Professional Documents
Culture Documents
TÓM TẮT
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nên cần nguồn vốn lớn để xây dựng
cơ sở hạ tầng, đầu tư cho phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam có thâm hụt ngân sách cao,
tỷ lệ thu nhập, tỷ lệ tiết kiệm và dự trữ ngoại hối thấp dẫn đến không đủ nguồn lực
đầu tư cho phát triển. Vì vậy, nguồn vốn vay bên ngoài là một trong những nguồn lực
quan trọng để bù đắp thiếu hụt để phát triển đất nước, góp phần bắt kịp với các nước
trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, vay nước ngoài càng nhiều có giúp nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng cao bởi vì hàng năm Chính phủ phải dành gần 25% ngân sách
để trả nợ? Dòng vốn nước ngoài tác động như thế nào đến đầu tư, tiêu dùng và thương
mại cũng như tăng trưởng kinh tế của các nước đi vay? Nghiên cứu tác động của nợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2000-2016 nhằm tìm
ra câu trả lời cho những câu hỏi nêu trên.
Nghiên cứu đã xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam bằng phương pháp định lượng trên cơ sở sử dụng ước lượng MIDAS. Kết
quả nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh
tế trong giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra, các biến số về độ mở nền kinh tế, tỷ giá cũng
như lạm phát cũng tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã sử dụng phương pháp định lượngVECM để
xem xét, đánh giá tác động của ngưỡng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Kết
quả đã cho thấy tồn tại ngưỡng nợ nước ngoài trong giai đoạn nghiên cứu. Đây là cơ
sở quan trọng để đưa ra các khuyến nghị chính sách trong công tác quản lý, sử dụng
nợ nước ngoài của Việt Nam trong tương lai.
Tóm lại, nghiên cứu là một bằng chứng thực nghiệm để minh chứng về tác
động tích cực của nợ nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong
giai đoạn đổi mới. Bằng chứng thực nghiệm là cơ sở để đưa ra các khuyến nghị chính
sách cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách về vấn đề này để sử dụng hiệu quả
nguồn vốn nợ nước ngoài trong đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong tương
lai.
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô trường Đại học
Ngân hàng TP.HCM đã tận tình truyền đạt kiến thức để tôi hoàn thành các chuyên đề
và luận án này.
Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến người hướng dẫn khoa học,
PGS.TS Lê Phan Thị Diệu Thảo. Cô đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, động viên tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè khoa Kinh tế quốc tế và trường Đại học Ngân
hàng TP.HCM đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này, đặc biệt là cô Phạm
Thị Tuyết Trinh và Hạ Thị Thiều Dao đã có nhiều góp ý để hoàn thiện luận án.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
động viên, khích lệ tôi trong những lúc khó khăn nhất để hoàn thành luận án.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 24/12/2018
MỤC LỤC
Trang
4.3. Phân tích thực nghiệm tác động tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh
tế Việt Nam...................................................................................................................... 85
4.3.1. Thống kê mô tả các biến số trong mô hình nghiên cứu ........................................ 85
4.3.2. Phân tích hồi quy mô hình tuyến tính ................................................................... 87
4.3.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu............................................................................... 91
4.4. Phân tích thực nghiệm tác động phi tuyến của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh
tế Việt Nam...................................................................................................................... 92
4.4.1. Thống kê mô tả các biến số trong mô hình nghiên cứu ........................................ 92
4.4.2. Phân tích hồi quy mô hình nghiên cứu ................................................................ 94
4.4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu............................................................................. 106
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH .........................108
5.1. Kết luận .............................................................................................................. 108
5.2. Khuyến nghị chính sách về nợ nước ngoài ........................................................ 109
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài ............................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vii
ra cho các nước đi vay như biến động tỷ giá làm nghĩa vụ nợ tăng cao so với nguồn
lực có được từ đi vay để đầu tư phát triển nền kinh tế, giành nhiều nguồn lực để trả
nợ thay vì đầu tư vào nền kinh tế…Một ví dụ điển hình khác về tác động của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế được đề cập hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Các ngân hàng
thương mại của Thổ Nhĩ Kỳ đã vay nước ngoài với lãi suất thấp rồi cho các doanh
nghiệp trong nước vay lại. Tính đến 03/2018, tổng nợ nước ngoài của Thổ Nhĩ Kỳ là
437.7 tỷ USD, tương đương 50% GDP ứng với tỷ giá 3.96 Lira/USD. Tuy nhiên, khi
đồng nội tệ mất giá 70% vào tháng 07/2018 thì tỷ lệ nợ nước ngoài là 88% GDP
(Haver 2018). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ do tỷ
giá tăng dẫn đến hệ thống ngân hàng bị lung lay và các bất ổn vĩ mô xuất hiện trong
nền kinh tế.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của
chiến tranh kéo dài trong hơn 30 năm qua đã không ngừng đầu tư phát triển nhằm
thoát khỏi đói nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân. Một trong những vấn đề mà
Việt Nam đương đầu là nguồn vốn để đầu tư để phát triển đất nước. Trong ba thập
niên gần đây, Việt Nam đã huy động mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế với
mục tiêu cơ bản xóa đói, giảm nghèo, gia nhập nhóm nước có mức thu nhập trung
bình. Một trong những nguồn lực tài chính Việt Nam sử dụng là vay nước ngoài. Nợ
nước ngoài trở thành kênh tài chính để đầu tư phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, bù
đắp thâm hụt ngân sách. Sau khi gia nhập WTO (2007), nợ nước ngoài có sự gia tăng
mạnh mẽ, đặc biệt là giai đoạn từ sau năm 2010. Nếu nợ nước ngoài năm 2007 là
23.2 tỷ USD thì đến năm 2016 đã là 86.95 tỷ USD, tăng 274% trong vòng 10 năm,
tương đương 42.36% GDP (WB 2018). Trong bảng xếp hạng nợ nước ngoài của CIA
năm 2017, Việt Nam đứng vị trí 52 trên 208 nước và vùng lãnh thổ về nợ nước ngoài.
Nợ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế để
xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm quốc gia, phát triển các vùng kinh
tế, tạo tiền đề quan trọng trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, một vấn đề
đặt ra là vay nước ngoài càng nhiều có giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng kinh
tế cao. Dòng vốn nước ngoài tác động như thế nào đến hoạt động đầu tư, tiết kiệm và
3
thương mại cũng như tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều này có thể tạo ra vòng
luẩn quẩn trong phát triển kinh tế của các nước đang triển khi tích tụ nợ nước ngoài
gây ra những rủi ro cho nền kinh tế (Soludo 2003). Nakatani và Herara (2007) đã chỉ
ra hiệu ứng chèn lấn trong đầu tư công tại các quốc gia vay nợ nước ngoài nhiều và
không tạo ra nguồn trả nợ bền vững, hiệu quả trong tương lai, tạo tác động bất lợi đến
đầu tư, tăng trưởng kinh tế.
Xét dưới góc độ lý thuyết, mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các lý thuyết về nợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế tập trung giải thích mối quan hệ này dựa trên các mô hình kinh tế
động trong các nền kinh tế mở với một bên là vay nợ nước ngoài để phát triển kinh
tế, qua đó sử dụng nguồn lực tiết kiệm bên ngoài để đầu tư vào nền kinh tế. Điều này
càng trở nên đúng với các nước đang phát triển khi sử dụng nguồn lực bên ngoài dồi
dào, công nghệ hiện đại để rút ngắn thời gian phát triển với hy vọng thoát nghèo, đuổi
kịp các nước phát triển, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, bên còn lại là vấn
đề hiệu quả sử dụng vốn vay và gia tăng nghĩa vụ nợ trong tương lai khi gia tăng vay
nước ngoài để đầu tư. Điều này mang lại nhiều rủi ro cho các nước đi vay trong qua
trình phát triển kinh tế khi các quốc gia vay mượn nhiều từ bên ngoài sẽ dẫn đến sự
tích tụ các khoản lãi phải trả ngày càng gia tăng dẫn đến giảm đầu tư, giảm phúc lợi
xã hội. Một câu hỏi đặt ra là việc gia tăng nợ nước ngoài có làm gia tăng tăng trưởng
kinh tế hay ngược lại vì các nghĩa vụ nợ mang lại ngày càng tăng. Hay nói một cách
khác, nợ nước ngoài có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế do sự tích tụ các
nghĩa vụ nợ mang lại, làm cho các quốc gia mất khả năng trả nợ. Các cuộc tranh luận
xoay quanh vấn đề về tác động tích cực hay tiêu cực của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia hay gia tăng nợ nước ngoài có làm tăng trưởng kinh
tế giảm. Chawdhury (2001) cho thấy các nước có tỷ lệ nợ nước ngoài cao phải giành
phần lớn các nguồn lực thu được từ xuất khẩu để trả nợ thay vì giành nguồn lực để
đầu tư cho nền kinh tế, tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư của các quốc gia. Vì
vậy, vấn đề quản lý nợ nước ngoài trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà
hoạch định chính sách. Các quốc gia cần xây dựng chính sách tự chủ về quản lý nợ
4
phù hợp hoàn cảnh của mỗi nước (Amassoma 2011). Các nghiên cứu của Cohen
(1993), Deshpande (1997), Krugman (1998), Sachs (1989), Chowdhury (2001),
Pattillo (2004)… đã ủng hộ lý thuyết này thông qua một số nghiên cứu thực nghiệm
cho thấy tỷ lệ nợ nước ngoài cao mang lại những bất ổn cho nền kinh tế do phân bổ
vốn không hiệu quả, tập trung vào các dự án ngắn hạn, rủi ro cao.
Tuy nhiên, cũng có lập luận cho rằng so với các nước phát triển, các nước đang
phát triển có dung lượng vốn nhỏ nhưng tỷ suất hoàn vốn cao trở thành tâm điểm thu
hút các dòng vốn từ bên ngoài vào để đầu tư. Nếu các quốc gia vay nợ sử dụng hiệu
quả vốn vay nước ngoài sẽ tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế cũng như tạo dòng
tiền tốt để thanh toán nợ vay trong tương lai. Vì vậy, các quốc gia nhỏ có tỷ lệ nợ
nước ngoài cao đã trở thành đối tượng nghiên cứu về tác động tích cực của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu của Frimpong và Abayi (2006), Daud
và cộng sự (2013), Korkmaz (2016) cho thấy tác động tích cực của nợ nước ngoài
đến tăng trưởng kinh tế đã củng cố thêm cơ sở cho những lập luận nêu trên. Ngoài
các nghiên cứu nêu trên, luận án đã phân tích nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực
nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế để minh chứng cho
sự tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế (xem thêm mục 2.4 của
Chương 2). Các nghiên cứu định lượng chủ yếu sử dụng các mô hình VECM, ARDL,
GMM… với các biến số có cùng tần suất (Winston và Chrystol 2010). Đối với các
nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam, Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thành (2009), Nguyễn Hữu Tuấn (2012) và
Nguyễn Ngọc Thạch và Trần Thị Kim Oanh (2016) sử dụng các mô hình VECM,
GMM đều cho kết quả phù hợp với các nghiên cứu trước đó về nợ nước ngoài. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về Việt Nam có số quan sát nhỏ (dưới 30 mẫu quan sát) hoặc
giai đoạn nghiên cứu có nhiều biến động. Để giải quyết vấn đề này và tăng độ tin cậy,
Ghysels và cộng sự (2002, 2006, 2009) đã giới thiệu phương pháp MIDAS trên cơ sở
kết hợp các biến số có tần suất khác nhau trong mô hình nghiên cứu.
Dựa trên những phân tích từ thực tiến và lý thuyết nêu trên, luận án nhận thấy
chưa có nghiên cứu nào về đánh giá tác động của nợ nước ngoài cũng như một số
5
biến vĩ mô khác (độ mở, tỷ giá, lạm phát) đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên cơ
sở kết hợp các dữ liệu có tần suất khác nhau trong mô hình nghiên cứu. Các mô hình
nghiên cứu trước đó chủ yếu sử dụng mô hình ARDL, VECM cho các biến số có
cùng tần suất. Vì vậy, nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trên cơ sở kết hợp các biến nghiên cứu có tần suất khác nhau bằng
phương pháp MIDAS chính là khoảng trống nghiên cứu của luận án. Thông qua
phương pháp MIDAS, nghiên cứu định lượng xem xét liệu nợ nước ngoài tăng nhanh
có làm cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam tăng nhanh tương ứng? Kết quả nghiên cứu
là một bằng chứng thực nghiệm quan trọng để đưa ra các khuyến nghị về nợ nước
ngoài cho Việt Nam trong tương lai. Bên cạnh đó, luận án cũng đã chọn giai đoạn từ
năm 2000 đến năm 2016 để nghiên cứu trên cơ sở Việt Nam đã ký thỏa thuận xử lý
nợ với Liên bang Nga về các khoản nợ của Liên Xô trước đây, nhằm tránh những
biến động mạnh về nợ nước ngoài liên quan đến việc chuyển đổi giữa đồng rúp và
đồng USD. Mặt khác, luận án nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam dưới góc độ phi tuyến tính nhằm xem xét có tồn tại ngưỡng nợ tối
ưu cho Việt Nam? Luận án sẽ xem xét ngưỡng nợ theo quý trong khi các ngưỡng nợ
được xác định trong các nghiên cứu trước đây cho Việt Nam chủ yếu là theo năm
(Nguyễn Hữu Tuấn 2012). Dựa trên cơ sở ngưỡng nợ này sẽ đưa ra các khuyến nghị
chính sách trong công tác quản lý nợ nước ngoài cho Việt Nam trong thời gian tới.
Để trả lời các câu hỏi nêu trên, luận án “Tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam” đã được lựa chọn để phân tích, đánh giá và nghiên cứu
thực nghiệm, làm cơ sở đưa ra các khuyến nghị chính sách về vấn đề nợ nước ngoài.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận án là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam bằng mô hình nghiên cứu định lượng. Để đạt được mục tiêu
nêu trên, luận án sẽ hướng đến các mục tiêu cụ thể sau:
(i) Nghiên cứu tác động và đo lường mức độ tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
6
(ii) Nghiên cứu tác động của ngưỡng nợ nước ngoài và đo lường mức độ tác động
của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
(iii) Đề xuất các hàm ý chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nợ nước ngoài
để phát triển kinh tế Việt Nam.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Thông qua mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án đưa ra hai câu hỏi nghiên cứu
nhằm xem xét tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế như sau:
(i) Nợ nước ngoài có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hay
không? Nếu có, mức độ tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
như thế nào?.
(ii) Có tồn tại ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam hay không? Nếu có, ngưỡng
nợ nước ngoài tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam?
Các nguồn dữ liệu được sử dụng trong luận án được thu thập chủ yếu từ Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới (WB) và
Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO).
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế dưới góc độ định
lượng theo hai câu hỏi nghiên cứu nói trên, luận án sử dụng hai mô hình nghiên cứu
sau:
(i) Phương pháp ước lượng sử dụng mô hình MIDAS (Mixed-Data Sampling) của
Ghysels và cộng sự (2002, 2006) được sử dụng để đánh giá tác động tuyến
tính nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Mô hình này có ưu điểm là đánh
giá các dữ liệu chuỗi thời gian đầu vào với các tần suất khác nhau thông qua
phương trình hồi qui tuyến tính. Dữ liệu vĩ mô chuỗi thời gian trong thực tế
cho thấy sự tiến thoái lưỡng nan của các nhà nghiên cứu khi một số biến có
tần suất cao chứa đựng các thông tin có giá trị nhưng không thể kết hợp với
các biến có tần suất thấp hơn, chẳng hạn như dữ liệu GDP được công bố theo
quý nhưng dữ liệu nợ nước ngoài lại công bố theo năm. Các giải pháp phổ biến
trong quá khứ là lọc bộ dữ liệu cho đồng nhất cùng một tần suất để nghiên cứu.
Tuy nhiên, khi dữ liệu được đồng nhất sẽ loại bỏ nhiều thông tin hữu ích. Vì
vậy, mô hình MIDAS đưa ra cách thức xử lý đơn giản, linh hoạt của dữ liệu
chuỗi thời gian cho phép kết hợp các biến độc lập và phụ thuộc với nhiều tần
suất khác nhau (Ghysels 2002).
(ii) Phương pháp ước lượng sử dụng mô hình VECM (Vector Error Correction
Model) theo phương pháp Johansen (1991) được sử dụng trong luận án để
đánh giá tác động của ngưỡng nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Mô hình
VECM được phát triển từ mô hình VAR (Vector Autoregressive Model) trên
cơ sở đưa thêm thành phần hiệu chỉnh sai số vào mô hình nghiên cứu. Vì được
phát triển từ mô hình VAR nên mô hình VECM được xem là hệ các phương
trình hồi quy theo OLS giữa giá trị hiện tại của biến này (t) với giá trị quá khứ
của chính nó (t-1) và các biến khác trong mô hình kết hợp với phần hiệu chỉnh
8
sai số có được từ mối quan hệ đồng liên kết. Mô hình VECM đánh giá mối
quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn
thông qua hai kiểm định là Trace và Maximum Eigenvalue (Max- Eigen) cũng
như phân tích tác động của cú sốc nợ nước ngoài vào các biến trong mô hình
bằng phương pháp phân rã Cholesky. Ưu điểm của mô hình này là cho phép
đo lường hiện tượng đồng liên kết giữa nhiều biến trong mô hình nghiên cứu,
đồng thời cho phép đo lường mức độ điều chỉnh từ sự mất cân bằng của thời
kỳ trước.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng một số phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh
cũng như thống kê mô tả hỗ trợ cho phân tích tổng quan về nợ nước ngoài, tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu làm cơ sở xây dựng mô hình
định lượng và lý giải các kết quả ước lượng trong mô hình nghiên cứu.
1.6. Điểm mới của luận án
Luận án nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam có những điểm mới như sau:
Thứ nhất, luận án đã xem xét tác động tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam dựa trên mô hình MIDAS. Các nghiên cứu trước đây về vấn
đề này chủ yếu phân tích bằng mô hình OLS, VAR và VECM (More và Thomas
2010). Nghiên cứu thực nghiệm bằng mô hình MIDAS cho phép kết hợp dữ liệu với
các tần suất khác nhau mà không bỏ sót các thông tin quan trọng như các mô hình
khác khi quy các biến số về cùng một tần suất, góp phần cập nhật được dữ liệu nghiên
cứu do một số năm nợ nước ngoài không được cập nhật dữ liệu theo quý. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn 2000-2016, so với nghiên cứu trước đây về vấn đề này của
Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thanh (2009) lại cho kết quả tiêu cực.
Thứ hai, luận án đã đánh giá tác động của ngưỡng nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trên cơ sở chỉ ra sự tồn tại ngưỡng nợ này dựa trên mô hình
VECM với biến giả ngưỡng nợ là biến ngoại sinh. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
9
cho thấy ngưỡng nợ có tác động đến tăng trưởng và có ý nghĩa thống kê trong ngắn
hạn cũng như tác động tích cực của nợ nước ngoài đến tăng trưởng trong dài hạn. So
với các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế Việt Nam của Nguyễn Hữu Tuấn (2012), Nguyễn Ngọc Thạch và Trần
Thị Kim Oanh (2016), mô hình phi tuyến của luận án đã sử dụng dữ liệu theo tần suất
quý để tăng số quan sát của mẫu nghiên cứu cũng như tăng độ tin cậy cho kết quả
nghiên cứu.
Thứ ba, luận án đã đồng thời xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam dưới hai góc độ tuyến tính và phi tuyến. Các nghiên cứu
trước đây về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu nghiên cứu
dưới góc độ tuyến tính để phân tích thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu ở hai góc độ
này đều có ý nghĩa thống kê để củng cố thêm bằng chứng về vai trò quan trọng của
nợ nước ngoài như là một kênh huy động vốn đầu tư cho đất nước để phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập quốc dân.
Thứ tư, dựa trên các thông số kết quả của mô hình hồi quy, luận án đã đưa ra
một số khuyến nghị nhằm sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn lực nợ nước ngoài trong
đầu tư công, tạo nguồn thu trả nợ trong tương lai cũng như đề cao vai trò công tác
thống kê dữ liệu kinh tế vĩ mô theo chuẩn mực quốc tế, trong đó có dữ liệu nợ nước
ngoài, để phục vụ các nghiên cứu, dự báo về vấn đề nợ nước ngoài trong ngắn hạn và
dài hạn, tránh bị động trước những cú sốc từ bên trong và bên ngoài nền kinh tế khi
có biến động.
1.7. Ý nghĩa của luận án
Phân tích thực nghiệm bằng mô hình tuyến tính và phi tuyến trong luận án cho
thấy nợ nước ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Đối
với biến nợ nước ngoài, nợ nước ngoài/GDP tăng 1% sẽ làm GDP tăng 0.99%. Đồng
thời, độ mở nền kinh tế cũng tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế theo tỷ lệ cứ
độ mở tăng 1% làm GDP tăng 0.01%. Phân tích thực nghiệm cho thấy việc tăng cung
tiền M2 tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế theo hướng tỷ lệ thay đổi cung tiền
tăng 1% làm GDP tăng 0.037%. Các kết quả này là cơ sở cho các nhà hoạch định
10
chính sách xem xét tập trung xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ các ngành
công nghiệp, công nghiệp phụ trợ hướng về xuất khẩu dựa vào các nguồn vốn từ bên
ngoài.
Luận án cũng cho thấy có tồn tại ngưỡng nợ nước ngoài là 21.5% GDP quý và
nợ nước ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Đối với
biến nợ nước ngoài, khi tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP tăng 1% sẽ làm GDP tăng 1.29%.
Đồng thời, nợ nước ngoài tác động tiêu cực đến độ mở nền kinh tế theo tỷ lệ cứ tăng
1% nợ nước ngoài/GDP sẽ làm giảm độ mở 95%. Kết quả này củng cố thêm lập luận
về quản lý nợ nước ngoài hiệu quả để tránh giành nguồn lực đầu tư để trả nợ, làm
giảm nguồn lực để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu ở các nước
đang phát triển như Việt Nam, giảm động lực tăng trưởng.
Dựa trên các kết quả nêu trên, nghiên cứu đưa ra các gợi ý chính sách cho Chính
phủ Việt Nam trong quản lý, sử dụng nợ nước ngoài để góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trên cơ sở quản lý, đầu tư hiệu quả các công trình trọng điểm sử dụng vốn vay
nước ngoài cũng như công tác thống kê nợ nước ngoài để thu thập dữ liệu phục vụ
công tác nghiên cứu, dự báo về vấn đề này, tránh bị động trước các cú sốc từ bên
ngoài tác động đến nợ nước ngoài lẫn tăng trưởng kinh tế.
1.8. Kết cấu nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nêu trên với yêu cầu tính gắn kết cao,
chuyên đề sẽ được kết cấu thành 5 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu
hỏi nghiên cứu cững như phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 2: Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Chương này sẽ cung cấp cơ sở
lý thuyết về nợ nước ngoài, ngưỡng nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế cũng như
các thông tin nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam và trên thế giới.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương 3 đề cập lý thuyết mô hình MIDAS
và VECM làm nền tảng cho xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm về tác động
11
động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, luận án cũng đề
ra giả thuyết nghiên cứu để kiểm định các câu hỏi nghiên cứu đề ra trong Chương 1
cũng như thiết kế trình tự nghiên cứu cho từng mô hình cụ thể.
Chương 4: Kiểm định tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
cũng như xác định ngưỡng nợ nước ngoài có tồn tại trong trường hợp Việt Nam. Nội
dung chủ yếu của chương này là giới thiệu khái quát về nợ nước ngoài, tăng trưởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2016 và tiến hành ước lượng hồi quy các mô hình
MIDAS, VECM cũng như thực hiện các kiểm định thống kê để đánh giá tác động của
nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn nhằm
tránh hồi quy giả mạo.
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị chính sách. Luận án đưa ra các kết luận về
vai trò của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn nghiên
cứu dựa trên các kết quả kiểm định từ Chương 4 và đưa ra các khuyến nghị chính
sách cũng như các hạn chế, định hướng nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này.
12
cá nhân và các tổ chức hợp tác xã. Qua đó cho thấy sự bất cập trong định nghĩa nợ
nước ngoài giữa Việt Nam và thế giới.
Tóm lại, nợ nước ngoài của một quốc gia được hiểu là các khoản nợ của người
không cư trú vay người cư trú của một nền kinh tế, không phân biệt pháp nhân hay
thể nhân, nhưng phải chịu trách nhiệm trả nợ đối với các khoản vay nợ của mình, phù
hợp với các qui định của pháp luật hiện hành.
2.1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ nước ngoài dựa trên chủ thể cho vay, đi vay
hoặc căn cứ vào điều kiện cho vay. Sau đây, luận án sẽ đi phân loại cụ thể theo từng
tiêu chí như sau:
Trong đó, nợ ngắn hạn được quan tâm vì tác động đến khả năng thanh toán cũng như
hệ số tín nhiệm quốc gia.
Tỷ lệ giữa tổng nợ nước ngoài trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑛ợ 𝑛ướ𝑐 𝑛𝑔𝑜à𝑖
𝐻1 = 𝑥100%
𝐺𝐷𝑃
Chỉ số này cho biết khả năng trả nợ (gốc và lãi) của một quốc gia đối với các
khoản vay nước ngoài hay mỗi đồng tài sản của quốc gia thì có bao nhiêu đồng phải
trả nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ số này chưa phản ánh được những rủi ro trong ngắn
hạn mà các quốc gia phải đương đầu như sự mất cân đối về kì hạn giữa tài sản nợ và
tài sản có hay sự thay đổi đột ngột của các dòng vốn, đặc biệt là sự dịch chuyển dòng
vốn ra bên ngoài quốc gia đó. Theo WB, chỉ tiêu này trên 50% được xem là không
bền vững và vượt quá giới hạn cho phép.
Tỷ lệ nợ nước ngoài trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑛ợ 𝑛ướ𝑐 𝑛𝑔𝑜à𝑖
𝐻3 = 𝑥100%
𝐾𝑖𝑚 𝑛𝑔ạ𝑐ℎ 𝑥𝑢ấ𝑡 𝑘ℎẩ𝑢
Chỉ số này phản ánh khả năng trả nợ bằng ngoại tệ của quốc gia, cho biết mỗi
đồng thu được từ hoạt động xuất khẩu phải dành bao nhiêu đồng để trả nợ nước ngoài.
Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Tuy
nhiên chỉ số này cũng chưa phản ánh đầy đủ khả năng trả nợ của một quốc gia vì
nguồn thu xuất khẩu rất dễ biến động từ năm này sang năm khác và cần có những
phương án khác để trả nợ nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất khẩu như
16
hạn chế nhập khẩu hay giảm dự trữ ngoại hối quốc gia. Theo WB và IMF, chỉ tiêu
này trên 150% là vượt ngưỡng an toàn về nợ nước ngoài.
Tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
𝑁𝑔ℎĩ𝑎 𝑣ụ 𝑛ợ
𝐻4 = 𝑥100%
𝐾𝑖𝑚 𝑛𝑔ạ𝑐ℎ 𝑥𝑢ấ𝑡 𝑘ℎẩ𝑢
Tỷ lệ này cho biết nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu của quốc gia đáp
ứng được bao nhiêu phần trăm chi phí nợ vay nước ngoài, hệ số này càng nhỏ càng
an toàn. Tuy nhiên, nguồn thu ngoại tệ của nhiều quốc gia không chỉ phụ thuộc vào
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ mà còn đến từ hoạt động đầu tư ra nước ngoài, tín dụng
quốc tế… Do đó, chỉ số này có hạn chế khi sử dụng đánh giá năng lực trả nợ nước
ngoài của các quốc gia đi vay. Theo WB và IMF, chỉ tiêu này trên 15% là vượt ngưỡng
an toàn, các quốc gia cần phải lưu ý.
- Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên tổng nợ nước ngoài, phản ánh khả năng trả nợ
của một nước bằng dự trữ ngoại hối của mình, tỷ lệ này càng cao thì càng tốt
do đáp ứng khả năng thanh toán tức thời của các khoản nợ nước ngoài.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn trên tổng nợ nước ngoài, phản ánh tỷ trọng
các khoản nợ nước ngoài cần thanh toán trong ngắn hạn so với tổng nợ. Tỷ lệ
này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn và ngược lại.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài ưu đãi trên tổng nợ nước ngoài, tỷ lệ này càng cao, gánh
nặng nợ nước ngoài càng nhẹ.
17
gọi là sáng kiến HIPCs. Đến 1999, ngưỡng tới hạn được điều chỉnh lại (Bảng 2.2).
Đặc biệt, đối với nền kinh tế mở, giá trị tới hạn của chỉ tiêu giá trị hiện tại của nợ so
với xuất khẩu có thể thấp hơn giá trị tới hạn nêu trên. Theo HIPC I, nền kinh tế mở
là nền kinh tế có xuất khẩu/GDP 40% và thu ngân sách/GDP 20%; theo HIPC II
thì hai chỉ tiêu trên lần lượt là 30% và 15%.
Bảng 2.2. Ngưỡng tới hạn của nợ nghiêm trọng theo sáng kiến HIPC
Chỉ tiêu HIPC I (1996) HIPC II (1999)
Bảng 2.4. Mức ngưỡng nợ dựa theo tiêu chuẩn của HIPCs
Ngưỡng an toàn (%)
Loại quốc gia
Kém Trung bình Mạnh
Tiêu chí
CPIA ≤ 3.25 3.25 < CPIA < 3.75 CPIA ≥ 3.75
Giá trị hiện tại của nợ/Xuất khẩu 100% 150% 200%
Giá trị hiện tại của nợ/Thu ngân sách 200% 250% 300%
Theo Krugman (1988) và Sachs (1984, 1989), ngưỡng nợ nước ngoài của một
quốc gia là mức vay nợ tối đa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu vượt qua nó tăng
trưởng kinh tế sẽ giảm sút. Ngưỡng nợ được xác định bằng cách tính hiện giá của các
khoản phải trả trong tương lai so với giá hiện tại của các khoản nợ. Nếu hiện giá nhỏ
hơn mệnh giá các khoản vay thì các quốc gia không nên vay thêm nợ nước ngoài.
Cohen và Sachs (1986) đề xuất chiến lược vay nợ hai giai đoạn với một nền kinh tế
mở trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa nợ vay nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn đầu, các nước gia tăng vay nợ nước ngoài để đạt tăng trưởng kinh tế cao.
Hạn chế vay nước ngoài ở giai đoạn hai khi tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm
lại. Vì vậy, hai tác giả cho rằng khi đạt đến ngưỡng nợ nên giảm nợ nước ngoài.
Nghiên cứu của Aguiar và Amador (2009) cũng ủng hộ lý thuyết này khi chứng minh
các nước có tổng tài sản nước ngoài gia tăng lại có tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các
nước gia tăng nợ nước ngoài. Krugman (1988) đã đề xuất phương án xử lý cho các
nước có ngưỡng nợ nước ngoài là xóa các khoản vay cũ để giảm nợ và cơ cấu các
khoản vay mới để đầu tư hiệu quả hơn trong nền kinh tế, điều này mang lại lợi ích
cho chủ nợ và người đi vay.
Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm hỗ trợ lý thuyết về ngưỡng nợ vẫn còn ít
và yếu cho đến khi các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính xảy ra gần đây đã làm
cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có vấn đề ngưỡng nợ. Reinhart và
Rogoff’s (2010) đã nghiên cứu nợ chính phủ và nợ nước ngoài của 44 quốc gia trên
cở sở đặt ra nhiều ngưỡng nợ khác nhau để xem xét tăng trưởng kinh tế và lạm phát
tác động đến nợ như thế nào. Kết quả nghiên cứu về nợ nước ngoài cho thấy có tồn
tại ngưỡng nợ và ngưỡng nợ giữa các nước phát triển (90% GDP) và đang phát triển
(60% GDP) là khác nhau. Checherita và Rother (2010) đã nghiên cứu tác động của
nợ công đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn của các nước trong liên
minh châu Âu thông qua ước lượng bình phương. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra sự
tồn tại ngưỡng nợ tương ứng là 90-100% GDP. Cechetti và cộng sự (2011) đã sử
dụng phương pháp ngưỡng của Hansen (1999) để nghiên cứu mối quan hệ giữa nợ
21
và tăng trưởng của 18 nước OECD giai đoạn 1980-2010. Nghiên cứu cũng cho thấy
nợ tác động xấu đến tăng trưởng và có tồn tại ngưỡng nợ. Kết hợp giữa lý thuyết và
bằng chứng thực nghiệm cho thấy có sự tồn tại ngưỡng nợ nước ngoài ở các nước đi
vay và ngưỡng nợ được hiểu là mức vay nợ tối đa nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nếu vay nhiều hơn sẽ làm các quốc gia gặp khó khăn trong việc trả nợ, tăng trưởng
kinh tế giảm và dễ dẫn đến bất ổn về chính trị, xã hội.
2.2. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế
2.2.1. Khái niệm
Khái niệm tăng trưởng kinh tế được đưa ra dưới nhiều quan điểm khác nhau.
Lipsey (1986) cho rằng tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng (GDP) trong dài
hạn. Tương tự, Chaudhuri (1989), tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của sản lượng
hàng hóa và dịch vụ mà sự tăng lên này được duy trì trong thời gian dài. Jhingan
(2007) cũng cho rằng tăng trưởng kinh tế chỉ là quá trình làm gia tăng sản lượng quốc
gia. Todaro và Smith (2006) xem tăng trưởng kinh tế là quá trình gia tăng năng lực
sản xuất của quốc gia để mang lại mức tăng sản lượng và thu nhập.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được hiểu là quá trình làm gia tăng sản lượng, thu
nhập quốc gia hay trên đầu người. Hay nói một cách khác, tăng trưởng kinh tế được
hiểu là sản xuất hàng hóa, dịch vụ tăng lên trong một quốc gia và cùng với nó là thu
nhập trung bình tăng, đồng thời tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng
kinh tế đặt trọng tâm vào thay đổi thu nhập quốc dân, được đo lường thông qua hai
số đo căn bản là tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Các nhà kinh tế học quan tâm đến nguồn gốc, cách thức cũng như hiệu quả tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia trên cơ sở đề ra các lý thuyết nhằm phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến các vấn đề nêu trên. Do đó, luận án sẽ đi phân tích một số mô
hình tăng trưởng kinh tế để để xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng trong
phần tiếp theo.
22
thay đổi. Tóm lại, trường phái Keynes đề cao vai trò đầu tư vốn vào nền kinh tế để
tạo tăng trưởng kinh tế.
thu công nghệ mới chứ không phải tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế. Mô hình
chưa phân tích được các ảnh hưởng khác đến trạng thái dừng (ổn định kinh tế, chính
trị, vị trí địa lý thuận lợi…) với những giả định rằng tiết kiệm, tăng trưởng lao động,
tiến bộ công nghệ là những yếu tố sẵn có.
Gợi ý chính sách từ mô hình Solow cho thấy các nước thực hiện tăng tỷ lệ tiết
kiệm, giảm tỷ lệ tăng dân số để tăng thu nhập bình quân đầu người chỉ trong ngắn
hạn nhưng không đạt được tăng trưởng trong dài hạn. Tuy nhiên, các cải cách chính
sách có thể nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng được tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người một cách thường xuyên và nâng cao được tốc độ tăng trưởng trong trạng thái
ổn định.
và tác động vào phân phối thu nhập xã hội. Từ đó, tạo công ăn việc làm và chống lạm
phát.
Theo Samuelson và Nordhaus (1976), các nước đang phát triển đang rơi vào vòng
lẩn quẩn của sự nghèo khổ, muốn thoát ra được cần phải có có huých từ bên ngoài.
Điều đó có nghĩa là các nước đang phát triển cần phải có sự trợ giúp của vốn, công
nghệ, trình độ quản lý từ các nước phát triển. Đối với các nước đang phát triển muốn
thoát ra vòng lẩn quẩn cần đầu tư lớn cho sự phát triển nhưng thu nhập thấp, tỷ lệ tiết
kiệm không cao. Vì vậy, để đáp ứng nguồn vốn cho đầu tư, các nước này cần phải đi
vay từ bên ngoài. Mặt khác, thông qua chuyển giao và hợp tác công nghệ, giúp các
nước nghèo thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, lực lượng
lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động phổ thông nên muốn thoát nghèo cần
trang bị kỹ năng, sức khỏe cho họ. Muốn vậy, các nước đang phát triển cần đầu tư
cho hệ thống giáo dục và y tế để nâng cao chỉ số phát triển con người, từ đó nâng cao
thu nhập và tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế.
Một mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại nữa được đề cập là các mô hình tăng
trưởng kinh tế nội sinh trên cơ sở khắc phục những khiếm khuyết của mô hình Solow
khi không giải thích rõ năng suất lao động tăng do sự thay đổi của nhân tố cơ bản
nào, lao động hay tiết kiệm và đầu tư và biến biến ngoại sinh thành biến nội sinh. Mô
hình tăng trưởng nội sinh cho rằng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn được quyết định
bởi tỷ lệ tiết kiệm và mức đầu tư trong nền kinh tế. Barro (1990) đề cập vấn đề tăng
chi tiêu chính phủ để làm tiền đề phát triển khu vực tư nhân. Ngoài ra, ông còn cho
rằng tăng trưởng kinh tế của các quốc gia không chỉ ở hiệu quả đầu tư mà còn ở sự
chênh lệch về tri thức và vốn nhân lực (Human Capital). Vốn nhân lực được hiểu gồm
là vốn đầu tư cho con người gồm đầu tư cho giáo dục, y tế. Các nghiên cứu của Romer
(1990), Becker và cộng sự (1990), Lukas (1998) đã đề cập về vấn đề này và đã chứng
minh được sự tác động của vốn con người đến tăng trưởng kinh tế. Lukas (1998) cho
rằng vốn nhân lực là toàn bộ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và sức khỏe của con
người. Trong quá trình phát triển, nền kinh tế tích lũy được nhiều vốn và càng có
nhiều nguồn lực để đầu tư vào con người. Vốn nhân lực góp phần làm tăng năng suất
27
lao động và năng suất biên của vốn không giảm. Mô hình mà Romer (1990) nghiên
cứu cho rằng vốn đầu tư bao gồm vốn vật chất và vốn đầu tư vào hoạt động nghiên
cứu phát triển (R&D) để tạo ra sản phẩm mới và hoàn thiện các sản phẩm này. Romer
có thêm biến trình độ công nghệ của nền kinh tế, biến này phụ thuộc vào quy mô tích
lũy tri thức và kinh nghiệm trong mô hình. Sản phẩm mới cho phép ngăn chặn xu
hướng giảm năng suất biên của vốn. Ông xem tiến bộ khoa học công nghệ là nguồn
gốc nội sinh của tăng trưởng.
Mô hình kinh tế dựa trên nguồn vốn thể chế (Institutional Capital) được Platje
(2008) phân tích chi tiết trong nghiên cứu tổng quát “An Institutional Capital
approach to Sustainable Development” gồm sức mạnh thể chế, lĩnh vực công, chất
lượng quản lý điều hành và trạng thái cân bằng của thể chế để phát triển kinh tế bền
vững. Đây là các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế bền vững, theo chiều sâu
trong đó yếu tố cân bằng thể chế được xem là quan trọng nhất, ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế bền vững. Thể chế được hiểu là các quy tắc tương tác của con người,
làm cho các hành vi con người dễ trở nên tiên đoán hơn và tạo điều kiện cho phân
công lao động xã hội để tạo ra nhiều của cải vật chất hơn cho nền kinh tế (North
2003). Các nhà kinh tế học nghiên cứu thể chế trên cơ sở mối quan hệ hai chiều giữa
kinh tế học và các thể chế hay nói một cách khác là họ xem xét ảnh hưởng của các
thể chế đến nền kinh tế cũng như quá trình phát triển của các thể chế trước các tác
động của yếu tố kinh tế (Kasper và cộng sự 2011 ). Vì vậy, vốn thể chế bao gồm luôn
vốn xã hội vì tổ chức xã hội là nền tảng cho sự tồn tại của xã hội loài người, là yếu tố
đầu vào quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia.
Thông qua các mô hình kinh tế nêu trên có thể thấy bốn yếu tố tạo động lực cho
tăng trưởng kinh tế gồm vốn, lao động, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Vốn
dùng để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị… nhằm tạo ra sản lượng cao và
bền vững. Lao động là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất, quyết định
đến chất lượng tăng trưởng vì chất lượng, kỷ luật lao động sẽ tạo ra sự hiệu quả trong
sử dụng công nghệ cũng như cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị. Tài nguyên thiên nhiên
là yếu tố đầu vào cổ điển nhưng không phải là yếu tố quyết định đến tăng trưởng vì
28
có những nước không có nhiều tài nguyên như Nhật Bản vẫn tăng trưởng cao dựa
trên vốn, công nghệ. Cuối cùng là yếu tố công nghệ được xem ngày càng quan trọng
trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao trên cùng một lượng lao động và vốn đầu vào
như nhau. Bốn yếu tố này được xem như bốn bánh xe của tăng trưởng và vấn đề đặt
ra là phối hợp bốn nhân tố này để đạt tăng trưởng tối ưu. Trong giới hạn của luận án
này sẽ xem xét tác động của vốn đến tăng trưởng đến kinh tế Việt Nam, trong đó có
đề cập đến vốn vay từ bên ngoài.
2.3. Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Bên cạnh nguồn nhân lực, công nghệ thì vốn cũng là nguồn lực đầu vào quan
trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển có
thu nhập, tiết kiệm thấp nên việc vay vốn từ nước ngoài để đầu tư phát triển kinh tế
là điều tất yếu (Clements và cộng sự 2003). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và hoạch
định chính sách quan tâm đến vấn đề là nợ nước ngoài tác động như thế nào đến tăng
trưởng kinh tế cũng như vay nước ngoài càng nhiều thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có
tăng cao tương ứng hay không.
Chenery và Strout (1966) trong mô hình hai khoảng cách trên cơ sở phân tích tác
động nguồn vốn bên ngoài đến tăng trưởng kinh tế trên cơ sở phân tích khung lý
thuyết các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế. Mô hình phân tích dựa trên nghiên cứu của
Chenery và Bruno (1962) như sau:
Y=C+I+X-M (2.1)
Y=C+S (2.2)
S=Y-C (2.3)
C+I+X= C+S+M (2.4)
I-S=M-X (2.5)
Trong đó, Y là chi tiêu của quốc gia, C là tiêu dùng, I là đầu tư, X là xuất khẩu, M là
nhập khẩu, (I-S) là khoảng cách tiết kiệm, (M-X) là khoảng cách thương mại.
Phương trình (2.5) cho thấy sự cân bằng giữa khoảng cách tiết kiệm (savings gap -
thiếu hụt đầu tư) và khoảng cách thương mại (trade gap – thiếu hụt ngoại thương).
29
Khoảng cách thứ nhất là thiếu hụt đầu tư sẽ hạn chế tăng trưởng do vai trò quan trọng
của vốn đầu tư trong các mô hình tăng trưởng đã được đề cập trong chương … Thâm
hụt ngoại thương là khoảng cách thứ hai làm hạn chế tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển. Nguồn vốn bên ngoài là giải pháp bù đắp hai nguồn thiếu hụt
nêu trên ( Chenery và Strout 1966). Bên cạnh đó, mô hình này nhấn mạnh phương
trình (2.5) không cân bằng thì có hai tình huống xảy ra. Tình huống thứ nhất là thiếu
hụt đầu tư lớn hơn thiếu hụt ngoại thương, các quốc gia nên giảm đầu tư và gia tăng
tiết kiệm nội địa. Ngược lại, các quốc gia nên nên tăng cường xuất siêu. Nguồn vốn
bên ngoài sẽ góp phần cân bằng cho mô hình hai khoảng cách và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Hình 2.1. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế
GDP thực
C Vay nhiều để đầu tư
B
C’ Vay thấp
A Vay nhiều để tiêu dùng
C’’
B’
t
Trước khi vay Vay nước ngoài Khủng hoảng nợ
Nguồn: Kamin và cộng sự (1989)
Kamin và cộng sự (1989) nghiên cứu các kênh tác động của nợ nước ngoài đến
tăng trưởng thông qua ba kênh truyền dẫn, (i) thông qua kênh đầu tư, (ii) tổng cầu,
(iii) nghĩa vụ trả nợ trong tương lai. Đối với kênh đầu tư, các nước bù đắp nguồn vốn
thiếu hụt bằng cách tham gia thị trường vốn quốc tế. Khi các nguồn vốn vay được
đầu tư hiệu quả sẽ tăng GDP cho nền kinh tế. Phần A, B của Hình 2.1 đại diện cho
GDP trước và sau khi vay nước ngoài. Tuy nhiên, khi lãi vay tăng cao, hoạt động
30
thương mại giảm sút sẽ ảnh hưởng đến các quốc gia vay trên thị trường vốn quốc tế.
Điều này dẫn đến tổng đầu tư trong nền kinh tế giảm và những bất ổn vĩ mô xuất
hiện. Bên cạnh đó, khi nghĩa vụ nợ của Chính phủ gia tăng sẽ làm giảm đầu tư khu
vực tư nhân do lo ngại tăng thuế cũng như các chính sách đưa ra sẽ ảnh hưởng đến
lợi nhuận. Tất cả những yếu tố nêu trên dẫn đến tăng trưởng kinh tế giảm do khủng
hoảng nợ gây ra (phần C của Hình 2.1).
Đối với kênh tổng cầu, nợ nước ngoài tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua
thu nhập bình quân đầu người. Vay nước ngoài làm cho chi tiêu của khu vực công và
tư nhân tăng lên. Việc gia tăng chi tiêu khu vực tư nhân sẽ ảnh hưởng đến chính sách
tài khóa, dẫn đến gia tăng tổng cầu và sản lượng cho nền kinh tế. Đồng thời, việc
nhập khẩu bị tác động bởi yếu tố thu nhập và hoạt động sản xuất trong nước do nhập
khẩu các yếu tố đầu vào cho hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, để đáp ứng nghĩa vụ nợ
chính phủ cần phải cải thiện cán cân thanh toán để cân đối dòng ngoại tệ bằng cách
vay từ bên ngoài.
Tác động cuối cùng của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc
thanh toán lãi vay trong tương lai. Các quốc gia vay nhiều bên ngoài đồng nghĩa với
việc gia tăng thanh toán nghĩa vụ nợ trong tương lai (khoản vay gốc và lãi vay). Điều
này đồng nghĩa với việc gia tăng áp lực lên nguồn thu ngoại tệ trong tương lai của
quốc gia. Vì vậy, điều này đồng nghĩa với việc giảm đầu tư, giảm nhập khẩu và giảm
tổng cầu trong nền kinh tế, hậu qủa là làm cho tăng trưởng kinh tế giảm.
Trên cơ sở mô hình hai khoảng cách của Chenery và Strout (1966), Bacha (1990),
Taylor (1994) đã đưa thêm khoảng cách ngân sách (Fiscal gap-thiếu hụt ngân sách)
vào mô hình ba khoảng cách. Theo Bacha, chính phủ các nước đang phát triển bội
chi ngân sách để đầu tư phát triển để trong xây dựng cơ sở hạ tầng và các ngành công
nghiệp làm nền móng cho phát triển đầu tư tư nhân. Khi đó các khoản bội chi này
được bù đắp thông qua các khoản vay nước ngoài. Mô hình ba khoảng cách tiếp cận
nợ công nói chung và nợ nước ngoài nói riêng trên cơ sở kiểm soát thâm hụt ngân
sách. Để tăng trưởng kinh tế bền vững, các quốc gia cần thu hẹp ba khoảng cách này.
Một trong những biện pháp để thu hẹp là sử dụng nguồn lực bên ngoài như FDI, FII,
31
ODA.. Mô hình ba khoảng cách nhấn mạnh việc điều chỉnh để cân bằng giữa ba
khoảng cách. Nếu khoảng cách ngân sách lớn hơn khoảng cách tiết kiệm nên giảm
chi tiêu chính phủ, tốc độ tăng đầu tư phải phù hợp với tăng tiết kiệm trong tiêu dùng
của người dân. Nếu khoảng cách thương mại lớn hơn khoảng cách ngân sách nên tăng
nguồn thu thông qua thuế và gia tăng hoạt động xuất siêu để giảm khoảng cách thương
mại.
Hình 2.2. Cơ chế truyền dẫn tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Tiết Đầu tư
kiệm Lãi suất khu vực
ròng tư nhân
Năng
Thuế vốn suất lao
động
Nợ
Chi phí Chi phí
nước sản xuất
lãi vay khu vực GDP
ngoài
công
Khác
để bù đắp thâm hụt ngân sách. Điều này đồng nghĩa trong dài hạn lãi suất sẽ tăng, kéo
theo hệ quả làm đầu tư giảm, dẫn đến tích lũy vốn giảm và làm giảm năng suất lao
động. Bên cạnh đó, nợ tăng cao làm cho nghĩa vụ nợ tăng dẫn đến chính phủ giảm
đầu tư hoặc tăng thuế cao nhằm tạo nguồn để trả nợ. Hệ quả là làm giảm tiêu dùng,
giảm đầu tư của khu vực tư nhân và nguồn cung lao động. Cuối cùng, nợ tác động
đến tăng trưởng dưới góc độ chi phí rủi ro. Chi phí rủi ro khi nợ tăng cao dẫn đến chi
phí tài trợ cho các khoản vay tăng do ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của quốc
gia. Hệ quả là lãi suất cho vay tăng. Tất cả các yếu tố trên sẽ ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế của quốc gia (Hình 2.2). Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cũng tác động
ngược lại đến nợ của các quốc gia.
Nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế với hai xu hướng
chính, (i) vay nợ nước ngoài tăng sẽ làm tăng trưởng kinh tế tăng, (ii) vay nợ nước
ngoài tăng sẽ làm tăng trưởng kinh tế tăng trong giai đoạn đầu nhưng sau đó nếu tiếp
tục gia tăng nợ sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm.
Đối với quan điểm thứ nhất về tác động tích cực của nợ đến tăng trưởng kinh tế,
các nhà nghiên cứu lập luận trên cơ sở các khoản vay được đầu tư hiệu quả sẽ làm
cho GDP tiềm năng (thực) sẽ gia tăng. Trong Hình 2.1, phần A thể hiện sự gia tăng
sản lượng tiềm năng khi mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng và phần B thể hiện
gia tăng sản lượng thông qua gia tăng vay nước ngoài. Vay nợ nước ngoài tăng cao
làm gia tăng đầu tư dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao hơn (phần B) so với phần A. Sản
lượng đạt đến mức tối ưu trong dài hạn chủ yếu nhờ quá trình tích lũy vốn trong nền
kinh tế. Bên cạnh đó, vay nước ngoài là cách để tiếp cận thị trường vốn quốc tế cũng
như gia tăng nguồn vốn đầu tư dồi dào cho nền kinh tế. Mặt khác, với nguồn vốn lớn
là cơ hội để các nước đang phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng để thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài để đầu tư hiệu quả hơn trên cơ sở học tập kinh nghiệm và công nghệ
nước ngoài. Thông qua quá trình này để tích lũy vốn tái đầu tư vào nền kinh tế, giảm
dần sự phụ thuộc nguồn lực từ bên ngoài. Các nghiên cứu thực nghiệm của Sulaiman
và Azeez (2012), Shah và Pervin (2012) Daud và cộng sự (2013), Korkmaz (2015)
đã đưa ra các bằng chứng ủng hộ quan điểm này.
33
Quan điểm thứ hai cho rằng khi vay nước ngoài nhiều sẽ làm tăng trưởng kinh tế
giảm. Một trong những lập luận đó là lý thuyết nghịch lý nợ (debt overhang) của
Krugman (1988) trên cơ sở cho rằng khi các quốc gia gia tăng vay nợ ở mức hợp lý
sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu nợ tích lũy vượt qua đỉnh nợ sẽ tạo
áp lực kìm hãm tăng trưởng. Khi mức nợ nước ngoài cao sẽ làm lợi nhuận kì vọng
đầu tư giảm do chính phủ thực hiện các chính sách thuế biến dạng (distorted taxes)
để có tiền trả nợ. Do đó, nợ cao không khuyến khích các hoạt động đầu tư và làm
chậm quá trình tích lũy vốn cho nền kinh tế. Đồng thời, không tạo ra động lực cho
các chính phủ thực hiện cải cách tài khóa, nền tảng cho các nước đang phát triển duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhằm thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên
hiệp quốc. Một lập luận khác để giải thích nghịch lý nợ trên cơ sở phân tích khả năng
trả nợ của một quốc gia (Sachs 1989). Ông cho rằng nếu mức nợ nước ngoài dự kiến
vượt quá khả năng trả nợ của quốc gia sẽ ảnh hưởng đến sản lượng quốc gia vì các
chủ nợ nước ngoài sẽ đánh thuế trên các khoản lợi nhuận đầu tư trong nước, dẫn đến
tăng trưởng kinh tế trong nước suy giảm. Mặt khác, khi nợ nước ngoài quá lớn sẽ làm
giảm đầu tư trong nước do dành nguồn lực để trả nợ và hệ quả là tăng trưởng kinh tế
sẽ giảm (Agénor và Montiel 2015). Chính phủ sẽ sử dụng các công cụ sai lệch để gia
tăng nguồn thu nhằm thực hiện nghĩa vụ nợ, hệ quả là đầu tư và tăng trưởng suy giảm.
Đây có thể xem là đường cong Laffer về nợ nước ngoài, được minh họa ở Hình 2.2
(IMF 2002). Cohen (1993) cho rằng mối quan hệ giữa mệnh giá nợ nước ngoài và
đầu tư như là một dạng của đường cong Laffer. Ở một ngưỡng nợ nước ngoài nhất
định thì vay nước ngoài sẽ tác động tích cực tới đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, nếu vượt qua ngưỡng này sẽ có tác động ngược lại. Clements (2003) cũng lập
luận là giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế cũng có dạng đường cong Laffer
thông qua đầu tư. Ủng hộ giả thuyết này, Greene và Villanueva (1991) đã nghiên cứu
thực nghiệm với dữ liệu chuỗi thời gian tại 23 nước đang phát triển trong giai đoạn
1975-1987 cho thấy có mối quan hệ nghịch chiều giữa nợ nước ngoài với tăng trưởng
kinh tế, đầu tư tư nhân. Elbadawi và Ndungu (1997) cũng nghiên cứu vấn đề này dựa
trên dữ liệu bảng đã cho kết quả ngưỡng nợ nước ngoài dựa trên đường cong Laffer
34
là 97% GDP. Ngoài ra, Deshpande (1997), Chowdhury (2001), Clements và cộng sự
(2003), Tokunbo và cộng sự (2010) và Mohamed (2013) thông qua các nghiên cứu
thực nghiệm cho kết quả ủng hộ lý thuyết này.
Hình 2.3. Đường cong Laffer nợ
Ngưỡng nợ
Khả năng hoàn trả nợ dự
Vì vậy, nợ nước ngoài tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
rất nhiều vào hiệu quả sử dụng vốn, phân bổ nguồn lực hợp lý trong nền kinh tế. Vay
nước ngoài nhiều đầu tư vào nền kinh tế chưa chắc tạo được tăng trưởng cao do gánh
nặng nợ xuất hiện, giảm đầu tư trong tương lai cũng như quá trình tích lũy vốn cho
nền kinh tế và hủy hoại môi trường tự nhiên. Chính phủ các nước phải cân nhắc các
vấn đề này trong quá trình vay nợ nước ngoài để đầu tư vào nền kinh tế, tránh tình
trạng vay nhiều nhưng sử dụng không hiệu quả, tạo gánh nặng nợ trong tương lai cho
quốc gia.
2.4. Nghiên cứu thực nghiệm về tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Đỗ Đình Thu (2005) trong nghiên cứu “Quản lý nợ nước ngoài và kinh nghiệm
cho quản lý nợ ở Việt Nam” đã nêu kinh nghiệm quản lý nợ ở các nước trên thế giới
như như Anh, Úc, Mỹ, Thái Lan... và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
thiết lập mô hình quản lý nợ hiệu quả trên cơ sở phân tích các mô hình quản lý nợ
của các nước nêu trên. Một trong những giải pháp mà tác giả quan tâm là thành lập
cơ quản lý nợ độc lập với chính phủ cũng như có chính sách sử dụng minh bạch các
khoản vay nước ngoài.
36
Hà An (2006) thông qua nghiên cứu “Nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn trong
tầm kiểm soát” đã đánh giá các chỉ tiêu an toàn về nợ nước ngoài của Việt Nam giai
đoạn 1997-2004 theo các tiêu chí nợ bền vững của IMF (2005). Kết quả nghiên cứu
cho thấy các tiêu chí về an toàn nợ của Việt Nam theo IMF (2005) vẫn nằm trong
ngưỡng an toàn, trong giai đoạn nghiên cứu, không thuộc nhóm các nước nghèo có
gánh nặng nợ cao (HIPCs)
Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thành (2009) đã khảo sát tính bền vững của
nợ nước ngoài cũng như tác động đến tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 1990-2007
dựa trên mô hình Jame de Pines thông qua bài viết “Khảo sát tính bền vững của nợ
nước ngoài và ý nghĩa đóng góp đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”. Bài viết
dựa trên các tiêu chí đánh giá của WB và IMF để xem xét nợ nước ngoài của Việt
Nam giai đoạn 2000-2007 và đưa ra các kịch bản nợ nước ngoài Việt Nam có thể khi
có biến động về kim ngạch xuất nhập khẩu và dự báo cho giai đoạn 2008-2020. Mô
hình hồi qui bội của nghiên cứu trong giai đoạn 1990-2007 với các biến độc lập là
xuất khẩu, lạm phát, đầu tư trực tiếp nước ngoài, nghĩa vụ nợ nước ngoài trên GDP
và viện trợ nước ngoài trên GDP. Kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tư trong nước,
đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất khẩu có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, các biến lạm phát, tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên GDP và viện trợ nước ngoài
trên GDP lại tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Nợ nước ngoài tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn nên các khoản vay phải chú ý đến các yếu
tố chênh lệch lãi suất, lạm phát trong và ngoài nước, hiệu quả phân bổ và sử dụng
vốn cũng như thời điểm trả nợ.
Nguyễn Chí Hải (2011) đã đánh giá tổng thể về nợ nước ngoài cũng như hoạt
động quản lý của Việt Nam giai đoạn 1990-2010. Dựa trên phân tích số liệu nợ nước
ngoài của Việt Nam của WB và GSO, tác giả đã đưa ra các giải pháp để vay nợ nước
ngoài bền vững đến năm 2025. Một trong các giải pháp là quản lý bền vững nợ nước
ngoài thông qua các chỉ số đánh giá của IMF và tăng hiệu quả sử dụng vốn vay nước
ngoài thông qua tính minh bạch của các dự án sử dụng vốn vay, giảm sự chồng chéo
giữa các cơ quan quản lý nợ nước ngoài.
37
Nguyễn Hoàng (2012) trong nghiên cứu “Đánh giá những qui định pháp lý liên
quan đến giám sát nợ nước ngoài ở Việt Nam” đã khái quát các qui định về nợ công
nói chung và quản lý nợ nước ngoài nói riêng của Việt Nam. Đánh giá cho thấy sự
bất cập trong việc thực thi, triển khai các văn bản về lĩnh vực này. Qua đó, đưa ra các
đề xuất góp phần cải thiện vấn đề này trong tương lai. Cụ thể, công tác giám sát và
kiểm toán nợ công cần được quan tâm cũng như đưa ra các chiến lược dài hạn về vay
và trả nợ nước ngoài trong tương lai.
sách tài khóa và thương mại cũng tác động đến nợ nước ngoài của Keynea trong giai
đoạn nghiên cứu.
Mohamed (2005) đã nghiên cứu tác động của các yếu tố như nợ nước ngoài, xuất
khẩu, lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của Sudan, giai đoạn 1978-2001 bằng mô hình
OLS. Mô hình nghiên cứu gồm các biến độc lập như tăng trưởng hàng năm của nợ
nước ngoài trên GDP (Dt), tăng trưởng hàng năm của xuất khẩu thực (Xt), tỷ lệ lạm
phát của giai đoạn trước (Pt-1). Kết quả cho thấy, nợ nước ngoài và lạm phát trong
quá khứ tác động nghịch chiều với tăng trưởng kinh tế, cụ thể khi nợ nước ngoài tăng
1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế thực giảm 0.04%. Tuy nhiên, xuất khẩu lại tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cụ thể khi tăng trưởng xuất khẩu tăng 1% sẽ làm
tăng trưởng kinh tế thực tăng 0.24%. Vì vậy, đối với các nhà quản lý vĩ mô cần thiết
lập các chính sách hỗ trợ hướng tới các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu trên cơ
sở cải thiện cơ sở hạ tầng, khuyến khích tiết kiệm nội địa nhằm tạo nguồn thu cho
quốc gia, góp phần ổn định bền vững nợ nước ngoài trong tương lai.
Adegbite và cộng sự (2008) nghiên cứu nợ nước ngoài ở Nigeria giai đoạn 1975-
2005 cho thấy nợ nước ngoài có tác động tiêu cực đến thu nhập quốc gia. Mô hình
nghiên cứu định lượng dựa trên hai mô hình tuyến tính và phi tuyến. Đối với mô hình
tuyến tính, nghiên cứu dựa trên các biến độc lập như tăng trưởng xuất khấu
(EXPGRO), tỷ lệ giữa tổng vốn đầu tư trong nền kinh tế trên GDP (CAP/GDP), tỷ lệ
nghĩa vụ nợ trên GDP (DSERV/GDP), tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP
(EXDEBT/GDP), tỷ lệ tiết kiệm (SAV) và tỷ giá hối đoái (EXR). Kết quả nghiên cứu
cho thấy các biến tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP, tỷ lệ đầu tư
trên GDP và tỷ lệ tiết kiệm có tác động đến tăng trưởng kinh tế của Nigeria trong giai
đoạn nghiên cứu, trong đó tăng trưởng xuất khẩu, nợ nước ngoài tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế.
Mô hình phi tuyến được nghiên cứu dựa trên nghiên cứu của Elbadawi và cộng sự
(1999) với các biến độc lập gồm đầu tư tư nhân trên GDP (PRIVCAP/GDP), cú sốc
từ bên ngoài thông qua thương mại quốc tế (TOT), tỷ lệ đầu tư công trên GDP
(GCAPIT/GDP), nghĩa vụ nợ trên xuất khẩu (DSERV/EXPORT). Kết quả nghiên
39
cứu cho thấy nợ nước ngoài tác động tích cực đến đầu tư tư nhân và có tồn tại đường
cong Laffer nợ tại Nigeria. Ngược lại, đầu tư công và thương mại quốc tế lại tác động
tiêu cực đến đầu tư tư nhân. Nợ nước ngoài tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh
tế của Nigeria thông qua đầu tư tư nhân.
Sulaiman và Azeez (2012) cũng nghiên cứu vấn đề này ở Nigeria trong giai đoạn
1970-2010 cũng cho kết quả tương tự như trong nghiên cứu Tokunbo (2010) trên cơ
sở sử dụng mô hình VECM. Mô hình VECM sử dụng các biến độc lập EXD là nợ
nước ngoài, EXD/X là tỷ lệ nợ nước ngoài trên xuất khẩu, INF là tỷ lệ lạm phát và
EXR là tỷ giá hối đoái. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tồn tại hai mối quan hệ đồng
liên kết giữa các biến số trong mô hình. Trong dài hạn, các biến trong mô hình tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu trừ yếu tố nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn các biến đều có tác động đến tăng trưởng kinh tế
nhưng nợ nước ngoài thì ngược lại. Vì vậy, các đề xuất nhằm ổn định nợ nước ngoài
trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị trong nước cũng như đa dạng hóa danh
mục hàng hóa xuất khẩu để mang lại nguồn thu ngoại tệ, phát triển các ngành công
nghiệp nội địa để giảm kim ngạch nhập khẩu. Bên cạnh đó, ổn định tỷ giá và kiểm
soát lạm phát là những vấn đề mà chính phủ cần quan tâm trong kiểm soát nợ nước
ngoài.
Mahmud và Shahida (2012) đã nghiên cứu tính độc lập của nền kinh tế
Bangladesh so với nợ nước ngoài của chính phủ và được chính phủ bảo lãnh ở cả góc
độ ngắn hạn và dài hạn theo mô hình VECM. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu chuỗi
thời gian theo năm giai đoạn 1974-2010. Dựa trên nghiên cứu của Cunningham
(1993), mô hình định lượng gồm các biến độc lập như tổng vốn đầu tư trong nền kinh
tế (GKF), tỷ lệ phần trăm giữa dân số trong độ tuổi lao động và tổng dân số (WARP),
tỷ lệ giữa nợ công nước ngoài và GDP (EDGDP), tỷ lệ giữa nghĩa vụ nợ công nước
ngoài và lượng ngoại tệ thu được của quốc gia (TDSEX). Kết quả nghiên cứu trong
ngắn hạn cho rằng nghĩa vụ nợ nước ngoài ở khu vực công có tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế nhưng ảnh hưởng của tổng nợ nước ngoài ở khu vực công thì lại
không rõ ràng. Tuy nhiên, việc gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài ở khu vực công sẽ
40
tác động gián tiếp đến tăng trưởng vì làm tăng các nghĩa vụ nợ đối với nền kinh tế.
Mặt khác, kết quả nghiên cứu không chỉ ra được sự tồn tại ngưỡng nợ của Bangladesh
trong giai đoạn nghiên cứu. Vấn đề đặt ra thông qua nghiên cứu này là sử dụng hiệu
quả nợ nước ngoài cũng như quan tâm đến lãi suất vay, không vay nợ bằng mọi giá
và nên thay thế nợ nước ngoài bằng nguồn lực trong nước trên cơ sở gia tăng tiết
kiệm nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu bằng sử dụng nguồn lực trong nước. Bên cạnh đó,
minh bạch thông tin cũng như giảm tỷ lệ tham những cũng là các vấn đề quan tâm
khi sử dụng nợ nước ngoài.
Daud và cộng sự (2013) nghiên cứu tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế của Malaysia giai đoạn 1991Q1-2009Q4 với dữ liệu chuỗi thời gian theo quý.
Nghiên cứu sử dụng mô hình tự hồi qui có phân phối trễ (Autoregressive Distributed
Lag – ARDL) để xem xét tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn. Mô hình phân tích dựa trên nghiên cứu của Villanueva (2003) với các biến như
đầu tư ròng (GROSSF), tốc độ tăng trưởng dân số (POP), doanh thu của chính phủ
(GREV), độ mở nền kinh tế (OPENN), nợ nước ngoài (ED) và nghĩa vụ nợ nước
ngoài (DSERV). Nghiên cứu đã chỉ ra rằng về dài hạn, việc tăng nợ nước ngoài góp
phần thúc đẩy tăng trưởng tích cực cho Malaysia trong giai đoạn nghiên cứu với mô
hình tương ứng là ARDL (3,0,0,0,1,0,0). Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra sự tồn tại
đường cong Laffer nợ với ngưỡng nợ là 170,757 triệu RM (đồng nội tệ của Malaysia)
theo phương pháp Hansen (2000). Từ đó, các nhà hoạch định chính sách cần quan
tâm kiểm soát nợ nước ngoài để tránh trường hợp vay nợ nhiều nhưng tăng trưởng
kinh tế lại giảm thông qua hệ thống giám sát các chỉ số về nợ nước ngoài để không
vượt ngưỡng nợ đã đề ra.
Muhammad và Eatzaz (2014) đã nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế Pakistan giai đoạn 1970-2009 bằng mô hình ARDL. Nghiên cứu
vai trò của các chính sách kinh tế đối với tăng trưởng, trong đó có nợ nước ngoài. Mô
hình ARDL trong nghiên cứu với các biến như tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP (ED),
tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên xuất khẩu (DSX), tỷ lệ lạm phát (INF), tỷ lệ thâm hụt ngân sách
trên GDP (BDG), tỷ lệ trẻ em cấp hai đến trường (SER) và độ mở nền kinh tế (TO).
41
Tổ hợp các biến BDGt, SERt, TOt là chỉ số chính sách (Policy Index-PI) được tính
theo phương pháp phân tích thành phần có trọng số (Principal Component Analysis -
PCA). Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ nước ngoài tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế Pakistan cả trong ngắn hạn và dài hạn mà nguyên nhân chủ yếu đến từ nợ
nước ngoài song phương chứ không phải nợ đa phương. Tuy nhiên, khi kết hợp với
chỉ số chính sách nêu trên thì nợ nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế của Pakistan trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Điều này cho thấy chưa có sự kết hợp
giữa các chính sách của chính phủ trong việc sử dụng các nguồn lực tạo động lực cho
tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, việc kiểm soát lạm phát và thâm hụt ngân sách thấp
cũng như tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế thông qua độ mở nền kinh tế có tác
động tích cực đến hiệu quả sử dụng nợ nước ngoài.
Korkmaz (2015) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ theo mô hình VAR, dữ liệu quý (quý1/2003 đến quý 3/2014).
Mô hình VAR dựa trên các biến như nợ nước ngoài (ED), GDP thực tính theo giá cố
định năm 1998 (GDP), hai biến này đều được lấy logarithm. Kết quả nghiên cứu cho
thấy nợ nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ trong dài
hạn và giữa hai biến có hai mối quan hệ đồng liên kết với mức ý nghĩa 5%. Mô hình
VAR có độ trễ là 2 quý và các biến đều dừng ở I(1) nên thực hiện kiểm định nhân
quả Granger cho thấy nợ nước ngoài có tác động đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn với mức ý nghĩa 5%.
Adamu và Rasiah (2016) đã nghiên cứu nợ nước ngoài của Nigeria giai đoạn
1970-2013 bằng mô hình ARDL. Mô hình nghiên cứu dựa trên các biến độc lập như
tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNI (edy), chỉ số ổn định của nợ nước ngoài (esi), tỷ lệ đầu
tư công trên GDP (ing), tỷ lệ tín dụng nội địa cho khu vực tư nhân trên GDP (dcy),
độ mở nền kinh tế được tính bằng tỷ lệ kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP (opn) và
tốc độ tăng trưởng dân số (pop). Kết quả nghiên cứu cho thấy trong dài hạn nợ nước
ngoài tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ -0.069%. Tuy nhiên, chỉ số
ổn định nợ nước ngoài lại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
và dài hạn với tỷ lệ tương ứng là 0.024% và 0.072%. Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị
42
tới chính phủ cần giảm nợ vay nước ngoài, sử dụng nguồn lực trong nước, đồng thời
đảm bảo tính bền vững của nợ thông qua ổn định các chỉ số về nợ nước ngoài. Ba bài
học rút ra từ nghiên cứu này cho các nước đang phát triển như Nigeria là đảm bảo ổn
định bền vững cho nợ nước ngoài, tránh vay nợ quá mức, vượt ngưỡng nợ an toàn.
Bài học thứ hai là sử dụng các nguồn vốn trong nước thay thế nợ nước ngoài để phục
vụ đầu tư công. Cuối cùng là không tập trung đầu tư quá mức vào khu vực sản xuất
có liên quan đến xuất khẩu dầu mỏ do tác động nhiều đến vay nước ngoài khi giá dầu
thế giới biến động giảm.
Pegkas (2018) đã nghiên cứu tác động của nợ chính phủ đến tăng trưởng kinh tế
của Hy Lạp giai đoạn 1970-2016 thông qua mô hình ARDL và VAR cho dữ liệu
chuỗi thời gian. Mô hình nghiên cứu với các biến như biến kiểm soát bao gồm đầu
tư, tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng của Nhà nước, độ mở nền kinh tế và tăng trưởng dân
số (X’), tỷ lệ nợ công trên GDP (Debt). Nghiên cứu cho thấy trong trung hạn nợ nước
ngoài của chính phủ tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế, trong dài hạn nợ
nước ngoài tác động tích cực đến vay trong nước, đầu tư công và tiêu dùng. Kết quả
nghiên cứu trong dài hạn còn cho thấy các biến đều tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế ngoại trừ biến nợ chính phủ và tăng trưởng dân số. Ngoài ra, nghiên cứu cũng
chỉ ra sự tồn tại ngưỡng nợ của Hy Lạp là 105% GDP. Ngưỡng nợ cho thấy chính
phủ cần quan tâm đến giảm nợ nước ngoài khi nó tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế thông qua sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước, giảm thâm hụt ngân
sách, thâm hụt thương mại cũng như tăng cường tiết kiệm trong nước. Giai đoạn
2000-2006, sau khi đồng EUR ra đời, cho thấy nợ Chính phủ Hy Lạp tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế một cách rõ nét trước khi dẫn đến khủng hoảng nợ. Bên
cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét mức độ tác động khủng hoảng nợ đến tỷ giá và lãi
suất, trong đó lãi suất tác động đến yếu tố đầu tư còn tỷ giá tác động đến hoạt động
xuất nhập khẩu và ảnh hưởng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
Silva (2018) đã đánh giá tác động của nợ nước ngoài khu vực công và khu vực
tư nhân đến tăng trưởng kinh tế Bồ Đào Nha giai đoạn 1999Q4-2014Q4, dữ liệu quý.
Mô hình nghiên cứu với các biến như tỷ lệ nợ nước ngoài khu vực công trên GDP
43
(ΔExtdebtpub), tỷ lệ nợ nước ngoài khu vực tư nhân trên GDP (ΔExtdebtpriv), các biến
độc lập gồm tiết kiệm tư nhân, đầu tư công, tỷ lệ tăng trưởng đầu tư, tỷ lệ tăng trưởng
đầu tư của khu vực tư nhân, cán cân thu nhập (gồm cán cân vốn và chuyển giao vãng
lai) và tỷ lệ tăng trưởng TFP của khu vực tư nhân (Xtotal). Mô hình nghiên cứu tác
động đến tăng trưởng kinh tế thông qua đánh giá nhu cầu vốn, nguồn cung vốn và
ngoại lực bên ngoài quốc gia. Nhu cầu vốn được đánh giá thông qua tiết kiệm tư nhân,
đầu tư công và thu nhập GDP thực theo đầu người. Nguồn cung vốn đánh giá qua tốc
độ tăng trưởng đầu tư khu vực tư nhân. Ngoại lực đánh giá thông qua cán cân thương
mại trên GDP. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ nước ngoài khu vực tư nhân tác động
tích cực đến GDP nhưng nợ nước ngoài khu vực công thì cho kết quả ngược lại. Ngoài
ra, nghiên cứu cũng đã tìm ra ngưỡng nợ công của Bồ Đào Nha là khoảng 60% GDP.
2.4.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ phi tuyến tính
nghiên cứu với các biến tăng trưởng GDP thực, nợ nước ngoài trên GDP và bình
phương nợ nước ngoài trên GDP, nghĩa vụ nợ trên xuất khẩu, tổng đầu tư trên GDP,
cân đối ngân sách trên GDP, chỉ số thương mại và độ mở nền kinh tế. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các biến đều có ý nghĩa thống kê trừ hai biến chỉ số thương mại và độ
mở nền kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế có mối quan hệ phi tuyến với ngưỡng nợ là 50.76% GDP.
Kumar and Woo (2010) nghiên cứu 38 quốc gia phát triển và mới nổi với dân số
trên 5 triệu người giai đoạn 1970-2010 cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa nợ
công và tăng trưởng GDP bình quân đầu người, cụ thể tỷ lệ nợ/GDP tăng 10% thì làm
cho tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người giảm 02%/năm (các nền kinh tế
mới nổi) và 0.15% (các nước phát triển). Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy các nước
nợ cao thì tăng trưởng GDP/người lại nhỏ hơn các nước nợ thấp. Ngoài ra, nghiên
cứu còn chỉ ra những bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến giữa nợ và tăng trưởng
với ngưỡng nợ là 90%GDP.
Tokunbo và cộng sự (2010) đã nghiên cứu thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài
tác động đến tăng trưởng kinh tế của Nigeria giai đoạn 1970-2003 bằng mô hình
VECM. Mô hình nghiên cứu của Tokunbo dựa trên cơ sở nghiên cứu của Pattillo và
cộng sự (2000), Alfresdo và Francisco (2004) với các biến độc lập như tỷ lệ nợ nước
ngoài trên GDP (ѱ), ngưỡng nợ nước ngoài (ѱ*), Ə là biến giả, OPEN là độ mở nền
kinh tế được tính bằng cách lấy tổng kim ngạch xuất khẩu trên GDP, θ là tỷ lệ thâm
hụt thương mại trên GDP. Nghiên cứu cho thấy tồn tại đường cong Laffer nợ với
ngưỡng nợ được thiết lập khoảng 60% GDP. Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào ngưỡng nợ này, nếu tỷ lệ nợ nước ngoài dưới 60% GDP
sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Nigeria và ngược lại. Bên cạnh đó, nghiên
cứu cũng cho thấy tác động của thâm hụt ngân sách đến nợ nước ngoài và ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế. Một trong các giải pháp để giảm nợ nước ngoài khi vượt
ngưỡng nợ là giảm thâm hụt ngân sách. Bài học từ Nigeria là phải thực hiện kỷ luật
tài khóa để giảm thâm hụt ngân sách hiệu quả.
Mohamed (2013) đã nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài trong ngắn hạn và
dài hạn đến tăng trưởng kinh tế của Tunisia giai đoạn 1970-2010 bằng mô hình
VECM. Mô hình nghiên cứu dựa trên các biến độc lập như tỷ lệ đầu tư trên GDP (I),
tỷ lệ trẻ em cấp 2 đến trường (sec), tỷ lệ tăng dân số (n), tỷ lệ cung tiền M3 trên GDP
(M3), tỷ lệ giá trị xuất khẩu trên giá trị nhập khẩu (X/M), tỷ lệ nợ công trên GDP
(Debt). Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn nghiên cứu, cứ 1% nợ tăng làm tăng trưởng kinh tế giảm 0.15-0.17%.
46
Về dài hạn, cứ 1% nợ tăng làm tăng trưởng kinh tế giảm 0.27%. Ngoài ra, nghiên cứu
cũng chỉ ra sự tồn tại đường cong Laffer nợ với ngưỡng nợ là 30% GDP. Vấn đề quan
trọng với Tunisia là cải thiện thâm hụt tài khóa nhằm giảm vay nợ nước ngoài trong
tương lai nhằm tránh những hệ lụy do nợ nước ngoài mang lại, ảnh hưởng tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế.
Arcand và cộng sự (2015) nghiên cứu ngưỡng nợ tư nhân tại 44 quốc gia phát
triển và các nền kinh tế mới nổi trên thế giới trong giai đoạn 1976-2005. Nghiên cứu
chỉ ra mối quan hệ nghịch chiều giữa nợ tư nhân và tăng trưởng khi nợ/GDP đạt
khoảng 104-110% GDP. Mối quan hệ này rõ nét nhất khi vượt ngưỡng 160% GDP.
Daud (2016) đã nghiên cứu tác động của nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
Malaysia trong giai đoạn 1996Q1-2011Q4 bằng mô hình ARDL. Trong đó, mô hình
nghiên cứu với các biến GDP thực bình quân/ người, FGD là nợ chính phủ, INV là
tỷ lệ đầu tư, DEF là tỷ lệ thâm hụt của ngân sách liên bang, OPENN độ mở nền kinh
tế và lực lượng lao động LABOR . Tác giả đã xem xét hai mô hình với biến GDP và
INV là biến phụ thuộc, trong mỗi mô hình lại xem xét thành hai mô hình với các biến
độc lập khác nhau. Mô hình 1 với biến độc lập là nợ chính phủ và mô hình 2 với biến
độc lập là đầu tư, độ mở nền kinh tế, lao động và nợ chính phủ. Phân tích hồi quy
bằng phương pháp ARDL cho ra ba mô hình có ý nghĩa là ARDL (1,0) với hai biến
GDP và FGD, ARDL (1,1,0,4,0) với năm biến là GDP, INV, LABOR, OPENN và
FGD, và ARDL (1,0,2,2) với bốn biến là GDP, LABOR, OPENN và FGD. Tuy nhiên,
trong ba mô hình ARDL nêu trên thì mô hình ARDL (1,0) cho kết quả nợ công nước
ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, kết
qủa nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ phi tuyến tính trong dài hạn giữa nợ chính
phủ và tăng trưởng kinh tế với ngưỡng nợ được tính toán là khoảng 362.386 triệu RM
(đồng tiền Malaysia), trong khi nợ Chính phủ hiện tại đã là 456.128 triệu RM. Do đó,
nghiên cứu chỉ ra là nợ chính phủ tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế của
Malaysia trong giai đoạn nghiên cứu.
47
Bảng 2.5. Tóm tắt các nghiên cứu về tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế
Phương
Tác giả Dữ liệu nghiên cứu pháp Kết quả nghiên cứu
nghiên cứu
Nợ nước ngoài tác
35 quốc gia châu Phi trong động ngược chiều
Fosu (1999) OLS
giai đoạn 1975-1994 với tăng trưởng kinh
tế.
Nợ nước ngoài tác
động ngược chiều
Were (2001) Keyna giai đoạn 1970-1995 VECM
với tăng trưởng kinh
tế.
Nợ nước ngoài tác
động ngược chiều
với tăng trưởng thu
Clements và cộng 55 quốc gia có thu nhập thấp FEM và nhập bình quân đầu
sự (2003) giai đoạn 1970-1999 GMM người nếu vượt
ngưỡng nợ nước
ngoài (30-37%
GDP).
Nợ nước ngoài và
lạm phát tác động
Mohamed (2005) Sudan giai đoạn 1978-2001 OLS
ngược chiều với tăng
trưởng kinh tế.
Các nước có tỉ lệ nợ
Ramon-Ballester 20 quốc gia khu vực Mỹ
nước ngoài thấp lại
và Schclarek Latinh và Caribbean trong GMM
tăng trưởng cao và
(2005) giai đoạn 1970 – 2002
ngược lại.
Trong dài hạn nợ
Frimpong và
nước ngoài có tác
Oteng-Abayi Ghana giai đoạn 1970-1999 VECM
động tích cực đến
(2006)
tăng trưởng kinh tế
Nợ nước ngoài có tác
Adegbite và cộng
Nigeria giai đoạn 1970-2005 OLS động tiêu cực đến thu
sự (2008)
nhập quốc gia
Tồn tại đường cong
Tokunbo và cộng Laffer nợ với
Giai đoạn 1970-2003 VECM
sự (2010) ngưỡng nợ là 60%
GDP
Kumar and Woo Tồn tại đường cong
Giai đoạn 1970-2010 OLS
(2010) Laffer nợ với
48
ngưỡng nợ là 90%
GDP
Nợ nước ngoài có tác
Sulaiman và Azeez
Giai đoạn 1970-2010 VECM động tiêu cực đến thu
(2012)
nhập quốc gia
Các nghĩa vụ của nợ
nước ngoài ở khu
Hasan Sha và
Giai đoạn 1974-2010 VECM vực công có tác động
Pervin (2012)
tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế.
Về dài hạn, việc tăng
Daud và cộng sự Malaysia giai đoạn 1991- nợ nước ngoài góp
ARDL
(2013) 2009, dữ liệu quý. phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Trong dài hạn, cứ 1%
nợ tăng làm tăng
trưởng kinh tế giảm
Mohamed (2013) Tunissia giai đoạn 1970-2010 VECM 0.27%. Ngoài ra,
nghiên cứu cũng tìm
ra ngưỡng nợ là 30%
GDP.
Tồn tại đường cong
Arcand và cộng sự Laffer nợ với
Giai đoạn 1976-2005 GMM
(2015) ngưỡng nợ là 110%
GDP
Nợ nước ngoài tác
Thổ Nhĩ Kỳ, quí 1/2003 đến
Korkmaz (2015) VAR động tích cực đến
quí 3/2014
tăng trưởng kinh tế
Nợ nước ngoài tác
Malaysia trong giai đoạn từ
Daud (2016) ARDL. động tích cực đến
1996Q1 đến 2011Q4
tăng trưởng kinh tế
Nợ nước ngoài tác
Mensah và cộng sự 24 nước HIPCs châu Phi giai động tiêu cực đến
VAR
(2017) đoạn 1980-2010 tăng trưởng kinh tế
trong trung hạn.
Nợ nước ngoài tư
nhân tác động tích
Bồ Đào Nha giai đoạn 1999- cực đến GDP nhưng
Silva (2018) 2 SLS
2014 nợ nước ngoài khu
vực công thì ngược
lại.
Đỗ Thiên Anh Việt Nam giai đoạn 1989- Nghiên cứu đã sử
Tuấn (2003) Định tính
2002 dụng mô hình Jaima
49
De Pines (1989) để
phân tích và dự báo
nợ nước ngoài Việt
Nam giai đoạn 2001-
2010.
Phân tích mô hình
quản lý nợ nước
ngoài của Việt Nam
Đỗ Đình Thu Việt Nam giai đoạn trước năm
Định tính và đưa ra các mô
(2005) 2005
hình thành công trên
thế giới để Việt Nam
xem xét.
Nghiên cứu đánh giá
các chỉ tiêu an toàn
về nợ nước ngoài của
Việt Nam giai đoạn 1997- Việt Nam. Kết quả
Hà An (2006) Định tính
2004 nghiên cứu cho thấy
các chỉ tiêu đều nằm
trong giới hạn cho
phép của IMF.
Đầu tư trong nước,
đầu tư trực tiếp nước
ngoài và xuất khẩu
có tác động tích cực
Nguyễn Hoàng OLS và đến tăng trưởng kinh
Việt Nam giai đoạn 1990-
Bảo và Đoàn Kim phân tích tế. Tuy nhiên, lạm
2006
Thành (2009) kịch bản phát, tỷ lệ nghĩa vụ
nợ/GDP và viện trợ
nước ngoài/GDP lại
tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế
Các giải pháp để bảo
đảm tính bền vững
Nguyễn Chí Hải Việt Nam giai đoạn 1990-
Định tính của nợ nước ngoài
(2011) 2010
của Việt Nam đến
2025
Nghiên cứu cho thấy
mối quan hệ tích cực
Nguyễn Hữu Tuấn Việt Nam giai đoạn 1990- của nợ nước ngoài
OLS
(2012) 2011 đến tăng trưởng kinh
tế. Ngoài ra, xác định
được ngưỡng nợ
50
Trong đó, B (k, θ) là một đa thức hữu hạn và vô hạn có giá trị như sau
𝜃0 +𝜃1 𝑘+ 𝜃2 𝑘 2 +⋯+ 𝜃𝑝 𝑘 𝑝 exp(𝜃0 +𝜃1 𝑘+ 𝜃2 𝑘 2 +⋯+ 𝜃𝑝 𝑘 𝑝 )
𝐵(𝑘, 𝜃) = ∑𝐾 2 𝑝
= ∑𝐾 2 𝑝
(3.2)
𝑘=1 𝜃0 +𝜃1 𝑘+ 𝜃2 𝑘 +⋯+ 𝜃𝑝 𝑘 𝑘=1 exp(𝜃0 +𝜃1 𝑘+ 𝜃2 𝑘 +⋯+ 𝜃𝑝 𝑘 )
Phương trình 3.2 được gọi là hàm mũ có trọng số trễ Almon (Ghysels, Santa-
Clara và Valkanov 2004). Khi đó, hàm Beta này có hai tham số:
𝑘
𝑓( ; 𝜃1 ; 𝜃2 )
𝐵(𝑘; 𝜃1 ; 𝜃2 ) = 𝐾
𝑘 (3.3)
∑𝐾
𝑘=1 𝑓( 𝐾; 𝜃1 ; 𝜃2 )
Hai thông số của hàm Beta ở phương trình (3.2) có ý nghĩa quan trọng đối với
hàm hồi qui ở phương trình (3.1), trong đó hệ số thứ nhất ảnh hưởng đến sự biến động
của phương trình hồi quy trong tương lai và hệ số còn lại ảnh hưởng đến việc xác
định hệ số β1.
Mở rộng mô hình MIDAS dưới góc độ tự hồi qui chuỗi thời gian có biến độc lập
là biến trễ của biến phụ thuộc trong mô hình hồi qui có các biến có yếu tố mùa vụ
(Santa-Clara và Valkanov 2004). Clements và Gaivo (2005) đã chứng minh mô hình
MIDAS có biến trễ là biến phụ thuộc một cách đơn giản như sau:
1
(𝑚) (𝑚)
𝑦𝑡 = 𝛽0 + 𝛼𝑦𝑡−1 𝛽1 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃) 𝑥𝑡−1 + 𝑢𝑡 (3.5)
Clements và Gaivo (2005) đã đưa vào một nhân tố chung trong phương trình (3.5)
và biến đổi thành:
1
(𝑚) (𝑚)
𝑦𝑡 = 𝛽0 + 𝛼𝑦𝑡−1 𝛽1 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃) (1 − 𝛼𝐿)𝑥𝑡−1 + 𝑢𝑡 (3.6)
1
(𝑚) (𝑚)
Tương đương: 𝑦𝑡 = 𝛽0 + 𝛼𝑦𝑡−ℎ + 𝛽1 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃) (1 − 𝛼𝐿ℎ )𝑥𝑡−ℎ + 𝑢𝑡 (3.7)
Để ước lượng phương trình (2.7) cần phải ước lượng phần dư (ût) của mẫu quan
sát trong mô hình MIDAS và ước lượng giá trị đầu tiên của α, ᾰ0, với ᾰ0 =
(∑ û2𝑡−ℎ )−1 ∑ û𝑡 û𝑡−ℎ
∗
Khi đó, 𝑦𝑡∗ = 𝑦𝑡 − ᾰ0 𝑦𝑡−ℎ và 𝑥𝑡−ℎ = 𝑥𝑡−ℎ − ᾰ0 𝑥𝑡−2ℎ . Ước lượng 𝜃̂ bằng mô
hình phi tuyến với kết quả như sau:
1
∗
𝑦𝑡∗ = 𝛽0 + 𝛽1 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃) 𝑥𝑡−ℎ + 𝜖𝑡 (3.8)
Mở rộng mô hình MIDAS với nhiều biến, khi đó ta có phương trình tương
đương:
1 1
(𝑚) (𝑚) (𝑚)
𝑦𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃1 ) 𝑥1,𝑡−ℎ + 𝛽2 𝐵 (𝐿𝑚 ; 𝜃2 ) 𝑥2,𝑡−ℎ + 𝑢𝑡 (3.9)
Trong đó, biến x1, x2 là các biến giải thích, các giá trị của tham số θ được đưa vào
các biến độc lập bằng hai vectơ độc lập, có tính đến độ trễ của các biến độc lập.
54
Phương trình (2.9) có thể mở rộng cho nhiều biến giải thích và nhiều độ trễ khác
nhau. Khi đó, phương trình (2.9) được viết thành:
1
(𝑚𝑖 ) (𝑚)
𝑦𝑡 = 𝛽0 + ∑𝐾𝑖=1 ∑𝐿𝑗=1 𝑏𝑖𝑗 (𝐿𝑚
𝑖
; 𝜃)𝑥𝑖,𝑡−ℎ + 𝑢𝑡 (3.10)
Ưu điểm của phương pháp MIDAS là xử lý tốt trong các trường hợp thiếu dữ liệu
trong các nghiên cứu có các tần suất khác nhau. Mặt khác, trong các phương trình có
các biến độ trễ thì phương pháp MIDAS cho phép phân tích kỹ mối quan hệ giữa các
biến hơn các mô hình khác và được ước lượng dễ dàng hơn bằng phương pháp bình
phương tối thiểu phi tuyến (Nonlinear Least Squares-NLS).
3.1.2. Phương pháp phân tích dựa trên mô hình VECM
Mô hình VECM được phát triển từ mô hình VAR bằng cách đưa thêm thành phần
hiệu chỉnh sai số (Δ) vào mô hình. Vì được phát triển từ mô hình VAR nên mô hình
VECM được xem là hệ các phương trình hồi quy theo OLS giữa giá trị hiện tại của
biến này (t) với giá trị quá khứ của chính nó (t-1) và các biến khác trong mô hình kết
hợp với phần hiệu chỉnh sai số có được từ mối quan hệ đồng liên kết. Theo Gujarati
(2009), mô hình VECM được mô tả như sau:
Trong đó, k là độ trễ của mô hình nghiên cứu, 𝜏1 , 𝜏2 , … , 𝜏𝑘 là các ma trận vuông
cấp m với 𝜏𝑖 = (∑𝑘𝑗=1 𝛽𝑗 ) − 𝐼𝑔 và Π = (∑𝑘𝑖=1 𝛽𝑖 ) − 𝐼𝑔 với Π (g*g) là ma trận vuông
thể hiện mối quan hệ dài hạn giữa các biến số tại mức cân bằng. Ma trận Π là tích của
hai ma trận α (g*r) và β’ (r*g) với r là số vectơ đồng liên kết cũng là bậc của ma trận
Π.
Ma trận β’ là ma trận vectơ đồng liên kết phản ánh mối quan hệ dài hạn giữa các
biến số, α là hệ số của vectơ đồng liên kết trong mô hình VECM. Lấy ví dụ cho mô
hình có bốn biến số (g=4) và số đồng liên kết là 1 (r=1) thì ma trận Π được viết như
sau:
55
Khi đó:
α11 𝛼12 𝑌1
α 𝛼 𝛽 𝛽12 𝛽13 𝛽14 𝑌
Π. Yt−1 = α. β. Yt−1 = (α21 𝛼22 ) . ( 11 ) . ( 2 )(t-1)
31 32 𝛽21 𝛽22 𝛽23 𝛽24 𝑌3
α41 𝛼42 𝑌4
Các vectơ đồng liên kết trong trường hợp này là (β11+β12+β13+β14) và
(β21+β22+β23+β24), các hệ số α là mức điều chỉnh về cân bằng của các ΔYi theo từng
1 2 3
vectơ đồng liên kết. Điều này có nghĩa rằng, khi Yt−1 , Yt−1 , Yt−1 , … bị lệch khỏi giá trị
cân bằng dài hạn thì sau một kỳ mức độ lệch sẽ được giảm lần lượt là α1 , α2 , α3 , …
Đây là ưu điểm nổi bật của mô hình VECM khi cho phép đo lường hiện tượng đồng
liên kết giữa nhiều biến trong mô hình nghiên cứu, đồng thời cho phép đo lường mức
độ điều chỉnh từ sự mất cân bằng của thời kỳ trước.
GDP là biến phụ thuộc, thể hiện tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa của
Việt Nam với đơn vị tính là %/quý. Biến này được sử dụng trong các nghiên
cứu Clements (2005), Adegbite và các cộng sự (2008).
EXD thể hiện tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP, đơn vị tính là % GDP, dữ liệu
tính theo năm. Biến này được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về nợ
nước ngoài nhằm đánh giá tình hình nợ cũng như khả năng trả nợ của các
nước. Các nghiên cứu của Fosu (1996), Were (2001), Pattillo (2002), Clements
(2005), Adegbite và cộng sự (2008), Ayadi (2008), Tokunbo và cộng sự
(2010) và Korkmaz (2015) sử dụng biến này đánh giá tác động đến tăng trưởng
kinh tế. Kết quả nghiên chứ cho thấy nợ nước ngoài tác động cùng chiều hoặc
ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế.
OPE là độ mở của nền kinh tế, được tính bằng cách lấy giá trị xuất nhập khẩu
so với GDP, đơn vị tính là %/GDP theo quý. Chỉ tiêu này được sử dụng trong
các nghiên cứu của Clements (2005), Tokunbo và cộng sự (2010), Daud và
cộng sự (2003)…
M2 là cung tiền trong nền kinh tế, tính theo % thay đổi giữa các kỳ nghiên cứu
của năm này so với năm trước, dữ liệu theo tháng, một trong các biến vĩ mô
tác động đến tăng trưởng kinh tế, thể hiện mức độ phát triển tài chính của nền
kinh tế. Chỉ tiêu này được sử dụng trong các nghiên cứu của Mohamed (2013).
CPI là chỉ số giá tiêu dùng trong nền kinh tế, dữ liệu theo quý (%), phản ánh
tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế. Biến này được sử dụng trong
các nghiên cứu của Were (2001), Mohamed (2005), Sulaiman và Azeez (2012)
và Ramzan và Ahmad (2014).
58
EX là tỷ giá hối đoái thực trong nền kinh tế, được tính bằng % thay đổi giữa
kỳ nghiên cứu này so với kỳ nghiên cứu trước. Tỷ giá ảnh hưởng đến việc vay
nợ, trả nợ của các nước đi vay cũng như toàn bộ các hoạt động trong nền kinh
tế. Chỉ tiêu này được sử dụng trong các nghiên cứu của Were (2001), Sulaiman
và Azeez (2012)…
ut là phần dư của mô hình.
3.2.2. Mô hình tổng quát tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam theo dạng phi tuyến
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả và định lượng để xem xét tác
động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn quý I/2000 đến
quý IV/2013. Đầu tiên, nghiên cứu sẽ mô phỏng theo dạng phương trình bậc 2 giữa
nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế để tìm ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam
bằng phần mềm SPSS 20.0. Dựa trên ngưỡng nợ tìm được sẽ tiến hành nghiên cứu
định lượng theo mô hình vectơ hiệu chỉnh sai số (Vector Error Correction Model -
VECM) bằng phần mềm Eviews 10.0 để phân tích và kiểm định các giả thiết. Mô
hình VECM có ưu điểm hơn ECM vì phát triển dựa trên cơ sở lý thuyết của mô hình
tự hồi qui vectơ (VAR) với nền tảng là đồng tích hợp các biến số. VECM được sử
dụng thay thế VAR khi các biến trong mô hình có mối liên hệ đồng liên kết bằng cách
sử dụng phương pháp hợp lý cực đại của Johansen (1995). Bên cạnh đó, mô hình
VECM tích hợp cả yếu tố dài hạn giúp hiệu chỉnh các biến động ngắn hạn.
Dựa trên nghiên cứu của Tokunbo và cộng sự (2010) để xem xét mối quan hệ phi
tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mô hình kinh tế lượng
nghiên cứu thể hiện mối quan hệ nêu trên có dạng.
GDP= f (EXD, OPE, DUM)
Một cách cụ thể hơn cho mô hình là:
GDP= α0 + α1EXD + α2(EXD-EXD*)*Ϭ + α3OPE + ut
GDP= α0 + α1EXD + α2DUM + α3OPE + ut (3.13)
59
Trong đó, việc đưa các biến vào mô hình nghiên cứu dựa trên các lược khảo các
nghiên cứu trước đây, cụ thể các biến như sau:
GDP là biến phụ thuộc thể hiện tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa
của Việt Nam với đơn vị tính là %/quý. Biến này được sử dụng trong các
nghiên cứu Clements (2005), Adegbite và cộng sự (2008)…
EXD là biến tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP, đơn vị tính là % GDP, dữ
liệu tính theo quý. Biến này được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu
về nước ngoài nhằm đánh giá tình hình nợ cũng như khả năng trả nợ của
các nước. Các nghiên cứu của Fosu (1996), Were (2001), Pattillo (2002),
Clements (2005), Adegbite và cộng sự (2008), Ayadi (2008), Tokunbo và
cộng sự (2010) và Korkmaz (2015) sử dụng biến này đánh giá tác động
đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ nước ngoài tác
động cùng chiều hoặc ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế.
OPE là biến độ mở của nền kinh tế, được tính bằng cách lấy giá trị xuất
nhập khẩu so với GDP, đơn vị tính là %/GDP theo quý. Chỉ tiêu này được
sử dụng trong các nghiên cứu của Clements (2005), Tokunbo và cộng sự
(2010), Daud và cộng sự (2003)…
DUM là biến giả, thể hiện tác động của ngưỡng nợ nước ngoài đến GDP,
Ϭ=0 khi ngưỡng nợ nước ngoài lớn hơn tỷ lệ nợ nước ngoài thực tế tại các
thời điểm nghiên cứu và ngược lại Ϭ=1 khi ngưỡng nợ nước ngoài nhỏ
hơn tỷ lệ nợ nước ngoài.
ut là phần dư của mô hình.
3.3. Giả thuyết nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận án đưa ra hai giả thuyết sau để xem xét nên
chấp thuận hay bác bỏ:
Giả thuyết 1: Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo
dạng tuyến tính.
60
Giả thuyết 2: Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo
dạng phi tuyến tính.
Kỳ vọng về mối quan hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc trong mô hình
nghiên cứu, luận án kỳ vọng nguồn vốn vay nước ngoài, độ mở nền kinh tế và tỷ giá
hối đoái thực sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu.
Ngoài ra, các biến số về cung tiền M2 và chỉ số giá tiêu dùng sẽ tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế. Các kỳ vọng này dựa trên các nghiên cứu của Fosu (1999), Were
(2001), Pattillo (2002, 2011), Sulaiman và Azeez(2012), Mohamed (2013)…khi đánh
giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế thông qua các mô hình định
lượng. Bên cạnh đó, việc tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua vay nước ngoài
cũng như mở rộng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam là cơ sở để mở rộng các hoạt
động đầu tư công cho nền kinh tế, tạo động lực tăng trưởng cho tương lai nên kỳ vọng
các biến EX, EXD và OPE sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Bảng 3.6. Kỳ vọng của các biến số trong mô hình nghiên cứu
STT BIẾN Ý NGHĨA DẤU KỲ VỌNG
Biến phụ thuộc
sau khi Việt Nam đã thỏa thuận cơ chế xử lý các khoản nợ trước đây với Liên Xô,
dẫn đến dữ liệu có biến động lớn giữa hai giai đoạn này. Các nguồn dữ liệu được sử
dụng chủ yếu từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB),
Ngân hàng thế giới (WB) và Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO). Bên cạnh đó, các
nguồn dữ liệu khác được sử dụng trong luận án đều là các nguồn chính thống, có
nguồn gốc rõ ràng.
3.5. Quy trình nghiên cứu
3.5.1. Mô hình MIDAS
Phân tích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa trên
mô hình MIDAS theo trình tự sau:
Hình 3.4. Trình tự nghiên cứu của mô hình MIDAS
Xử lý tính mùa vụ và kiểm định tính dừng các biến trong mô hình. Tính
mùa vụ thường được tìm thấy trong các dữ liệu theo quý, tháng… Tính mùa
vụ được hiểu là sự thay đổi ổn định hàng năm và kiểu thay đổi đó được lặp lại
ở các năm sau đó. Khi dữ liệu có tính mùa vụ cần tách yếu tố này ra khỏi chuỗi
thời gian thì mới sử dụng cho mô hình nghiên cứu. Bên cạnh đó, kiểm định
tính dừng của dữ liệu nghiên cứu thông qua kiểm định nghiệm đơn vị (Unit
Root Test) để xác định bậc tích hợp của chuỗi thời gian. Từ đó, xác định cấu
trúc độ trễ phù hợp cho mô hình VECM dựa trên các tiêu chuẩn về thông tin.
Đối với dữ liệu chuỗi thời gian thì yêu cầu đầu tiên là phải đảm bảo tính dừng
để mô hình nghiên cứu có trung bình và phương sai không thay đổi theo thời
gian. Bên cạnh đó, nếu dữ liệu chuỗi thời gian không dừng sẽ dẫn đến hiện
tượng hồi qui giả mạo. Vì vậy, trong nghiên cứu này bước đầu tiên phải thực
62
hiện là kiểm tra tính dừng của các biến nghiên cứu bằng kiểm định nghiệm
đơn vị của Dickey Fuller.
Phân tích hồi quy mô hình nghiên cứu để ước lượng các hệ số của mô hình
nghiên cứu và xem xét ý nghĩa thống kê của các biến nghiên cứu. Đánh giá
mô hình nghiên cứu thông qua tiêu chuẩn thông tin và hệ số R2 điều chỉnh.
Đối với tiêu chuẩn thông tin có ba tiêu chuẩn là tiêu chuẩn Akaike (AIC), tiêu
chuẩn Schwarzs-Bayesian (SBIC) và tiêu chuẩn Hannan-Quinn (HQIC) để
xem xét. Trong các tiêu chuẩn thông tin nêu trên, SBIC đưa ra mức xem xét
nghiêm khắc hơn so với AIC cho việc làm giảm bậc tự do. Tuy nhiên, HQIC
hài hòa hơn giữa SBIC và HQIC khi thêm các biến bậc trễ vào mô hình nghiên
cứu, mức phạt biên của SBIC sẽ lớn hơn so với AIC và HQIC. Giữa SBIC và
AIC, SBIC có đặc tính mẫu lớn vượt trội, AIC thiên về lựa chọn mô hình có
tham số lớn. Tóm lại, SBIC nhấn mạnh tính vững của mô hình và AIC nhấn
mạnh tính hiệu quả (Phạm Thị Tuyết Trinh và cộng sự 2014).
Chẩn đoán phần dư thông qua thực hiện kiểm định tự tương quan và phân
phối chuẩn của phần dư. Đối với kiểm định phân phối chuẩn của phần dư được
thực hiện theo kiểm định Jarque Bera. Xét về lý thuyết nếu phần dư không có
phân phối chuẩn sẽ làm mất giá trị các thống kê được kiểm định. Đối với kiểm
định tự tương quan của phần dư thì sử dụng ACF và PACF của phần dư để
xem xét.
3.5.2. Mô hình VECM
Để xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo
mô hình VECM đã được mô tả ở mục 3.1.2, nghiên cứu sẽ phân tích theo trình tự như
sau:
Kiểm định tính dừng các biến trong mô hình và kiểm định tính dừng của dữ
liệu nghiên cứu thông qua kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) để xác
định bậc tích hợp của chuỗi thời gian. Từ đó xác định cấu trúc độ trễ phù hợp
cho mô hình VECM dựa trên các tiêu chuẩn về thông tin.
63
Đối với dữ liệu chuỗi thời gian thì yêu cầu đầu tiên là phải đảm bảo tính dừng
để mô hình nghiên cứu có trung bình và phương sai không thay đổi theo thời
gian. Bên cạnh đó, nếu dữ liệu chuỗi thời gian không dừng sẽ dẫn đến hiện
tượng hồi qui giả mạo. Vì vậy, trong nghiên cứu này bước đầu tiên phải thực
hiện là kiểm tra tính dừng của các biến nghiên cứu bằng kiểm định nghiệm
đơn vị của Dickey Fuller.
Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình căn cứ trên các tiêu chí thông tin như
LR (Likelihood Ratio), AIC (Akaike infor criterion), SC (Schawarz criterion),
HQ (Hannan-Quinn criterion) và FPE (Final Prediction Error).
Lựa chọn loại phương trình đồng liên kết để ước lượng. Các đồng liên kết
được hiểu là giữa biến độc lập và phụ thuộc có mối quan hệ dài hạn. Kiểm
định đồng liên kết có hai phương pháp là kiểm định Engle - Granger (1987)
và kiểm định Johansen – Juselius (1991). Nghiên cứu sẽ sử dụng kiểm định
Johansen – Juselius để lựa chọn phương trình đồng liên kết do có ưu điểm cho
biết nhiều hơn một mối quan hệ đồng liên kết trong mô hình nghiên cứu.
Thực hiện kiểm định Trace và Max-Eigen cho loại phương trình đồng liên
kết đã lựa chọn ở bước 2. Phương pháp Johansen – Juselius sẽ tiếp cận dựa
trên sự ước lượng giá trị Max – Eigen (Maximum Eigen value) và giá trị thống
kê (Trace value) để tìm ra số lượng vectơ đồng tích hợp. Số phương trình đồng
liên kết phụ thuộc vào số biến trong mô hình.
Phân tích hồi quy mô hình VECM để lấy kết quả phương trình đồng liên kết.
Mô hình VECM cho phép đồng thời khám phá quan hệ dài hạn và ngắn hạn
của các biến số nếu chúng có quan hệ đồng liên kết.
Xác định chiều hướng của quan hệ đồng liên kết dựa trên kiểm định nhân
quả Ranger. Do mô hình VECM có nhiều biến trễ nên rất khó xác định từng
biến phụ thuộc chịu tác động của những biến nào. Để giải quyết vấn đề này,
kiểm định nhân quả Ranger sẽ được thực hiện. Kiểm định này trả lời câu hỏi
về mối quan hệ nhân quả giữa các biến trong mô hình nghiên cứu. Kết quả
phản ứng đẩy luôn đồng nhất với kiểm định nhân quả Ranger. Phân rã phương
64
sai cho biết biến động của một biến số do cú sốc của chính nó và các biến số
khác trong mô hình. Khi phân tích phản ứng đẩy và phân rã phương sai cần
lưu ý trật tự các biến số trong mô hình nghiên cứu. Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để xác định trật tự của các biến số trong mô hình. Điều này phụ thuộc vào
lý thuyết được sử dụng để xây dựn mô hình nghiên cứu.
Hình 3.5. Trình tự nghiên cứu mô hình VECM
Đo lường tác động ngắn hạn giữa các biến số thông qua phản ứng đẩy và
phân tích phân rã phương sai. Kiểm định nhân quả cho biết tác động của biến
này có ý nghĩa thống kê đến giá trị tương lai của biến kia trong mô hình nghiên
cứu nhưng không thể giải thích dấu của tác động cũng như độ dài của tác động.
Phân tích phản ứng đẩy và phân rã phương sai sẽ giải quyết được vấn đề này.
Phản ứng đẩy sẽ xem xét phản ứng trong hiện tại và tương lai của từng biến
65
số trong mô hình dưới cú sốc của một biến số. Nếu mô hình ổn định, các cú
sốc bất kỳ sẽ giảm dần theo thời gian.
Kiểm định chẩn đoán mô hình VECM nhằm đảm bảo các kết quả thu được
là vững và đáng tin cậy. Kiểm định đầu tiên là kiểm định đảm bảo tính ổn định
của mô hình bằng cánh tính nghiệm đa thức đặc trưng tự hồi qui. Điều kiện
cần và đủ để mô hình ổn định là các nghiệm đặc trưng nằm ngoài vòng tròn
đơn vị hay nghịch đảo nghiệm đặc trưng phải nằm trong vòng tròn đơn vị.
Kiểm định tiếp theo là kiểm định với phần dư thông qua kiểm định
Portmanteau, kiểm định nhân tử Lagrange và kiểm định Jarque Bera. Kiểm
định Portmanteau và Lagrange cho biết phần dư có hiện tượng tự tương quan
hay không đến bậc trễ h. Kiểm định Jarque Bera cho biết phân phối chuẩn của
phần dư. Kiểm định này so sánh độ nhọn và độ nghiêng trong phân phối của
phần dư với độ nhọn và độ nghiêng trong phân phối chuẩn. Về nguyên tắc,
phần dư không có phân phối chuẩn làm mất giá trị các thống kê kiểm định.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng đối với các mẫu nhỏ, đo lường này
không có ý nghĩa về mặt thông tin (Gujarati 2009).
66
4.1. Khái quát thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam
4.1.1. Phân tích khái quát nợ nước ngoài
Việt Nam bắt đầu gia tăng vay nước ngoài khi thực hiện công cuộc cải cách nền
kinh tế. Giai đoạn ban đầu nợ nước ngoài chủ yếu là các khoản vay của các nước xã
hội chủ nghĩa trong hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Tính đến hết năm 1989, nợ
nước ngoài của Việt Nam khoảng 3.4 tỷ USD với các đồng tiền có khả năng chuyển
đổi và 10.5 tỷ rúp với các nước thuộc SEV. Phần lớn nợ nước ngoài xuất phát từ vay
trong giai đoạn 1976-1979 nhằm hỗ trợ tài chính để nhập khẩu lương thực, thực phẩm,
nhiên liệu, trang thiết bị… nhằm tái thiết đất nước sau chiến tranh (Vũ Tuấn Anh,
1994). Trong giai đoạn này nợ nước ngoài cao do chưa xử lí được các khoản nợ bằng
đồng rúp từ Liên Xô sang các đồng tiền chuyển đổi. Từ năm 1992, các nhà tài trợ bắt
đầu gia tăng dòng vốn cho vay khi Việt Nam có những cải cách mạnh mẽ về kinh tế,
chính trị. Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam được tổ chức lần đầu tại
Paris nhằm kết nối cộng đồng các nhà tài trợ vốn trên thế giới. Điều này giúp Việt
Nam tiếp cận các khoản vay ưu đãi để đầu tư cơ sở hạ tầng, phục vụ cho công cuộc
cải cách nền kinh tế. Đây là nền tảng cho sự ra đời hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài
trợ cho Việt Nam (CG) hiện nay. Tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đến năm 1993
là 17.7 tỷ USD ( Ian Jeffries 2007) và gia tăng liên tục qua các năm nhờ có sự kết nối
thông qua CG.
Tính đến năm 1999, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam là 23.25 tỷ USD. Nợ nước
ngoài của Việt Nam giảm mạnh khi chúng ta đã kí kết thỏa thuận Toronto với Liên
bang Nga để xử lý các khoản nợ thời kì Liên Xô vào ngày 14/09/2000. Theo thỏa
thuận này, Nga xóa nợ 85%, phần còn lại qui đổi sang USD tương ứng là 1.7 tỷ USD,
trong đó 90% được trả bằng hàng hóa, 10% trả bằng ngoại tệ với lãi suất 4%/năm, trả
67
trong 23 năm (Vũ Dương Huân 2002). Tổng nợ nước ngoài đến năm 2000 chỉ còn
khoảng 12.9 tỷ USD.
Bảng 4.1. Cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam giai đoạn 1993-2014
Đơn vị tính: triệu USD
Hình 4.1. Nợ nước ngoài và GDP của Việt Nam giai đoạn 1986-2016
Đơn vị tính: tỷ USD
400
300
200
100
0
1999
2016
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Nợ nước ngoài GDP Nợ nước ngoài/GDP
Nguồn: WB (2018)
Tuy nhiên, sau năm 2008 dưới tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ
nước ngoài có xu hướng tăng nhanh cả về con số tuyệt đối lẫn xét theo tỷ trọng GDP.
Tính đến năm 2016, các con số tương ứng là 86.95 tỷ USD và 42.36% GDP. Nguyên
nhân chủ yếu là Chính phủ gia tăng nguồn lực tài chính ở ngoài nước để đầu tư vào
nền kinh tế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như việc sụt giảm các khoản
thu từ thuế nhập khẩu do phải cắt giảm trong quá trình hội nhập và bội chi ngân sách
kéo dài, khoảng 5% GDP, tỉ lệ này còn khá cao so với các nước trong khu vực Asean
(Hình 4.2).
69
Hình 4.2. Tỷ lệ bội chi ngân sách của một số quốc gia Đông Nam Á
Đơn vị tính: % GDP
14,000
ODA giải ngân Tổng đầu tư
12,000
10,000
8,000
6,000
4,000
2,000
0
2010
2014
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2011
2012
2013
2015
2016
Từ năm 2005, Việt Nam bắt đầu tham gia vào thị trường vốn quốc tế thông qua
phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên, huy động 750 triệu USD với lãi suất danh
nghĩa là 6.875%. Các nhà đầu tư châu Á nắm 38%, châu Âu nắm 32% và Mỹ là 30%;
trong đó các quĩ đầu tư tài chính nắm 52%, các ngân hàng nắm 25%, các công ty bảo
hiểm nắm 25% và các tổ chức tài chính khác là 7%. Đây là những tín hiệu cho thấy
sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam. Nối tiếp thành công,
Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế lần hai vào năm 2010 với số vốn huy động là
1 tỷ USD, lãi suất danh nghĩa là 6.75%, trong đó các nhà đầu tư Mỹ chiếm 56%, châu
Á là 28% và châu Âu là 16%. Năm 2014, Việt Nam tiếp tục phát hành 1 tỷ USD trái
phiếu quốc tế với lãi suất danh nghĩa 4.8%, trong đó 17% là các nhà đầu tư châu Á,
55% là các nhà đầu tư Mỹ và 28% là châu Âu (An Huy 2014). Trái phiếu quốc tế của
Việt Nam đã hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế với số lượng đặt mua rất cao so với vốn
cần huy động (Bảng 4.5). Năm 2015, Quốc hội đã cho phép Chính phủ phát hành tối
đa 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế trong năm 2016. Như vậy, cùng với vốn ODA, phát
hành trái phiếu quốc tế cũng là kênh để Chính phủ huy động vốn từ bên ngoài để đầu
tư phát triển đất nước.
Bảng 4.5. Phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam
Năm 2005 2010 2014
Số tiền huy động (tỷ USD) 0.75 1 1
Số tiền đặt mua (tỷ USD) 4.5 2.4 10.6
Lãi suất cố định (%/năm) 6.85 6.75 4.8
Lãi suất thực (%/năm) 7.12 6.95 5.12
Xếp hạng tín nhiệm của BB BB- BB-
S&P
Xây dựng nhà
Vay để trả
Đầu tư cho máy lọc dầu
Mục đích sử dụng nợ 2005
Vinashin Dung Quất
(73%)
(70%)
Nguồn: An Huy (2014)
Các khoản vay thương mại xuất phát từ các doanh nghiệp dưới hình thức có bảo
lãnh của Chính phủ hoặc không. Chính phủ bảo lãnh các khoản vay thương mại chủ
73
yếu cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến năm 2015, nợ Chính phủ bảo lãnh
chiếm 19% tổng nợ công, tương đương 11.4% GDP. Đối với các khoản vay thương
mại không có bảo lãnh của Chính phủ tập trung vào vay ngắn hạn. Theo khảo sát của
Thời báo kinh tế Sài Gòn, các hình thức vay thương mại này gia tăng đáng kể trong
2 năm gần đây khi lãi suất USD thấp so với VND. Theo thống kê của NHNN chi
nhánh thành phố Hồ Chí Minh, lũy kế đến năm 2014 trên địa bàn có 750 doanh nghiệp
vay nước ngoài trung và dài hạn (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 66%)
với dư nợ khoảng 3.65 tỷ USD, tăng 9.7% so với năm 2013 (Ngọc Lan 2018). Tuy
nhiên, các doanh nghiệp này vay bao nhiêu, đặc biệt là vay ngắn hạn, thì không cơ
quan chức năng nào trả lời được. Đây là mảng tối trong quản lí nợ nước ngoài mà
Chính phủ cần quan tâm trong công tác quản lí. Vì vây, NHNN đã ban hành thông tư
12/2014/TT-NHNN, có hiệu lực từ 15/5/2014, để quản lý vấn đề này. Thông tư 12
qui định các doanh nghiệp vay nước ngoài để sản xuất kinh doanh, cơ cấu lại nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần báo cáo đầy đủ, chặt chẽ hơn cho Ngân hàng
nhà nước (NHNN) khi vay cũng như thay đổi các khoản vay. Đối với các khoản vay
nước ngoài ngắn hạn không được gia hạn nhưng vẫn còn dư nợ tại thời điểm một năm
kể từ ngày rút vốn đầu tiên, các doanh nghiệp phải đăng kí với Vụ quản lý ngoại hối
thuộc NHNN. Đây là những điểm mới của thông tư 12 so với thông tư 09/2004/TT-
NHNN, giúp xóa những điểm mờ trong quản lí hoạt động vay thương mại của các
doanh nghiệp trong nước.
Các khoản nợ nước ngoài chủ yếu vay bằng USD, JPY, EUR. Trong đó, tỉ lệ vay
nợ bằng USD tăng mạnh qua các năm. Nếu như tỉ lệ này năm 2005 là 44.7 % thì đến
năm 2012 đã là 49.2%. Tương ứng với EUR là 5.7% và 7.6%. Đối với đồng JPY là
38% và 42% (International Debt Statistics 2014). Cơ cấu đồng tiền vay nợ cũng gây
áp lực lên các khoản nợ vay nước ngoài khi tỷ giá biến động, đưa đến những rủi ro
cho quốc gia trong quá trình trả nợ. Đồng thời, nó cũng tác động đến chính sách điều
hành tỷ giá của Chính phủ do lo ngại ảnh hưởng đến nợ nước ngoài khi phá giá đồng
nội tệ.
74
Hình 4.4. Các khoản vay thương mại của Việt Nam
Bảng 4.6 cho thấy hệ số này của Việt Nam tăng trong các giai đoạn phát triển, từ
3.5 lên 5.41. Điều này cho thấy tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào vốn
đầu tư nhưng hiệu quả còn chưa cao. Tuy nhiên, từ năm 2010 hệ số ICOR có xu
hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010, cho thấy nhưng cải cách về thủ tục hành
chính, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước… đã mang lại hiệu quả trong hoạt
động đầu tư của Chính phủ Việt Nam.
So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong khu vực châu Á trong giai đoạn
đầu công nghiệp hóa thì chỉ số này của chúng ta vẫn cao. Các con số ở Bảng 4.7 cho
thấy vốn đầu tư vào nền kinh tế cao nhưng tốc độ tăng trưởng thấp dẫn đến hệ số
ICOR của Việt Nam cao. Vì vậy, trong những giai đoạn tiếp theo Việt Nam cần sử
dụng hiệu quả hơn nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, thông qua kiểm soát
chặt chẽ qui trình đầu tư, tránh phụ thuộc quá nhiều vào cơ chế xin cho như hiện nay.
Bảng 4.7. Hệ số ICOR của các quốc gia châu Á
Nước Giai đoạn GDP (%/năm) Tổng vốn đầu tư/GDP(%) ICOR
Hàn Quốc 1961-80 7.9 23.3 3.0
Đài Loan 1961-80 9.7 26.2 2.7
Indonesia 1981-95 6.9 25.7 3.7
Malaysia 1981-95 7.2 32.9 4.6
Thái Lan 1981-95 8.1 33.3 4.1
Trung Quốc 2001-06 9.7 38.8 4.0
Việt Nam 2001-06 7.6 33.5 4.4
Nguồn: Vũ Thành Tự Anh (2010)
Bên cạnh đó, theo kết quả giám sát về sử dụng vốn vay nước ngoài giai đoạn
2011-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy vốn vay nước ngoài chiếm
trung bình 37.6% tổng chi đầu tư của Chính phủ. Tuy nhiên, các dự án sử dụng nguồn
vốn vay này thường chậm tiến độ dẫn đến gia tăng tổng vốn đầu tư như cao tốc Nội
Bài – Lào Cao đội vốn 10,148 tỷ đồng (khoảng 441 triệu USD), cao tốc Hồ Chí Minh
– Long Thành – Dầu Giây tăng thêm 10,739 tỷ đồng (467 triệu USD), dự án thoát
nước cải tạo môi trường Hà Nội (dự án 2) tăng 4,630 tỷ đồng (200 triệu USD), dự án
Metro của thành phố Hồ Chí Minh chậm tiến độ làm tăng vốn thêm ít nhất 52,000 tỷ
76
đồng (2.26 tỷ USD)…(Lê Hiệp 2018). Việc giải ngân các dự án có sử dụng vốn vay
nước ngoài đều vượt dự toán được giao, cụ thể năm 2014 vượt 26,169 tỷ đồng, năm
2015 là 30,725 tỷ đồng, năm 2016 là 17,033 tỷ đồng. Hệ quả của vấn đề này làm bội
chi ngân sách so với dự toán đã được Quốc hội cho phép, gây áp lực trong việc tìm
các nguồn vốn khác để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách, trong đó có nợ nước ngoài.
Hàng loạt dự án mất khả năng thanh toán, trong đó có 9 dự án được chính phủ bảo
lãnh với dư nợ 4,618 tỷ đồng, 60 dự án có nợ quá hạn là 10,551 tỷ đồng (Vĩnh Chi
2018). Tất cả các vấn đề này làm hiệu suất đầu tư ICOR nêu ở trên cao so với các
nước, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn vay không cao.
4.1.4. Phân tích theo khả năng trả nợ
Đánh giá khả năng trả nợ theo các tiêu chí của “Khung nợ bền vững DSF của
IMF và WB” (2014). Theo đó, tính bền vững nợ của các quốc gia dựa trên khả năng
duy trì trạng thái nợ một cách ổn định mà không cần điều chỉnh đến thu nhập và chi
tiêu trong tương lai. Theo Đỗ Thiên Anh Tuấn (2003), việc đánh giá tính bền vững
của nợ theo ba bước. Bước 1, đánh giá khả năng trả nợ của nền kinh tế cũng như các
khoản nợ chưa thanh toán trên cơ sở xem xét tăng trưởng kinh tế, hiệu quả sử dụng
nợ cũng như kỳ hạn nợ, lãi suất nợ. Bước 2 sẽ dự báo các yếu tố khách quan, chủ yếu
là các cú sốc kinh tế từ bên trong lẫn bên ngoài, tác động đến hai yếu tố ở bước 1.
Cuối cùng, tiến hành lượng hóa các chỉ số để đánh giá trên cơ sở đề ra các ngưỡng để
so sánh.
Bảng 4.8. Các ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam theo chuẩn WB & IMF
Ngưỡng Việt Nam
Các chỉ tiêu
cho phép 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Giá trị hiện tại của nợ
50% 46.8% 35.2% NA NA NA 21.41
trên GDP
Giá trị hiện tại của nợ
200% 54.47% 42.1% 40.4% NA NA 23.2
trên xuất khẩu
Giá trị hiện tại của nợ
300% 49.12% NA NA NA NA 88.43
trên thu nhập
77
Nợ của Việt Nam đã có sự gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Tính
đến cuối năm 2013, tổng nợ của Việt Nam chiếm khoảng 38.5% GDP, trong đó nợ
công chiếm khoảng 26.5% GDP (IMF 2014). Nếu xét theo các ngưỡng nợ theo chuẩn
của WB & IMF thì các chỉ tiêu xem xét (Bảng 4.8) đều ở dưới ngưỡng cho phép rất
xa, trừ chỉ tiêu giá trị hiện tại của nợ nước ngoài trên GDP năm 2011 tiến rất sát
ngưỡng cho phép. Nợ nước ngoài tuy có qui mô lớn nhưng do lãi suất vay thấp và kỳ
hạn dài (chủ yếu là vay ODA) nên gánh nặng nợ trong những năm tới là tương đối
thấp so với xuất khẩu, thu ngân sách của quốc gia. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc
vào tỷ giá hối đoái có ổn định hay không trong tương lai. Muốn làm được điều đó thì
phải duy trì cán cân thương mại xuất siêu và lạm phát một con số.
Theo xếp hạng CPIA của WB về nợ dành cho Việt Nam năm 2014 là 4 điểm
(CPIA debt policy rating), nằm trong nhóm nước có chính sách tốt. Tuy nhiên, xếp
hạng này cho năm 2015 chỉ còn 3.5, nhóm nước có chính sách trung bình. Trừ chỉ
tiêu về nợ nước ngoài/GDP hầu như đã tiếp cận đến ngưỡng an toàn thì các chỉ tiêu
còn lại đều dưới ngưỡng cho phép.
78
Bảng 4.9. Ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2011-2016
Giá trị của nợ Nghĩa vụ nợ (gốc và lãi)
Nhóm quốc gia so với (%) của so với (%) của
Xuất khẩu GDP Thu ngân sách1 Xuất khẩu Thu ngân sách2
Chính sách trung bình 150 40 250 20 30
Chính sách tốt 200 50 300 25 35
Việt Nam 2011 49.98 43.03 162 3.88 15.6
Việt Nam 2012 47.49 37.94 172 3.6 14.6
Việt Nam 2013 45.8 38.28 184.4 3.16 12.6
Việt Nam 2014 44.5 38.64 211.5 4.20 13.8
Việt Nam 2015 44.8 40.33 206.8 3.8 14.9
Việt Nam 2016 45.9 42.39 NA 3.9 NA
Nguồn: WB (2018) và bản tin nợ công số 4, 5 của Bộ Tài chính
4.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững là tiền đề hết sức quan trọng với các quốc
gia kém phát triển, trình độ sản xuất lạc hậu như Việt Nam trong quá trình đổi mới
nền kinh tế. Để đánh giá vấn đề này, nghiên cứu đi sâu phân tích giai đoạn đổi mới
nền kinh tế từ năm 1986 đến nay, gắn liền với những thành tựu và thách thức như
sau:
1
Giá trị nợ của Chính phủ
2
Nghĩa vụ nợ của Chính phủ
79
mới nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, tạo động lực phát triển nền kinh tế. Những
cải cách đột phá giúp giải phóng nền kinh tế khỏi sự kiểm soát chặt chẽ, cứng nhắc
của Nhà nước. Các nền tảng kinh tế thị trường dần dần được hình thành đã giúp Việt
Nam chuyển đổi thành công mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường. Những kết quả ban đầu đem lại trong công cuộc đổi mới nền kinh tế là
khả quan với tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 4.4%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng
28%/năm và kìm chế được lạm phát (Võ Hồng Phúc 2006). Tuy nhiên, cơ cấu cũng
như thể chế kinh tế chưa thay đổi đáng kể nên hiệu quả đầu tư vẫn thấp, cuộc sống
người dân vẫn gặp nhiều khó khăn.
Hình 4.5. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo khu vực giai đoạn 1986-1990
% 12
10
8
6
4
2
2.84 3.63 6 4.68 5.09
0
1986 1987 1988 1989 1990
-2
-4
Axis Title
Nguồn: Số liệu thống kê kinh tế-xã hội Việt Nam 1975-2000, NXB Thống kê (2000)
Giai đoạn 1991-1997
Tiếp nối những thành công trong giai đoạn đầu đổi mới, Việt Nam đẩy mạnh cải
cách kinh tế, chuyển hướng cải cách sang khu vực tư nhân và nước ngoài, tăng tính
tự chủ cho các doanh nghiệp nhà nước. Các chính sách này đã góp phần cởi trói lực
lượng sản xuất, góp phần gia tăng tổng sản lượng xã hội, tăng trưởng kinh tế cao gấp
đôi so với giai đoạn 1986-1990, lạm phát có xu hướng giảm. Thị trường nội địa vẫn
đóng vai trò quan trọng do nền kinh tế mới bắt đầu mở cửa. Cơ cấu kinh tế có chuyển
biến tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp- dịch vụ cũng như kinh tế khu vực tư nhân
80
và nước ngoài. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chững lại từ năm 1996.
Các cải cách kinh tế cũng như gia tăng nhu cầu nội địa là những điểm nhấn trong giai
đoạn này, tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, tăng trưởng kinh tế hướng
về xuất khẩu.
% 16
14
12
10
8
6
4
2
5.81 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15
0
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Axis Title
Nguồn: Số liệu thống kê kinh tế-xã hội Việt Nam 1975-2000, NXB Thống kê (2000)
Hình 4.6 cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức toàn dụng vào năm 1995
và có xu hướng giảm dần vào các năm sau đó. Giai đoạn này được xem là giai đoạn
phát triển thành công của nền kinh tế Việt Nam, tạo động lực phát triển cho các giai
đoạn tiếp theo. Tăng trưởng bình quân cao gấp đôi giai đoạn 1977-1990 (8.77%/năm
so với 4.07%/năm), lạm phát giảm mạnh (từ 180.2% xuống còn 9.5%) và tỷ lệ thất
nghiệp khoảng 5.88% vào năm 1996 (Dương Ngọc 2010). Tăng trưởng khu vực công
nghiệp và xây dựng có vai vai trò dẫn dắt và quan trọng trong tăng trưởng kinh tế với
tốc độ tăng trên 10%/năm.
Bảng 4.10. Kiều hối giai đoạn 1993-1997
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Số tiền (triệu USD) 35 136 141 250 285 469 400
% GDP NA NA 1.1 1.5 1.4 1.9 1.5
Nguồn: Kinh tế 2017-2018:Việt Nam và thế giới
81
Việt Nam từng bước mở cửa hội nhập với thế giới với điểm nhấn là bình
thường hóa quan hệ với Mỹ vào năm 1995. Đồng thời, mở cửa thu hút mọi nguồn
vốn nước ngoài để đầu tư phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Giai đoạn 1991-
1997 thu hút được 27.8 tỷ USD vốn FDI, 10.8 tỷ USD vốn ODA và 1.55 tỷ USD kiều
hối (Dương Ngọc 2010).
Bảng 4.11. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988-1996
Đơn vị tính: triệu USD
Hình 4.7. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký giai đoạn 1997-2000
triệu USD
25,000
21,349
20,000
15,000 12,005
10,000
6,840
5,796
4,801 4,534
3,266 2,993 3,173
5,000 2,031 2,838
0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
2
5.76 4.77 6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46
0
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Axis Title
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1999, 2004 và 2008, NXB Thống kê (2000, 2005 và 2009)
83
Tuy nhiên, để đạt tăng trưởng cao thì tỷ lệ đầu tư/GDP vào nên kinh tế cũng rất
cao (trung bình khoảng 33% GDP). So với các nước trong khu vực châu Á thì Việt
Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ (Bảng 4.12). Điều này cho thấy mô hình tăng
trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào vốn. Theo Tổng cục thống kê, tổng vốn đầu tư
vào nền kinh tế giai đoạn 2001-2014 là 6.071,3 nghìn tỷ đồng. Khu vực kinh tế Nhà
nước chiếm 42.5%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 22.5% và các
thành phần kinh tế còn lại chiếm 35%.
Bảng 4.12. Tỷ lệ đầu tư/GDP của các nước châu Á giai đoạn 2006-2008
ĐVT: % GDP
Hình 4.9. Tăng trưởng kinh tế theo khu vực giai đoạn 2008-2016
% 10
2
6.31 5.32 6.78 6.24 5.25 5.42 5.98 6.68 6.21
0
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Axis Title
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 và 2014, NXB Thống kê (2012, 2016)
4.3. Phân tích thực nghiệm tác động tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
4.3.1. Thống kê mô tả các biến số trong mô hình nghiên cứu
Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ở Bảng 4.14 với các giá trị
được liệt kê như giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn, độ nhọn, độ
nghiêng… Trong đó, các giá trị độ nhọn (Kurtosis) và độ nghiêng (Skewness) cho
biết về hình dáng phân phối của dữ liệu nghiên cứu. Trong đó, các giá trị độ nhọn
(Kurtosis) và độ nghiêng (Skewness) cho biết về hình dáng phân phối của dữ liệu
nghiên cứu. Nếu độ nhọn bằng 3 thì phân phối xác suất được tập trung ở mức bình
thường, lớn hơn 3 là tập trung ở mức cao hơn bình thường, nhỏ hơn 3 là tập trung ở
mức thấp hơn bình thường. Độ nhọn các biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 3, tức là tập
trung ở mức thấp hơn bình thường. Với độ nghiêng thì bằng 0 là phân phối đối xứng,
nhỏ hơn 0 là phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên trái nhiều hơn, lớn hơn 0
là phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên phải nhiều hơn. Độ nghiêng các biến
nghiên cứu đều nhỏ hơn 0, tức là phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên trái
nhiều hơn.
86
Giá trị trung bình 6.68 506.60 91.14 0.66 26.04 37.76
Giá trị lớn nhất 9.26 1,216.04 153.51 8.2 73.53 43.69
Giá trị nhỏ nhất 3.14 123.70 47.60 -4.49 10.39 29.22
Căn cứ vào Bảng 4.14 cho thấy biến GDP, CPI, EX, M2 và EXD có giá trị trung
bình và trung vị gần như bằng nhau, không chênh lệch nhiều. Độ nghiêng các biến
OPE, CPI, EX và M2 có độ nghiêng lớn hơn 0. Các biến OPE, CPI, EX và EXD có
độ nghiêng nhỏ hơn 3. Các giá trị này cho biết hình dáng phân phối của các biến
nghiên cứu trong mô hình định lượng.
Tiếp theo, luận án phân tích tính mùa vụ các biến nghiên cứu trong mô hình
MIDAS. Theo Gujarati (2003) việc tính toán của chuỗi dữ liệu không dừng sẽ không
gặt hái được kết quả hợp lý. Vì vậy, trước khi xây dựng và chạy hồi qui mô hình cần
phân tích tính dừng để tránh trường hợp hồi qui giả mạo. Hồi qui giả mạo được hiểu
là mô hình có kết quả kiểm định t và R rất tốt nhưng mô hình có thể không có ý nghĩa.
Đối với biến phụ thuộc là biến tăng trưởng GDP (%/quý), dữ liệu được lấy từ nguồn
dữ liệu của ngân hàng ADB, giai đoạn Q1/2000 đến Q4/2016. Phân tích dữ liệu bằng
biểu đồ cho thấy tính mùa vụ và được xử lý bằng phương pháp Census X12 (Hình
87
4.10). Tương tự, trong các biến độc lập thì chỉ có biến độ mở nền kinh tế là có tính
mùa vụ và được xử lý bằng phương pháp Census X12 (Hình 4.10).
OPE OPE_SA
Các biến độc lập được đưa vào trong mô hình gồm biến tỷ giá thực (EX), nợ nước
ngoài (EXD), cung tiền M2, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), độ mở nền kinh tế (OPE) và
biến giả khủng hoảng tài chính (CRISIS) đều dừng ở bậc 1 hoặc sai phân bậc 1 (Bảng
4.15). Biến phụ thuộc là tăng trưởng kinh tế GDP cũng cho kết quả tương tự khi dừng
ở sai phân bậc 1 (Bảng 4.15).
88
Bảng 4.15. Kiểm định nghiệm đơn vị bằng phương pháp ADF
R2 0.9408
R2 điều chỉnh 0.9338
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy việc đưa các biến và biến độ trễ trong mô
hình thì biến CPI, EX(-1), OPE và M2 đều có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, biến CPI có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa 1%. Biến EX(-1) cũng có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa 1%. Biến OPE có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa 1%. Bên cạnh đó, các biến EXD và
M2 cũng tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa 1% và 10%.
Ngoài ra, các biến độ mở GDP(-1), CPI(-1) đều có ý nghĩa thống kê trong mô hình
nghiên cứu. Như vậy, giả thuyết 1 là không bác bỏ H0 hay nói cách khác là nợ nước
ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn nghiên
cứu.
90
Kiểm định phần dư để xem xét tính hợp lý của mô hình nghiên cứu trên cơ sở
xem xét phần dư mô hình có phân phối chuẩn hay không, phương sai không đổi và
không có tự tương quan. Nếu đáp ứng được thì phần dư với là nhiễu trắng hay quan
sát ở mỗi thời điểm nhất định không phụ thuộc vào bất kỳ sự kiện, thông tin nào trước
đó.
Hình 4.12. Kiểm định tự tương quan của phần dư trong mô hình MIDAS
91
Trước hết, xem xét phân phối của phần dư (Hình 4.11) cho thấy phần dư có phân
phối chuẩn. Bên cạnh đó, kết quả cũng cho thấy phần dư cũng không có tự tương
quan thông qua phân tích ACF và PACF (Hình 4.12). Kết qủa phân tích cho thấy
phần dư là nhiễu trắng, mô hình phân tích là phù hợp.
4.3.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Phân tích thực nghiệm cho thấy nợ nước ngoài có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Đối với biến nợ nước ngoài, nợ nước ngoài tăng 1% sẽ
làm GDP tăng 0.99%. Đồng thời, độ mở nền kinh tế cũng tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế theo tỷ lệ cứ độ mở tăng 1% làm GDP tăng 0.01%. Phân tích thực
nghiệm cho thấy việc tăng cung tiền M2 tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
theo hướng cung tiền tăng 1% làm GDP tăng 0.037%. Với kết quả tìm được thông
qua nghiên cứu thực nghiệm đã trả lời cho giả thuyết nghiên cứu về tác động của nợ
nước đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, hằng số của mô hình tuyến tính
không có ý nghĩa thống kê. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất các khuyến nghị
chính sách trong chương 5 của luận án.
Nghiên cứu thực nghiệm nợ nước ngoài Việt Nam giai đoạn 2000-2016 cho thấy
tác động tích cực đến nền kinh tế trong dài hạn phù hợp với các nghiên cứu trước đây
như Frimpong và Oteng-Abayi (2006), Daud, Ahmad và Azman-Saini (2013), Suna
Korkmaz (2015). Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt Nam
cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim
Thành (2009), Nguyễn Hữu Tuấn (2012), Nguyễn Ngọc Thạch và Trần Thị Kim
Oanh (2016). Trong các biến nghiên cứu đưa vào mô hình chỉ có biến trễ GDP và
biến giả khủng hoảng tài chính là không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, so sánh giữa giả thuyết và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy
các biến nợ nước ngoài, độ mở nền kinh tế, lạm phát, cung tiền có dấu như kỳ vọng
ban đầu. Tuy nhiên, biến tỷ giá hối đoái thực lại có dấu ngược kỳ vọng. Tóm lại, trong
dài hạn nợ nước ngoài, độ mở nền kinh tế, cung tiền tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam là kết quả đáng chú ý. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng và mức độ
biến động tỷ giá thực lại tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Dựa trên kết quả
92
này, nghiên cứu sẽ đề ra các gợi ý chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
vào nền kinh tế thế giới nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
4.4. Phân tích thực nghiệm tác động phi tuyến của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
4.4.1. Thống kê mô tả các biến số trong mô hình nghiên cứu
Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ở Bảng 4.17 với các giá trị
được liệt kê như giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn, độ nhọn, độ
nghiêng… Trong đó, các giá trị độ nhọn (Kurtosis) và độ nghiêng (Skewness) cho
biết về hình dáng phân phối của dữ liệu nghiên cứu. Nếu độ nhọn bằng 3 thì phân
phối xác suất được tập trung ở mức bình thường, lớn hơn 3 là tập trung ở mức cao
hơn bình thường, nhỏ hơn 3 là tập trung ở mức thấp hơn bình thường.
Bảng 4.17. Thống kê mô tả chuỗi dữ liệu nghiên cứu
GDP OPE EXD
Số quan sát 56 56 56
93
Trong đó, các giá trị độ nhọn (Kurtosis) và độ nghiêng (Skewness) cho biết về
hình dáng phân phối của dữ liệu nghiên cứu. Nếu độ nhọn bằng 3 thì phân phối xác
suất được tập trung ở mức bình thường, lớn hơn 3 là tập trung ở mức cao hơn bình
thường, nhỏ hơn 3 là tập trung ở mức thấp hơn bình thường. Độ nhọn các biến nghiên
cứu đều nhỏ hơn 3, tức là tập trung ở mức thấp hơn bình thường.
Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ở Bảng 4.17 với các giá trị
được liệt kê như giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn, độ nhọn, độ
nghiêng… Với tăng trưởng kinh tế cao nhất là 9.5%, nhỏ nhất là 3.12%/quý và giá trị
trung bình là 6.89%/quý. Độ mở nền kinh tế cao nhất là 1,033 và thấp nhất 123
%/GDP. Nợ nước ngoài tương ứng là 44% và 15% GDP. Độ nhọn các biến đều nhỏ
hơn 3. Độ nghiêng của biến EXD và OPE lớn hơn 0. Các thông số thống kê này cho
biết hình dạng phân phối của các biến trong mô hình nghiên cứu.
Hình 4.13. Đồ thị các biến trong mô hình nghiên cứu
4.13a 4.13b
94
Với độ nghiêng thì bằng 0 là phân phối đối xứng, nhỏ hơn 0 là phân phối bất đối
xứng và đồ thị xuôi về bên trái nhiều hơn, lớn hơn 0 là phân phối bất đối xứng và đồ
thị xuôi về bên phải nhiều hơn. Độ nghiêng các biến nghiên cứu đều nhỏ hơn 0, tức
là phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên trái nhiều hơn.
Do các biến GDP và OPEN có tính mùa vụ (Hình 4.13a) nên việc đầu tiên phải
lọc dữ liệu để loại trừ yếu tố này theo phương pháp phổ biến là Census X12. Sau khi
lọc dữ liệu thì các biến này được đặt tên tương ứng là GDP_SA, EXD_SA và
OPE_SA (Hình 4.13b), yếu tố mùa vụ đã bị loại trừ.
Tiếp theo, để thực hiện mô hình VECM phải thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị
bằng phương pháp ADF trên các dữ liệu đã được xử lý tính mùa vụ. Theo Gujarati
(2003) việc tính toán của chuỗi dữ liệu không dừng sẽ không gặt hái được kết quả
hợp lý. Vì vậy, trước khi xây dựng và chạy hồi qui mô hình cần phân tích tính dừng
để tránh trường hợp hồi qui giả mạo. Hồi qui giả mạo được hiểu là mô hình có kết
quả kiểm định t và R rất tốt nhưng mô hình có thể không có ý nghĩa.
95
Bảng 4.18. Kiểm định nghiệm đơn vị bằng phương pháp ADF
Để chạy mô hình như đã nêu ở phương trình (2.13), việc đầu tiên là phải xác định
ngưỡng nợ nước ngoài. Nghiên cứu sử dụng dạng hàm phi tuyến dạng đường cong
phương trình bậc 2 để mô phỏng ngưỡng nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế thông
qua phần mềm SPSS 20.0. Giá trị này được ước lượng dựa trên sự phân tán tăng
trưởng GDP với biến nợ nước ngoài theo đường cong bậc hai và xác định điểm tối
đa. Mô phỏng đường cong Laffer nợ được mô tả như ở Hình 4.14. Đỉnh của đường
cong này được xem như là ngưỡng nợ tối ưu cho phát triển kinh tế, kết quả cho thấy
ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam là 21.5%/quý.
Tiếp theo, với ngưỡng nợ tối ưu tìm được ở Hình 4.14, nghiên cứu đi tìm bậc trễ
tối ưu cho mô hình VECM thông qua dựa trên các tiêu chuẩn thông tin bằng việc sử
dụng phần mềm Eviews 9.0. Với kết quả như ở Bảng 4.19, bậc trễ tối ưu cho mô hình
VECM là 3.
Tiến hành kiểm định mối quan hệ đồng liên kết nhằm chứng minh mối quan hệ
dài hạn giữa các biến trong mô hình thông qua kiểm định Trace và Max-Eigen với
bậc trễ tương ứng tìm được ở bước 1. Từ đó lựa chọn mô hình VECM tốt nhất. Kết
quả cho thấy phương trình 4 (có hằng số và có xu hướng trong phương trình đồng
liên kết), (Bảng 4.20).
97
Trace 1 1 1 1 2
Max-
1 1 1 2 2
Eigen
Mối quan
Trị riêng Thống kê
hệ đồng Thống kê Giá trị tới Giá trị tới
(Eigen Max-
liên kết giả Trace hạn 5% hạn 5%
value) Eigen
định
Không* 0.912797 150.5823* 42.91525 126.8547 25.82321
Tối đa 1* 0.350487 23.72750 25.87211 22.43966* 19.38704
Tối đa 2 0.024462 1.287840 12.51798 1.287840 12.51798
Với phương trình 4, bậc trễ là 3, nghiên cứu tiếp tục lựa chọn số đồng liên kết
cho mô hình bằng kiểm định Trace và Max-Eigen cho phương trình đồng liên kết
được lựa chọn. Kết quả Bảng 4.21 cho thấy có 2 liên hệ đồng liên kết theo kiểm định
98
Trace và 1 liên hệ đồng liên kết theo kiểm định Max – Eigen giữa các biến trong mô
hình ở mức ý nghĩa 5%, phản ánh mối quan hệ tương quan dài hạn của mô hình
VECM.
Tiến hành ước lượng hồi qui với VECM để xác định tác động và tương quan giữa
các biến trong mô hình tương ứng với 2 đồng liên kết đã tìm ra ở bước 3. Kết quả ước
lượng mô hình VECM cho thấy các biến đều có dấu như kỳ vọng. Mô hình cân bằng
trong dài hạn cho kết quả như phương trình (4.2). Các hệ số hồi qui của nợ nước ngoài
đạt dấu như kỳ vọng và có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Việc đưa biến
giả vào mô hình nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê.
Bảng 4.22. Kết quả mô hình VECM trong dài hạn
Biến Phương trình 1 Thống kê t Phương trình 2 Thống kê t
GDP_SA(-1) 1.0000 0.0000
OPE_SA(-1) 0.0000 1.0000
EXD_SA(-1) -1.292369 -9.26725 95.70700 14.7443
TREND 0.068312 1.62521 -18.85489 9.63728
C 27.17890 -2,457.312
Phương trình đồng liên kết của mô hình nghiên cứu:
1*GDP_SAt-1 - 1.292369*EXD_SAt-1 + 0.068312*TREND + 26.17890 = 0 (4.2)
Hay: GDP_SAt-1 = 1.292369*EXD_SAt-1 - 0.068312*TREND – 26.17890 (4.3)
Để làm rõ hơn mối quan hệ giữa các biến trong mô hình VECM, nghiên cứu thực
hiện kiểm định nhân quả Granger. Kết quả kiểm định ở Bảng 4.7 cho thấy với các giả
thuyết H0 khi p nhỏ hơn 10% thì có cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0 và chấp nhận giả
thuyết H1.
Với biến D(GDP_SA) là biến phụ thuộc, giả thuyết D(OPE_SA) không phải là
nguyên nhân không thể bị bác bỏ với mức ý nghĩa 5%. Tuy nhiên, kiểm định kết hợp
cho cả D(EXD_SA) và D(OPE_SA) không là nguyên nhân của D(GDP_SA) bị bác
bỏ ở mức ý nghĩa 1%. Kết qủa này cho thấy D(EXD_SA) và D(OPE_SA) là nguyên
nhân của D(GDP_SA) hay D(GDP_SA) là biến phụ thuộc.
100
Nợ nước ngoài không có tác động đến tăng trưởng kinh tế 3.899075 0.2726
Tất cả các nhân tố trên không có tác động đến tăng trưởng kinh 28.24423 0.0001*
tế
Tất cả các nhân tố trên không có tác động đến độ mở 12.60586 0.0497**
Tăng trưởng kinh tế không có tác động đến nợ nước ngoài 1.538364 0.6734
Tất cả các nhân tố trên không có tác động đến nợ nước ngoài 4.960351 0.5489
Với biến D(OPE_SA) là biến phụ thuộc, giả thuyết D(GDP_SA) không phải là
nguyên nhân bị bác bỏ với mức ý nghĩa 1%. Tuy nhiên, kiểm định kết hợp cho cả
D(GDP_SA) và D(EXD_SA) không là nguyên nhân của D(OPE_SA) không thể bị
bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%. Kết qủa này cho thấy D(GDP_SA) và D(EXD_SA) là
nguyên nhân của D(OPE_SA) hay D(OPE_SA) là biến phụ thuộc.
101
Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình được thể hiện như trong Hình 4.15 sau
đây:
Hình 4.15. Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình VECM
D(GDP_SA)
D(EXD_SA) D(OPE_SA)
Kết quả phân tích phản ứng đẩy không tích lũy cho thấy trong ngắn hạn các biến
phản ứng với các cú sốc như thế nào. Đối với cú sốc của tăng trưởng kinh tế GDP,
các biến nợ nước ngoài và độ mở nền kinh tế có phản ứng ở mức ý nghĩa 5%. Độ mở
nền kinh tế tăng lên mức 3 ở t=1, mức 1 ở t=2 và mức 7 ở t=3 rồi giảm về 0 ở t=4.
Nợ nước ngoài giảm xuống mức -0.3 ở t=1 rồi giảm về 0 ở t=2. Đồng thời tăng trưởng
kinh tế phản ứng với chính nó không khác 0 tại mức ý nghĩa 5% từ t=2 tức GDP chỉ
phản ứng ở quý đầu tiên sau sốc. Kết quả này đồng nhất với kiểm định Granger.
Đối với cú sốc độ mở nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế tăng 0.01 ở t=1, 0.26 ở t=2
rồi giảm về 0 ở t=3. Nợ nước ngoài tăng 0.2 ở t=1 rồi giảm về 0 ở t=2. Độ mở nền
kinh tế cũng phản ứng với chính nó từ t=3 sau sốc. Kết quả này đồng nhất với kiểm
định Granger.
102
Cú sốc độ mở OPE
Phản ứng của GDP Phản ứng của EXD
Đối với cú sốc của nợ nước ngoài, nó chỉ phản ứng với chính nó từ t=2 sau sốc
hay nới cách khác nó chỉ phản ứng ở quý đầu tiên sau sốc. Kết quả này đồng nhất với
kiểm định Granger.
103
Cú sốc độ mở OPE
Phản ứng của GDP Phản ứng của EXD
Đối với phản ứng đẩy có tích lũy, nợ nước ngoài và độ mở nền kinh tế phản ứng
với cú sốc của tăng trưởng kinh tế. Nợ nước ngoài phản ứng với độ cân bằng mới đạt
được từ t=2 sau sốc ở mức -0.3. Độ mở nền kinh tế phản ứng với độ cân bằng mới
đạt được từ t=4 sau sốc ở mức 10. Độ mở nền kinh tế phản ứng với chính nó và đạt
mức cân bằng mới ở mức 21 từ t=3. Tương tự, nợ nước ngoài phản ứng với mức cân
bằng mới đạt được ở mức 0.2 từ t=2. Nợ nước chỉ ngoài phản ứng với chính nó và
đạt mức cân bằng mới từ t=2.
104
Phân rã phương sai mô hình VAR (8) với trật tự D(GDP_SA), D(OPE_SA),
D(EXD_SA) cho thấy biến động D(GDP_SA) chủ yếu được giải thích bởi chính nó
và độ mở nền kinh tế. D(EXD_SA) giải thích rất ít cho sự biến động của D(GDP_SA).
Tuy nhiên, sự biến động D(OPE_SA) được giải thích bởi chính nó và D(GDP_SA).
D(EXD_SA) cũng giải thích cho sự biến động của D(OPE_SA) nhưng không cao. Sự
biến động của D(EXD_SA) chủ yếu được giải thích bởi chính nó và D(GDP_SA).
D(POE_SA) cũng giải thích cho sự biến động cho D(EXD_SA) nhưng cũng không
cao.
105
Tiếp theo tiến hành các kiểm định nhằm đảm bảo tính ổn định và xem xét các yêu
cầu của mô hình VECM có thỏa mãn hay không. Trước hết là kiểm định nghiệm đặc
trưng AR nhằm đảm bảo tính ổn định của mô hình. Kết quả kiểm định cho thấy tất cả
các nghịch đảo nghiệm đều nằm trong vòng tròn đơn vị (Hình 4.18). Điều này cho
thấy mô hình VECM đảm bảo tính ổn định và bền vững.
Hình 4.18. Kiểm định AR
Nghiên cứu tiếp tục các kiểm định sau ước lượng nhằm bảo đảm các yêu cầu của
VECM về phần dư. Tiến hành kiểm định Portmanteau và nhân tử Lagrange (LM) để
xem xét hiện tượng tương quan chuỗi của phần dư. Kết quả cho thấy phần dư không
có hiện tượng tự tương quan (Bảng 4.26).
106
Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư cho thấy chấp nhận giả thuyết H0 ( chưa
có cơ sở thống kê để bác bỏ giả thuyết phần dư của mô hình có phân phối chuẩn) với
mức ý nghĩa 1% (Bảng 4.11).
Bảng 4.27. Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư
Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư
Bộ phận 1 2 3
tăng thêm nợ nước ngoài góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ nợ gia tăng
không là gánh nặng nợ cho nền kinh tế, góp phần bền vững chính sách tài khóa.
Nhưng nếu nền kinh tế đã đạt mức tối ưu về nợ thì vấn đề ổn định nợ lại trở nên quan
trọng.
Các quốc gia không ổn định nợ ở mức tối ưu sẽ gặp phải vấn đề gánh nặng nợ
trong tương lai. Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam giai đoạn 2000-2013 đã cho
thấy mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, cũng
khẳng định sự tồn tại của đường cong Laffer nợ. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối
quan hệ cân bằng dài hạn giữa tăng trưởng GDP và các biến độc lập cũng như ngưỡng
nợ tối ưu cho Việt Nam là 21.5%/quý, tương ứng khoảng 86% GDP/năm. Kết quả
nghiên cứu về ngưỡng nợ này cũng tương đồng với các nghiên cứu thực nghiệm trước
đây của Arcand và cộng sự (2015) với ngưỡng nợ là 110% GDP và Kumar và Woo
(2010) với ngưỡng nợ là 90% GDP.
So với các nghiên cứu trước đây về ngưỡng nợ của Việt Nam, nghiên cứu này
cũng cho thấy sự tồn tại mối quan hệ phi tuyến của nợ nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế và ngưỡng nợ là 21.5%/quý trong giai đoạn 2000-2013. Sự khác biệt của
nghiên cứu là ngưỡng nợ mới so với các nghiên cứu trước đây. Ngoài ra, cũng chỉ ra
được mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn của các biến nghiên cứu. Vấn đề mà
Việt Nam quan tâm là nếu nợ nước ngoài vẫn tác động hiệu quả đến tăng trưởng kinh
tế thì nên bỏ ngưỡng nợ hoặc tăng trần nợ trên cơ sở quan tâm đến khả năng trả nợ
của quốc gia.
108
Nam. Vấn đề hiện nay của Việt Nam là cách thức phân bổ đúng mục đích và hiệu quả
sử dụng vốn vay nhằm đảm bảo duy trì nguồn trả nợ trong tương lai, đáp ứng được
các chuẩn mực an toàn về quản lý nợ nước ngoài. Để làm được điều này, Chính phủ
cần quan tâm đến vấn đề quản lý dòng tiền để đảm bảo khả năng trả nợ cũng như an
toàn tài chính quốc gia, tránh phụ thuộc quá nhiều từ bên ngoài. Bên cạnh đó, phát
triển thị trường tài chính nội địa để huy động vốn cho nền kinh tế là giải pháp lâu dài,
an toàn thay thế cho nợ nước ngoài mà Việt Nam cần hướng tới.
5.2. Khuyến nghị chính sách về nợ nước ngoài
Trên cơ sở phân tính thực trạng và nghiên cứu thực nghiệm về nợ nước ngoài ở
Chương 4, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách về nợ nước ngoài của Việt
Nam nhằm cải thiện và nâng cao hiệu qủa sử dụng với tầm nhìn đến 2030 như sau:
Trên cơ sở phân tích định tính đã cho thấy sự chồng chéo trong quản lý nợ nước
ngoài ở Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần thống nhất vai trò quản lý chủ đạo đối với
nợ nước ngoài thông qua kinh nghiệm các nước trên thế giới với việc thành lập Hội
đồng quản lý nợ quốc gia (bao gồm nợ công và nợ nước ngoài) trực thuộc Chính phủ
với các thành viên từ Bộ tài chính, NHNN và Bộ kế hoạch và đầu tư mà các nước Bồ
Đào Nha, Áo, Thụy Điển đã áp dụng (Hình 5.1). Điều này làm giảm sự chồng chéo
trong công tác quản lý nợ nước ngoài giữa 3 bộ nêu trên. Trong đó cần quan tâm đến
công tác nhân sự điều hành hội đồng này trên cơ sở năng lực, trình độ chuyên môn
nhằm đáp ứng các thông lệ quốc tế về quản lý nợ nước ngoài.
Xây dựng cơ chế sử dụng vốn vay nước ngoài trên cơ sở minh bạch thông tin.
Các dự án sử dụng vốn vay bên ngoài cần công khai tiến độ thực hiện, dự toán và
phân bổ chi phí cho từng giai đoạn nhằm tránh tình trạng dự án treo, chậm giải ngân
và kéo dài thời gian thực hiện dự án trên cơ sở giám sát chặt chẽ của các cơ quan có
liên quan. Làm được điều này sẽ góp phần giảm lợi ích nhóm trong việc trúng thầu
các dự án nêu trên. Tăng cường công tác giám sát hoạt động sử dụng vốn vay của các
110
DNNN do trong thời gian qua các DN này sử dụng vốn vay kém hiệu quả, mất khả
năng thanh toán.
Hình 5.1. Cơ cấu tổ chức Hội đồng quản lý nợ nước ngoài thuộc Chính phủ
sở để đưa ra vấn đề này vì kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy ngưỡng nợ của
Việt Nam là 21.5%/quý, tương đương 86%/năm nên so với ngưỡng nợ hiện nay là
khá thấp. Do đó, vấn đề này nên để Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia giám sát các
chỉ tiêu đảm bảo khả năng thanh toán nợ (đề cập ở Phần 2.1.4 trang 17) để huy động
nguồn vốn nước ngoài phục vụ công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu định lượng cũng cho thấy tác động của tỷ giá thực
đến tăng trưởng kinh tế và nợ nước ngoài. Vì vậy, bên cạnh thực hiện chính sách quản
lý ngoại hối trên cơ sở hướng đến ổn định tỷ giá để ổn định nợ nước ngoài. Việc phá
giá đồng tiền quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến gia tăng nợ nước ngoài như trường hợp
Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay.
Việt Nam cần sử dụng nguồn lực tài chính trong nước để phát triển đất nước thay
vì phải đi vay bên ngoài để phát triển khu vực tư nhân. Cơ sở của khuyến nghị này là
dựa trên cơ chế truyền dẫn của Nautet và Meensel (2011) cho thấy tác động của đầu
tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, sử dụng nợ nước ngoài để phát triển khu
vực tư nhân là nền tảng quan trọng để đảm bảo khả năng trả nợ. Muốn làm được điều
này, chính phủ phải quan tâm đến phát triển kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân
đã thu hút 85% lực lượng lao động cả nước, đóng góp 43.22% GDP (2015) (Tô Hoài
Nam, 2017). Hội nghị trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết về phát triển
kinh tế tư nhân là một bằng chứng thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, tạo
động lực thúc đẩy phát triển khu vực này và toàn bộ nền kinh tế. Mặc dù đóng góp
nhiều cho nền kinh tế nhưng 95% khu vực kinh tế tư nhân vẫn là kinh tế hộ gia đình,
cá thể và doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và trên 90% có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Vì vậy,
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng sức sản xuất, khai thác nguồn
vốn trong dân để đầu tư vào nền kinh tế. Để làm được điều này, Chính phủ cần khẩn
trương ban hành khung pháp lý trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường, tôn trọng
pháp luật và cạnh tranh lành mạnh nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng cũng như
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được Quốc hội thông qua vào 12/06/2017.
Bên cạnh đó, các Bộ ban ngành cần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân cũng như tập trung đào tạo
112
nguồn nhân lực thiên về đào tạo nghề để phục vụ khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời
đẩy mạnh công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc trung ương quản
lý để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tiếp cận với phương pháp quản lý hiện
đại. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế tiếp cận nguồn
vốn, đặc biệt là các nguồn vốn ưu đãi, để đầu tư mang lại giá trị gia tăng cao. Mặt
khác, tạo ra sự công bằng trong công tác đấu thầu các dự án Nhà nước giữa khu vực
công – tư, nhằm gia tăng sự cạnh tranh để các doanh nghiệp luôn cải tiến, hoàn thiện
và tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
Cuối cùng, phân bổ hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài để phát triển nền kinh
tế trên cơ sở cải thiện khả năng hấp thụ vốn vay. Chính phủ cần loại bỏ cơ chế xin -
cho đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong phân bổ vốn vay nước ngoài. Trên cơ
sở xem xét chỉ số ICOR ở các ngành để phân bổ vốn đầu tư, đảm bảo nguồn trả nợ
trong tương lai một cách bền vững. Ưu tiên phân bổ vốn vay nước ngoài cho các
thành phần kinh tế đóng góp nhiều cho tăng trưởng GDP cũng như giải quyết công
ăn việc làm. Cuối cùng, như đã phân tích trong phần cơ cấu vốn vay bên ngoài, cần
quan tâm hiệu quả sử dụng cũng như gia tăng thu hút nguồn vốn ODA. Vốn ODA đã
được minh chứng qua các công trình trọng điểm quốc gia, gắn liền với sự phát triển
của quốc gia cũng như các vùng kinh tế trọng điểm với chi phí thấp, thời gian vay
dài, phù hợp với các nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới
cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án sử dụng vốn ODA, tránh tình trạng dây
dưa kéo dài, gia tăng thêm chi phí do trượt giá cũng như tác động không tốt đến uy
tín từ các nhà tài trợ. Mặt khác, trong thời gian tới nguồn vốn này sẽ bị thu hẹp do
Việt Nam nằm trong nhóm các nước có thu nhập trung bình nên cần đặt ra các dự án
ưu tiên sử dụng nguồn vốn này trên cơ sở khả năng hoàn vốn cũng như tạo nguồn trả
nợ trong tương lai từ dự án. Để tránh phụ thuộc quá nhiều từ nguồn vốn này, Chính
phủ cần phát triển thị trường trái phiếu trong nước, chú trọng đến các nhà đầu tư nước
ngoài.
113
thông tin này nằm trong danh mục bảo mật quốc gia như hiện nay. Đồng thời, thu hút
kiều hối để có thêm nguồn lực phát triển đất nước trên cơ sở minh bạch hóa thông tin
và tạo niềm tin cho kiều bào bằng các chính sách, thủ tục đầu tư rõ ràng bình đẳng
giữa các thành phần trong nền kinh tế. Hệ thống các ngân hàng thương mại cần hướng
tới thủ tục thuận tiện, nhanh chóng trong việc chuyển tiền cho người nhận trong nước.
Tuy nhiên, NHNN cần chú ý tới việc giám sát thông tin để tránh liên quan đến các
hoạt động rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. Ngoài ra, để người dân bán ngoại tệ cho
ngân hàng cần quan tâm đến chính sách ổn định tỷ giá cũng như lãi suất đồng ngoại
tệ để lượng tiền này đi vào hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
Cuối cùng, đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong hệ thống quản lý
nhà nước, cải thiện xếp hạng trên các báo cáo của tổ chức minh bạch. Theo báo cáo
của tổ chức này, năm 2016 Việt Nam xếp hạng 113/176, tăng nhẹ so với năm 2015.
Đây là những tín hiệu đáng mừng, thể hiện quyết tâm đổi mới, cải cách và phòng
chống tham nhũng triệt để của Đảng, Chính phủ với những hành động cụ thể như
thông qua Luật tiếp cận thông tin, sửa đổi Luật phòng chống tham những theo hướng
tiếp cận Công ước chống tham nhũng của Liên hiệp quốc (UNCAC). Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn chưa tạo ra sự thay đổi có tính đột phá trong cảm nhận về tham nhũng khu
vực công và tiếp tục nằm trong nhóm nước mà tham những được cho là nghiêm trọng.
Đồng thời, cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia để giảm thiểu chi phí vay trên thị
trường vốn quốc tế. Trong những năm gần đây, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam do
,
các tổ chức Moody s, Fitch và Standard & Poors ở mức BB hoặc BB-. Để làm được
điều này, Việt Nam cần cải thiện các nhóm chỉ tiêu đánh giá về rủi ro kinh tế, rủi ro
chính trị, môi trường đầu tư…
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài
Một trong những hạn chế của nghiên cứu là tính cập nhật dữ liệu của nợ nước
ngoài theo quý. Hiện tại, WB và ADB không cập nhật dữ liệu này theo quý từ năm
2014. Ngoài ra, nhiều dữ liệu vĩ mô của Việt Nam chủ yếu được cập nhật theo năm,
chưa quan tâm phân tích dữ liệu theo quý như đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự trữ
116
ngoại hối, nợ nước ngoài… Vì vây, những biến này chưa được xem xét trong mô hình
tác động đến tăng trưởng kinh tế cũng như ngưỡng nợ nợ nước ngoài của Việt Nam.
Mẫu nghiên cứu còn ít (68 quan sát) và chưa đủ dài để phân tích trong dài hạn. Bên
cạnh đó, nghiên cứu chưa đề cập đến tác động ngược lại của tăng trưởng kinh tế đến
ngưỡng nợ nước ngoài.
Hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài là nên đưa thêm các biến độc lập vào
nghiên cứu trong mối quan hệ với nợ nước ngoài tác động đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam. Bên cạnh đó có thể nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả giữa nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
An Huy, 2014. Việt Nam đã huy động 2.75 tỷ USD trái phiếu quốc tế như thế nào?, truy
cập tại <http://bizlive.vn/tai-chinh/infographic-viet-nam-da-huy-dong-275-ty-
usd-trai-phieu-quoc-te-nhu-the-nao-568441.html>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Dương Ngọc, 2010. 3 lần khủng hoảng và 3 lần chuyển vị thế của Việt Nam, truy cập tại
<http://vneconomy.vn/thoi-su/3-lan-khung-hoang-va-3-lan-chuyen-vi-the-cua-
viet-nam-20105194034740.htm>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Đặng Nguyễn Hoài Thanh, 2015. Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế: trường hợp các
quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á. Luận văn thạc sĩ. Đại học kinh tế
TP. Hồ Chí Minh.
Đinh Phi Hổ và Nguyễn Văn Phương, 2015. Giáo trình Kinh tế phát triển: căn bản và
nâng cao. Nhà xuất bản kinh tế TP. HCM.
Đoàn Ngọc Châu, 2012. Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ. Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Đỗ Đình Thu, 2005. Quản lý nợ nước ngoài và kinh nghiệm cho quản lý nợ ở Việt Nam.
Tạp chí Ngân hàng, số 05, trang 71 - 74.
Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2003. Đánh giá tính bền vững của nợ nước ngoài ở Việt Nam thời
gian qua và dự báo cho thời gian tới. Tạp chí Ngân hàng, số 14, trang 18-22.
Hà An, 2006. Nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát. Tạp chí Khoa học
và đào tạo Ngân hàng, số 51, trang 1 - 4.
Lê Hiệp, 2018. Sử dụng vốn vay nước ngoài chưa hiệu quả,trách nhiệm thuộc về ai?, truy
cập tại < https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/su-dung-von-vay-nuoc-ngoai-
chua-hieu-qua-trach-nhiem-thuoc-ve-ai-991780.html, [ truy cập ngày
22/12/2018].
Ngọc Lan, 2018. Dư nợ nước ngoài của Việt Nam tăng đột biến 73%, truy cập tại
<https://www.thesaigontimes.vn/273629/Du-no-nuoc-ngoai-cua-Viet-Nam-
tangdot-bien-73.html, [ truy cập ngày 20/10/2018].
Nguyễn Chí Hải, 2011. Vấn đề nợ nước ngoài trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Tạp chí Ngân hàng, số 1 & 2, trang 28-33.
Nguyễn Hoàng, 2012. Đánh giá những quy định pháp lý liên quan đến giám sát nợ
nước ngoài ở Việt Nam. Tạp chí kiểm toán, số 3, trang 26 – 28.
Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thành, 2009. Khảo sát tính bền vững của nợ
nước ngoài và ý nghĩa đóng góp đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Tạp chí phát triển kinh tế, số tháng 10/2009, trang 41 – 48.
Nguyễn Hữu Tuấn, 2012. Mối quan hệ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Việt
Nam. Tạp chí phát triển và hội nhập, số 4, trang 21 - 25.
Nguyễn Ngọc Thạch và Lý Hoàng Ánh, 2014. Giáo trình Kinh tế học vĩ mô. Nhà
xuất bản kinh tế TP. HCM.
Nguyễn Ngọc Thạch và Trần Thị Kim Oanh, 2016. Nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế- Góc nhìn từ các nước khu vực Đông Nam Á. Tạp chí Ngân hàng,
số 3&4, trang 150-159.
Nguyễn Viết Lợi, 2015. Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Hội thảo đánh giá 20 năm huy động và
sử dụng vốn ODA Việt Nam.
Phạm Minh Chính và Vương Quân Hoàng, 2009. Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm
và đột phá. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Phạm Văn Dũng, 2011. Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Luận
văn thạc sĩ. Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Phan Khúc Huân, 2006. Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản thống kê.
Phạm Thị Tuyết Trinh và cộng sự, 2016. Giáo trình kinh tế lượng ứng dụng trong kinh tế
và tài chính. Nhà xuất bản kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Thời báo kinh tế Việt Nam, 2015. Kinh tế 2014-2015 Việt Nam và thế giới. Nhà xuất
bản Thông tin và truyền thông.
Thời báo kinh tế Việt Nam, 2017. Kinh tế 2016-2017 Việt Nam và thế giới. Nhà xuất
bản Thông tin và truyền thông.
Thủ tướng, 2012. Quyết định phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc
gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, truy cập tại <
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=
2&mode=detail&document_id=162489>, [truy cập ngày 16/11/2017].
Thủ tướng, 2018. Kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ, truy cập
tại < https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Quyet-dinh-437-
QD-TTg-2018-ke-hoach-vay-tra-no-cua-Chinh-phu-va-cac-han-muc-vay-no-
380113.asp>, [truy cập ngày 16/09/2018].
Tổng cục thống kê, 2000, 2005 và 2009. Niên giám thống kê 1999, 20004 và 2008. NXB
Thống kê 2000, 2005 và 2009.
Tổng cục thống kê, 2000. Số liệu thống kê kinh tế-xã hội Việt Nam 1975-2000. NXB
Thống kê 2000.
Trần Đình Thiên, 2014. Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2014, Ủy ban kinh tế của Quốc hội,
truy cập tại < http://www.thesaigontimes.vn/114348/Ky-yeu-Dien-dan-Kinh-te-
mua-Xuan-2014.html>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Trần Lê Thanh Hải, 2013. Nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Trần Thị Quế Giang, 2011. Bài giảng môn Tài chính phát triển, chương trình giảng dạy
Fulbright Việt Nam.
Vinacapital, 2015. VinaCapital: Lãi suất có xu hướng tăng theo lợi suất TPCP, truy cập
tại <http://ndh.vn/vinacapital-lai-suat-co-xu-huong-tang-theo-loi-suat-tpcp-
20150804034757890p4c149.news>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Vĩnh Chi, 2018. Quản lý vốn vay nước ngoài: Hang loạt dự án đội vốn nghìn tỷ, mất khả
năng thanh toán, truy cập tại < https://vietnamfinance.vn/quan-ly-von-vay-nuoc-
ngoai-hang-loat-du-an-doi-von-nghin-ty-mat-kha-nang-thanh-toan-
20180504224211284.htm, [ truy cập ngày 22/12/2018].
Võ Thị Thùy Trang, 2013. Nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Luận
văn thạc sĩ. Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Võ Văn Đức, 2005. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Solow và khả năng áp dụng vào
đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Nhà xuất bản Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Vũ Thành Tự Anh, 2010. Cải cách cơ cấu để phát triển và gảm đói nghèo ở Việt Nam,
truy cập tại <https://www.imf.org/external/np/seminars/eng/
2010/lic/pdf/AnhV.pdf, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Tiếng Anh
ADB, 2017. Vietnam: Macroeconomic and debt sustainability assessment 2017, truy cập
tại <https://www.adb.org/sites/default/files/linked-documents/47293-001-sd-
04.pdf>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Adegbite, E.O., Ayadi, F.S. and Felix Ayadi, O., 2008. The impact of Nigeria's external
debt on economic development. International Journal of Emerging Markets, 3(3),
pp.285-301.
Agénor, P.R. and Montiel, P.J., 2015. Development macroeconomics. Princeton
university press.
Aguiar, M., Amador, M. and Gopinath, G., 2009. Investment cycles and sovereign debt
overhang. The Review of economic studies, 76(1), pp.1-31.
Ahokpossi, C., Allain, L. and Bua, G., 2014. A Constrained Choice? Impact of
Concessionality Requirements on Borrowing Behavior.
Ajisafe, R., Nassar, M., Fatokun, O., Soile, I. and Gidado, O.K., 2006. External debt and
foreign private investment in Nigeria: A test for causality.
Amassoma, D., 2011. External debt, internal debt and economic growth bound in Nigeria
using a causality approach. Current Research Journal of Social Sciences, 3(4),
pp.320-325.
Arcand, J.L., Berkes, E. and Panizza, U., 2015. Too much finance?. Journal of Economic
Growth, 20(2), pp.105-148.
Bacha, E.L., 1990. A three-gap model of foreign transfers and the GDP growth rate in
developing countries. Journal of Development economics, 32(2), pp.279-296.
Chambers, M.J., 2016. The estimation of continuous time models with mixed frequency
data. Journal of Econometrics, 193(2), pp.390-404.
Chenery, H.B. and Strout, A.M., 1966. Foreign assistance and economic
development. The American Economic Review, 56(4), pp.679-733.
Chowdhury, A., 2001. External debt and growth in developing countries: a sensitivity and
causal analysis. WIDER-Discussion Papers.
CIA, 2018. External Debt, truy cập tại < https://www.cia.gov/library/publications/the-
world factbook/rankorder/2079rank.html#sn>, [ truy cập ngày 10/9/2018].
Clements, B., R. Bhattacharya, and T.Q. Nguyen, 2003. External Debt, Public Investment,
and Growth in Low-Income Countries. IMF Working Paper No. 03/249.
Cohen, D., 1993. Growth and external debt (No. 778). CEPR Discussion Papers.
Cordella, T., Ricci, L.A. and Ruiz-Arranz, M., 2010. Debt overhang or debt
irrelevance?. IMF Staff Papers, 57(1), pp.1-24.
Daud, S.N.M., 2016. The Real Effect of Government Debt: Evidence from the Malaysian
Economy. Journal of Economic Cooperation & Development, 37(3), p.57.
De Pinies, J., 1989. Debt sustainability and overadjustment. World Development, 17(1),
pp.29-43.
Deshpande, A., 1997. The debt overhang and the disincentive to invest. Journal of
Development Economics, 52(1), pp.169-187.
Diallo, M.B., 2010. Fiscal policy, external debt sustainability, and economic growth:
Theory and empirical evidence for selected sub-Saharan African
countries (Doctoral dissertation, New School University).
Easterly, W.R., 2001. Growth implosions and debt explosions: do growth slowdowns
cause public debt crises?. Contributions in Macroeconomics, 1(1).
Elbadawi, I., Ndulu, B. and Ndungu, N., 1997. Debt Overhang and Economic Growth in
Africa. Iqbal and Kanbur, ed.
Fosu, A.K., 1999. The external debt burden and economic growth in the 1980s: evidence
from sub-Saharan Africa. Canadian Journal of Development Studies/Revue
canadienne d'études du développement, 20(2), pp.307-318.
Frimpong, J.M. and Oteng-Abayie, E.F., 2006. The impact of external debt on economic
growth in Ghana: A Cointegration Analysis. Journal of Science and Technology
(Ghana), 26(3), pp.122-131.
Ghysels, E., Santa-Clara, P. and Valkanov, R., 2004. The MIDAS touch: Mixed data
sampling regression models.
Ghysels, E., Sinko, A. and Valkanov, R., 2007. MIDAS regressions: Further results and
new directions. Econometric Reviews, 26(1), pp.53-90.
Ghysels, E., 2016. Macroeconomics and the reality of mixed frequency data. Journal of
Econometrics, 193(2), pp.294-314.
Greene, J. and Villanueva, D., 1991. Private investment in developing countries: an
empirical analysis. Staff Papers, 38(1), pp.33-58.
Gujarati, D.N., 2009. Basic econometrics. Tata McGraw-Hill Education.
Hjertholm, P., 2001. Debt relief and the rule of thumb: Analytical history of HIPC debt
sustainability targets (No. 2001/68). WIDER Discussion Papers//World Institute
for Development Economics (UNU-WIDER).
IMF. 2003. Theo External Debt Statistics: Guide for Compilers and Users 2003, truy cập
tại < https://www.imf.org/external/pubs/ft/eds/Eng/Guide/index.htm>, [ truy cập
ngày 10/10/2017].
Jeffries, I., 2007. Vietnam: A guide to economic and political developments. Routledge.
Kamin, S.B., Kahn, R.B. and Levine, R., 1989. External debt and developing country
growth (No. 352).
Kasper, W., Streit, M.E. and Boettke, P.J., 2012. Institutional economics: Property,
competition, policies. Edward Elgar Publishing.
Kaufmann, D., Kraay, A. and Mastruzzi, M., 2011. The worldwide governance indicators:
methodology and analytical issues. Hague Journal on the Rule of Law, 3(2),
pp.220-246.
Korkmaz, S., 2015. The relationship between external debt and economic growth in
Turkey. In Proceedings of the Second European Academic Research Conference
on Global Business, Economics, Finance and Banking (EAR15Swiss Conference)
ISBN (pp. 978-1).
Krugman, P., 1988. Financing vs. forgiving a debt overhang. Journal of development
Economics, 29(3), pp.253-268.
Kumar, M., 2016. S., Woo, J.(2010). Public Debt and Growth. International Monetary
Fund, Working Paper, (10/174).
Mensah, D., Aboagye, A.Q., Abor, J. and Kyereboah-Coleman, A., 2017. External debt
among HIPCs in Africa: accounting and panel var analysis of some
determinants. Journal of Economic Studies, (just-accepted), pp.00-00.
Mohamed, M.A.A., 2005. The impact of external debts on economic growth: an empirical
assessment of the Sudan: 1978-2001. Eastern Africa Social Science Research
Review, 21(2), pp.53-66.
Mohd Dauda, S.N., Ahmad, A.H. and Azman-Saini, W.N.W., 2013. Does External Debt
Contribute to Malaysia Economic Growth?. Economic Research-Ekonomska
Istraživanja, 26(2), pp.51-68.
Moore, W. and Thomas, C., 2010. A meta-analysis of the relationship between debt and
growth. International Journal of Development Issues, 9(3), pp.214-225.
Mukui, G.K., 2013. Effect of external public debt on economic growth in
Kenya. Unpublished MBA Project.
Mutasa, C., 2003. A CRITICAL REVIEW OF THE HIPC PROCESS.
Nakatani, P. and Herrera, R., 2007. The South has already repaid its external debt to the
North: but the North denies its debt to the South. Monthly Review, 59(2), p.31.
Nautet, M. and Van Meensel, L., 2011. Economic impact of the public debt. Economic
Review, 2, pp.7-19.
Nguyen, T.Q., Clements, M.B.J. and Bhattacharya, M.R., 2003. External debt, public
investment, and growth in low-income countries (No. 3-249). International
Monetary Fund.
Pattillo, C.A., Poirson, H. and Ricci, L.A., 2004. What are the channels through which
external debt affects growth?.
Pegkas, P., 2018. The Effect of Government Debt and Other Determinants on Economic
Growth: The Greek Experience. Economies, 6(1), p.10.
Platje, J., 2008. “Institutional capital” as a factor of sustainable development‐the
importance of an institutional equilibrium. Technological and Economic
Development of Economy, 14(2), pp.144-150.
Sachs, J.D., 1989. Conditionality, debt relief, and the developing country debt crisis.
In Developing Country Debt and Economic Performance, Volume 1: The
International Financial System (pp. 255-296). University of Chicago Press.
Samuelson, P.A., & Nordhaus, W.D., 2010. Economics 19th edition. Mc Graw-Hill Irwin.
Schclarek, A. and Ramon-Ballester, F., 2005. External Debt and Economic Growth in
Latin America. Paper not yet published. Download at http://www. cbaeconomia.
com/Debt-latin. pdf.
Shah, M.H. and Pervin, S., 2012. External public debt and economic growth: empirical
evidence from Bangladesh, 1974 to 2010.
Soludo, C.C., 2003. Debt poverty and inequality in Okonjo Iweala, Soludo, and Muntar
(Eds), The debt trap in Nigeria.
Sulaiman, L.A. and Azeez, B.A., 2012. Effect of external debt on economic growth of
Nigeria. Journal of Economics and Sustainable Development, 3(8), pp.71-79.
Swedish National Debt Office, 2017. Organization, truy cập tại <
https://www.riksgalden.se/en/aboutsndo/About-the-Debt-Office/Organisation/>, [
truy cập ngày 10/9/2017].
Taylor, L., 1994. Gap models. Journal of Development Economics, 45(1), pp.17-34.
TFFS, 2014. Theo External Debt Statistics: Guide for Compilers and Users 2014, truy cập
tại < http://www.tffs.org/pdf/edsg/ft2014.pdf>, [ truy cập ngày 10/10/2017].
Transparency International, 2016. Corruption Perceptions Index 2016, truy cập tại
<https://www.transparency.org/news/feature/corruption_perceptions_index_2016
?gclid=CjwKCAiA1O3RBRBHEiwAq5fD_CYFvCbqPjBVddwhwCeq6vAlmEL
5dPGV24r3u1eJauOXCb2rX2uB7RoCnV0QAvD_BwE>, [ truy cập ngày
10/9/2017].
Were, M., 2001. The impact of external debt on economic growth in Kenya: An empirical
assessment (No. 2001/116). WIDER Discussion Papers//World Institute for
Development Economics (UNU-WIDER).
WB, 2013. CPIA debt policy rating, truy cập tại <
http://data.worldbank.org/indicator/IQ.CPA.DEBT.XQ?end=2015&locations=V
N&start=2013>, [ truy cập ngày 10/9/2016].
WB, 2013. International Debt Statistics 2013, truy cập tại <
https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/12226>, [ truy cập ngày
10/9/2016].
WB, 2014. Truy cập tại <http://siteresources.worldbank.org/
INTDEBTDEPT/DataAndStatistics/20263218/HIPC-Fact-Sheet-web.pdf>, [ truy
cập ngày 10/10/2017].
WB, 2014. International Debt Statistics 2014, truy cập tại <
https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/17048/978146480
0511.pdf>, [ truy cập ngày 10/9/2016].
WB, 2017. International Debt Statistics 2017, truy cập tại <
https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/25697/978146480
9941.pdf>, [ truy cập ngày 10/9/2017].
WB, 2017. Gross fixed capital formation (% GDP) , truy cập tại <
https://data.worldbank.org/indicator/NE.GDI.FTOT.ZS>, [ truy cập ngày
10/9/2017].
WB, 2018. International Debt Statistics 2018, truy cập tại <
http://databank.worldbank.org/data/download/site-content/IDS-2018.pdf>, [ truy
cập ngày 22/08/2018].
WB, 2018. Total reserves in months of import, truy cập tại <
https://data.worldbank.org/indicator/FI.RES.TOTL.MO?locations=VN>, [ truy
cập ngày 22/12/2018].