Professional Documents
Culture Documents
Bài tập tháng thứ 1 MTâm
Bài tập tháng thứ 1 MTâm
1) Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?
- Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự bao gồm:
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
- Quan hệ tài sản: là quan hệ giữa các chủ thể gắn liền với tài sản, tức là quan hệ
giữa các chủ thể gắn liền với “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” (khoản
1 Điều 105 BLDS)1.
- Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa các chủ thể gắn liền với yếu tố nhân thân
của chủ thể.
Quan hệ nhân thân bao gồm:
+ Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản.
+ Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản.
2) Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao?
Quan hệ giữa A và B không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015. Vì:
+ Điều 1 BLDS 2005 cũng như Điều 1 BLDS 2015 có quy định một trong các
phạm vi điều chỉnh của BLDS là “quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng,
tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là
quan hệ dân sự)”.
+ Trong khi đó, xét thấy quan hệ giữa A và B là quan hệ ép buộc, được xác lập
dựa không dựa trên cơ sở bình đẳng, tự do về ý chí.
Do đó, quan hệ của A và B không đáp ứng đủ điều kiện để trở thành phạm vi
điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015.
Hậu quả - Trường hợp vợ hoặc chồng - Quan hệ hôn nhân gia đình và
pháp lý của người bị tuyên bố mất các quan hệ nhân thân khác
tích xin ly hôn thì Tòa án của người đó được giải quyết
giải quyết cho ly hôn theo như đối với người đã chết (k1
quy định của pháp luật về Đ72 BLDS 2015).
hôn nhân và gia đình. - Tài sản của người đó được
- Tài sản của người bị tuyên giải quyết theo quy định của
bố mất tích sẽ được chuyển pháp luật về thừa kế (k2 Đ72
sang cho người khác quản BLDS 2015).
lý theo quy định tại Điều
69 của Bộ luật này.
2) Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời
hạn bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
Tùy vào từng trường hợp thì người có quyền lợi ích liên quan có thể yêu cầu
Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà
vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
d) Biệt tích 05 năm trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn
này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Căn cứ pháp lý: khoản 1 Điều 71 BLDS 2015.
3) Trong các vụ việc trên, cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm
nào? Vì sao?
- Tại Quyết định số 272/2018/QĐST-DS: Ông C được tuyên bố chết vào ngày
01/01/1986. Vì ông C bỏ đi cuối năm 1985. Gia đình đã tổ chức tìm kiếm
những không có tin tức. Tòa án nhân dân Quận 9 cũng ban hành Thông báo
tìm kiếm nhưng không có kết quả. Công an phường Phước Bình, Quận 9
không xác định được ngày, tháng ông C vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc
trường hợp không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng của ông C.
Do đó, ngày chết của ông C được tính là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm
có tin tức cuối cùng theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS 2015.
- Tại Quyết định số 04/2018/QĐST-DS: Chị K được tuyên bố chết vào ngày
19/11/2018. Vì chị K đi biệt tích từ năm 1992 không có tin tức gì. Gia đình đã
tìm kiếm và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có
kết quả. Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn đã ra quyết định thông báo tìm
kiếm chị K nhưng cũng không có tin tức. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định chị K
đã biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực chị K còn sống
theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015.
- Tại Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS: Cụ C được tuyên bố chết vào ngày
01/5/1997. Vì cụ C biệt tích từ tháng 1/1997. Gia đình đã đi tìm kiếm và thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có tin tức. Tại Công văn
của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội cũng thể hiện việc chi trả
lương hưu cho cụ C chỉ được thực hiện đến hết tháng 4/1997. Căn cứ vào tại
liệu, chứng cứ nêu trên cho thấy cụ C đã biệt tích từ tháng 1/1997 đến nay
không có tin tức gì xác thực cụ còn sống hay đã chết cũng như căn cứ vào văn
bản trả lời của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội có cơ sở để xác định
tin tức cuối cùng của cụ C là tháng 4/1997. Do đó, ngày chết của cụ C sẽ được
tính là ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng theo quy
định khoản 1 Điều 68 BLDS 2015.
4) Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân?
Nêu cơ sở pháp lý và tìm ví dụ minh họa.
Việc xác định ngày chết của một cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng bởi thời
điểm chết của một người là thời điểm phát sinh sự kiện pháp lý liên quan đến
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người đó.
- Quan hệ hôn nhân của người bị tuyên bố chết với chồng hoặc vợ của mình
chấm dứt kể từ ngày xác định là ngày cá nhân đó chết. Và người đó sẽ được
khai tử theo trình tự và thủ tục của pháp luật (Điều 30 BLDS 2015).
- Việc xác định ngày chết của một cá nhân còn là cơ sở để xác định thời điểm
mở thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS 2015. Trong đó quy
định:
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa
án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác
định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Khi giải quyết tranh chấp về thừa kế, Tòa án sẽ căn cứ vào thời điểm xác định
một người là đã chết để xác định những vấn đề liên quan như thời hiệu thừa kế,
hàng thừa kế, diện thừa kế, di sản… Do đó, xác định đúng hay sai thời điểm
chết của người bị tuyên bố là đã chết sẽ dẫn đến việc Tòa án giải quyết vụ án
thừa kế đúng hay sai.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn còn nhiều quan điểm không thống nhất
khi áp dụng điều luật này để xác định thời điểm chết của một người bị tuyên bố
là đã chết của các Tòa án.
- Ví dụ minh họa: Theo yêu cầu của người liên quan, năm 2006, Tòa tuyên bố
ông B mất tích. Năm 2007, vợ ông B xin ly hôn, được Tòa chấp nhận. Năm
2010, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố ông B đã chết, nếu Tòa tuyên ông B chết
vào tháng 2/2006 thì sẽ mâu thuẫn với bản án mà tòa cho vợ ông ly hôn năm
2007.
5) Toà án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên cho câu trả lời?
- Tại Quyết định số 272/2018/QĐST–DS: Ông C được tuyên bố chết vào ngày
01/01/1986, được thể hiện ở đoạn: “Do đó, ngày chết của ông C được tính là
ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Như vậy, ngày chết
của ông C là ngày 01/01/1986”.
- Tại Quyết định số 04/2018/QĐST-DS: Chị K được tuyên bố chết vào ngày
19/11/2018, được thể hiện ở đoạn: “Tuyên bố chị Quản Thị K – sinh 1969 đã
chết ngày 19/11/2018”.
- Tại Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS: Cụ C được tuyên bố chết từ ngày
01/5/1997, được thể hiện ở đoạn: “Căn cứ vào quy định nêu trên, có cơ sở để
xác định cụ Phạm Văn C đã chết kể từ ngày 01/5/1997”.
6) Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên, pháp luật nước ngoài
xác định ngày chết là ngày nào?
Đối với hoàn cảnh trong các quyết định trên, BLDS Pháp xác định ngày chết là
ngày mất tích, được thể hiện rõ trong Điều 90 Chương IV Thiên II: “Nếu Tòa
án tuyên bố một người là đã chết thì ngày chết phải được xác định trên cơ sở
suy đoán từ hoàn cảnh vụ việc, nếu không thì là ngày mất tích. Ngày chết luôn
luôn phải được xác định cụ thể”.
7) Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết
định trên.
- Đối với Quyết định số 272/2018/QĐST-DS: Việc Tòa án xác định ngày chết
của ông C là hợp lý, vì bà T và ông T chỉ xác định được ông C bỏ đi vào cuối
năm 1985 mà không xác định được cụ thể là ngày nào, tháng nào cũng như
Công an phường Phước Bình, Quận 9 không xác định được ngày, tháng ông C
vắng mặt tại địa phương. Do đó, ông C rơi vào trường hợp không xác định
được ngày, tháng có tin tức cuối cùng. Và khi so với quy định tại khoản 1 Điều
68 BLDS 2015, việc Tòa xác định ngày chết của ông C ngày đầu tiên của năm
tiếp theo năm có tin tức cuối cùng (01/01/1986) là đúng với quy định.
- Đối với Quyết định số 04/2018/QĐST-DS: Việc Tòa án xác định ngày chết
của chị K là chưa thuyết phục và không hợp lý. Chị K biệt tích từ năm 1992 và
đến nay không có tin tức gì. Từ đó, có thể xác định năm 1992 chính là năm có
tin tức cuối cùng của chị K. Do đó, nếu áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 68
BLDS 2015 thì ngày chết của chị K nên được tính là ngày đầu tiên của năm
tiếp theo năm có tin tức cuối cùng (01/01/1993). Nhưng ở đây, Tòa án lại tính
ngày chết của chị là ngày Toà ra quyết định tuyên bố (19/11/2018). Vậy câu
hỏi đặt ra là: Làm sao Tòa án biết chắc chắn là quyết định của mình sẽ có hiệu
lực mà “ghi trước” ngày được? Đó là câu hỏi cần được giải quyết.
- Đối với Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS: Việc Tòa án xác định ngày chết
của cụ C là hợp lý. Vì theo chứng cứ đưa ra có cơ sở để xác định tin tức cuối
cùng về cụ là tháng 4/1997. Và khi so với quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS
2015, việc Tòa xác định ngày chết của cụ C là ngày đầu tiên của tháng tiếp
theo tháng có tin tức cuối cùng (1/5/1997) là đúng với quy định.