ quan của tội phạm: B phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, B mong muốn chiếm
đoạt được tài sản của M.
- Chủ thể của tội phạm: chủ thể thường (người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
??? Hành vi của B trong tội này là gì??? xác định hành vi khách quan.
=> Tội cướp giật tài sản theo Điều 171

TỘI LỪA ĐẢO ->SAI.


+ Cho rằng M đồng ý B chở, tại thời điểm này hoàn thành tội lừa đảo -> SAI. B
có thủ đoạn gian dối để M đưa xe cho B lái nhưng
+ M ngồi sau, chưa có sự chuyển giao tài sản mà B chỉ ngồi chở, sử dụng xe gắn
máy thay M và M ngồi sau kiểm soát xe gắn máy nên không có sự chuyển giao,
chiếm đoạt tài sản ở đây -> không phải là hành vi khách quan của tội lừa đảo.
+ Xuất hiện thủ đoạn gian dối (sự cạnh tranh của tội cướp giật và tội lừa đảo)
nhưng biểu hiện gian dối nhằm tiếp cận tài sản chứ không phải thực hiện hành vi
khách quan. (chưa hề chuyển giao tài sản) => biểu hiện gian dối
+ Hành vi khách quan tình huống bắt đầu khi: M xuống rời khỏi xe và B nhanh
chóng tẩu thoát -> Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản.
- Biểu hiện gian dối (hành vi đi liền trước hành vi khách quan)
- Hành vi khách quan mô tả trong tội danh khi B đánh rơi cặp để M rời khỏi xe và B chiếm đoạt
chiếc xe bằng hành vi công khai nhanh chóng tẩu thoát (công khai, nhanh chóng tẩu thoát)
Bài tập 17:
A là chủ một xe chở xăng dầu. A đã ký hợp đồng với nhà máy sản xuất bột
ngọt T.H vận chuyển dầu chạy máy cho nhà máy từ công ty xăng dầu đến nhà
máy. Sau vài lần vận chuyển, A đã học được thủ đoạn bớt dầu vận chuyển cho
nhà máy như sau: Khi nhận được dầu A chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và
nhanh chóng rút dầu ra bán cho B mỗi lần vài trăm lít. Sau đó chất lên xe mấy
thùng nước có trọng lượng tương đương với số dầu đã rút ra. Đến địa điểm giao
dầu, chiếc xe được cân đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho.
Trong thời gian chờ đợi cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ
hết số nước đã chất lên xe để khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe. Với cách
thức như vậy, A đã nhiều lần lấy dầu được thuê vận chuyển của nhà máy bột
ngọt T.H với tổng trị giá là 38.565.000 đồng. Sau đó thì A bị phát hiện.

Hãy xác định tội danh trong vụ án này.

Trong vụ án trên, có thể nhận thấy hành vi của A đã có đủ các yếu tố cấu thành
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS 2015.
- Khách thể: Xâm phạm quan hệ sở hữu dầu của nhà máy sản xuất bột ngọt T.H
- Đối tượng tác động: Tài sản là số dầu trị giá 38.565.000 đồng
- Mặt khách quan:

[5]
+ Hành vi: A có hành vi chiếm đoạt một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp
đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản là nhà máy sản xuất bột ngọt T.H và người có
hành vi chiếm đoạt là A. Hành vi chiếm đoạt ở đây là những hành vi nhận tài sản một
cách ngay thẳng hợp pháp, thông qua một hợp đồng bằng văn bản rồi sau đó thực hiện
chiếm đoạt tài sản. Theo đó A có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
cụ thể: Khi nhận được dầu A chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng rút
dầu ra bán cho B mỗi lần vài trăm lít. Sau đó chất lên xe mấy thùng nước có trọng
lượng tương đương với số dầu đã rút ra. Đến địa điểm giao dầu, chiếc xe được cân
đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ đợi cân
trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ hết số nước đã chất lên xe để khi
cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe. Thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của A
đã thỏa mãn điều kiện là dấu hiệu bắt buộc của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS 2015 bởi chỉ cần thỏa mãn một trong bốn
điều kiện thì đều cấu thành tội này.
+ Hậu quả: Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài
sản mà cụ thể trong vụ việc này thì hậu quả của hành vi chiếm đoạt phi pháp của A là
số dầu có tổng giá trị 38.565.000 đồng.
+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi A rút dầu đem bán nhiều lần là nguyên nhân trực
tiếp gây nên thiệt hại về tài sản cho nhà máy sản xuất bột ngọt T.H.
- Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. A biết hành vi của mình là
trái pháp luật, thấy trước hậu quả nguy hiểm nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra
trên thực tế.
- Chủ thể: A là chủ thể thường, đủ độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS.

???Vì sao có dấu hiệu lén lút, tại sao không phải TỘI TRỘM mà là tội lạm
dụng???

=> Trả lời câu hỏi:

???Người phạm tội đã có được tài sản hay chưa??? Và bằng cách nào???
+ Trong TH này, A kí hợp đồng chở xăng dầu thì A đã có tài sản và bằng hợp
đồng dân sự hợp pháp công khai.
+ Nếu người phạm tội có được bằng hợp đồng dân sự hợp pháp công khai là đặc
điểm của Tội lạm dụng.
+ Nếu A chưa có tài sản mà thực hiện hành vi lén lút -> Tội Trộm.
- Công khai với chủ sở hữu hay công khai với người khác -> công nhiên
chiếm đoạt tài sản với tội trộm tài sản (với người chủ sở hữu với người quản lý TS
biết sự công nhiên nhưng không ngăn cản được; còn với người khác thì công khai với
người khác không phải chủ sở hữu).
[6]
+ công nhiên chiếm đoạt tài sản: ngang nhiên công khai và chủ sở
hữu/người quản lý tài sản biết sự ngang nhiên đó mà không ngăn cản được.
+ Tội trộm tài sản: Người phạm tội không ngang nhiên công khai với chủ sở
hữu (người khác không quan trọng).
+ Nếu chưa có mà thực hiện hành vi lén lút = trộm
+ Nếu có rồi bằng hợp dồng hợp pháp = lạm dụng
+ Bằng thủ đoạn gian dối = lừa đảo.

Bài tập 25:


Công ty bảo vệ thực vật A nhập từ nước ngoài về Việt Nam 32 tấn nguyên
liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC hàm lượng khai báo là 97%. Qua kiểm định
của Trung tâm kiểm định thực vật phía Nam thì hàm lượng chỉ có 94,6%. Với
cách thức như vậy, Công ty sẽ không phải đóng thuế thay vì phải nộp 10% khi áp
đúng mã thuế. Do vậy Công ty A tránh được việc nộp thuế với giá trị 1tỷ 450
triệu đồng.
Hãy xác định tội danh trong vụ án này.
Hành vi của công ty A đã cấu thành Tội trốn thuế theo quy định tại điểm c
khoản 5 Điều 200 BLHS. Cụ thể:
- Khách thể: Xâm phạm chính sách thuế, làm thất thu Ngân sách nhà nước.
- Chủ thể: Chủ thể đặc biệt là pháp nhân thương mại có đủ điều kiện chịu trách nhiệm
hình sự.
- Mặt khách quan:
+ Công ty A phạm đã có hành vi khai sai thực tế với hàng hoá nhập khẩu mà không
khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan. Cụ thể, công ty A
đã khai báo sai về hàm lượng thuốc trừ sâu BPMC mà mình nhập khẩu. Hàm lượng
công ty A khai báo là 97%, nhưng trên thực tế chỉ có 94,6%.
+ Hậu quả: thất thu Ngân sách nhà nước 1 tỷ 450 triệu đồng.
+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi của công ty A là nguyên nhân chính dẫn đến sự
thất thu ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến trật tự quản lý thuế của Nhà nước.
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp (Công ty A biết hành vi trốn thuế là nguy hiểm cho
xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi đó).
Hành vi của công ty A cấu thành Tội trốn thuế theo điểm c khoản 5 Điều
200 BLHS.
Hành vi: khai báo gian dối
Nhập khẩu thuốc trừ sâu có hàm lượng 94,6% nhưng kê khai hàm lượng
97% => làm thất thu NSNN 1tỷ450 triệu đồng.

Bài tập 29:

[7]
Lực lượng trinh sát đã phát hiện A đang vận chuyển số hàng có dấu hiệu
nghi vấn. Qua kiểm tra, công an phát hiện 200 gói bột ngọt nhãn hiệu Thai
Fermenttion Ind. A khai nhận số bột ngọt này có nguồn gốc từ Trung Quốc
nhưng được đóng gói với nhãn hiệu Thai Fermentation Ind. Bên cạnh đó A còn
có hành vi mua bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về đóng gói vào bao bì
mang các nhãn hiệu Ajnomoto, Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind,… rồi bán
ra thị trường tổng cộng 8 tấn bột ngọt tương đương với giá trị của hàng thật là
300 triệu đồng. Theo kết luận giám định thì bột ngọt Trung Quốc có hàm lượng,
định lượng chất chính chỉ đạt mức 60% so với tiêu chuẩn chất lượng của nhà
nước.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án nêu trên.

Hành vi của A đã cấu thành Tội sản xuất, mua bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193) và Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 226).

- Đối với Tội buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
+ Khách thể: xâm phạm đến chính sách quản lý thị trường của nhà nước, đồng thời
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, ngoài ra còn xâm phạm
đến sức khỏe, tính mạng của người khác.
+ Đối tượng tác động: bột ngọt.
+ Mặt khách quan: A đã có hành vi mua bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem
về đóng gói vào bao bì rồi bán ra thị trường. Theo kết quả giám định thì bột ngọt
Trung Quốc có hàm lượng, định lượng chất lượng chỉ có 60% so với tiêu chuẩn của
nhà nước nên theo điểm b khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP thì tiêu chuẩn
chất lượng hàng hóa phải đạt từ 70% trở lên.
+ Hậu quả: gây tổn hại sức khỏe đối với người tiêu dùng
+ Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. A nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn thực hiện
hành vi đó.
+ Chủ thể: A là chủ thể thường, là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định chịu trách nhiệm hình sự.

- Đối với Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226).
+ Khách thể: xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp.
+ Đối tượng tác động: Nhãn hiệu của các nhãn hàng Ajinomoto, Miwon, A-eon,
Thai Fermenttiom Ind. Co; Ltd,...

[8]
+ Mặt khách quan: A đã mua bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đemvề đóng
gói vào bao bì mang các nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, A-eon, Thai Fermenttiom Ind.
Co; Ltd… (đây là các nhãn hiệu đã được đăng kí bảo hộ) rồi đem bán ra thị trường với
giá trị là 300 triệu đồng. Như vậy A đã có hành vi sử dụng bất hợp pháp đối với các
đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên, gây nhầm lẫn với người tiêu dùng.
+ Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. A nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái với quy định của pháp luật nhưng vẫn thực hiện
hành vi đó.
+ Chủ thể: A là chủ thể thường, là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định chịu trách nhiệm hình sự.
Tội sản xuất và mua bán hàng giả Điều 193
??? Tội gì ???
+ 193
??? Cơ sở nào cho rằng đối tượng tác động là hàng giả???
+ Phụ gia thực phẩm: bọt ngọt Điểm b khoản 7 Điều 3 NĐ 98
??? Cơ sở nào cho rằng có hành vi khách quan ???
Hành vi khách quan:
+ SX
+ Buôn bán
+ Vận chuyển
Đóng gói (sản xuất) -> khoản 1 Điều 3 NĐ98
Bán ra thị trường (buôn bán) -> khoản 2 Điều 3 NĐ98
??? Tại sao không định thêm tội nhãn hiệu hàng hóa Điều 226???
=> Điều 226 đối tượng tác động là nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam. Nhãn
hiệu là để phân biệt hàng hóa và dịch vụ giữa các tổ chức cá nhân khác nhau. =>
Hàng nhái.
=> sản phẩm Điều 226 đối tượng là nhãn hiệu hàng hóa và hàng hóa này không
phải là hàng giả, hàng hóa có giá trị sử dụng và giá trị. Còn nó là hàng giả, không
có giá trị sử dụng -> đối tượng giả về nội dung không đặt ra vấn đề giả về hình
thức nữa.

+ Điều 193: đối tượng tác động là hàng giả


Hàng giả: Hàng kém chất lượng và không có giá trị sử dụng (đăng ký mức tiêu
dùng <70%)
+ Điều 226: đối tượng tác động là nhãn hiệu của hàng hóa đó
=> hàng giả là hàng giả chứ không phải của hàng hóa; Điều 226 là giả về hình
thức, giả về nhãn hiệu nhưng vẫn có giá trị và giá trị sử dụng.

=>Trường hợp giả về nội dung và giả về hình thức thì truy cứu cái gì???
[9]
Đóng một gói bột ngọt nhưng trong đó là bột mì và mang nhãn hiệu ajinamoto
=> giả nhãn hiệu ajinamoto
=> nội dung không đảm bảo
=> 2 khách thể khác nhau
=> Truy cứu Tội sản xuất hàng giả về nội dung (giả về hình thức là chất lượng
tốt, có giá trị và giá trị sử dụng). Nhưng giả về nội dung và giả về hình thức =>
chất lượng không đảm bảo => phải truy cứu giả về nội dung trước chứ không giả
về hình thức
=> Bản chất hàng giả không phải là hàng hóa

=> 193 với 226: đã giả về nội dung là hàng giả chứ không thể hàng hóa, còn hình
thức giả về nhãn hiệu còn nội dung anh vẫn đáp ứng có giá trị sử dụng và giá trị
hàng hóa bình thường.

[10]

You might also like