You are on page 1of 10

Khoa Quản trị - Luật

Lớp Quản trị - Luật 44B_Nhóm 1

BÀI TẬP CHƯƠNG 2: VIỆC LÀM, HỌC


NGHỀ
Bộ môn: LUẬT LAO ĐỘNG

Thành viên:

1 Nguyễn Thị Thanh Trà 1953401020239

2 Nguyễn Thị Đoan Trang 1953401020251

3 Trương Thị Thùy Trang 1953401020257

4 Nguyễn Minh Triều 1953401020260

5 Thống Thanh Tuấn 1953401020274

6 Châu Phương Uyên 1953401020279


TÌNH HUỐNG 1

Ngày 04/11/2013, chị Đỗ Thị vào làm việc tại Công ty H. Theo hợp đồng lao
động chưa có thời hạn 01 năm. Từ ngày 10/5/2014 đến 02/8/2014, chị Đỗ Thị được
công ty H đưa đi đào tạo nghề tại Trung tâm kiếm nghiệm chất lượng gang thép
Vũ Hán, Trung Quốc. Trước khi đi đào tạo, ngày 31/3/2014, chị Đỗ Thị đã ký vào
“Bản cam kết” với nội dung sau khi kết thúc khóa đào tạo chị Đỗ Thị sẽ làm việc
cho công ty H trong thời hạn 03 năm kể từ ngày 31/3/2014, nếu không làm việc đủ
thời hạn này thì chị Đỗ Thị phải hoàn trả toàn bộ chi phí đào tạo cho Công ty. Sau
khi được đào tạo nghề, chị Đỗ Thị tiếp tục làm việc tại Công ty H đến ngày
11/8/2015 thì chị Đỗ Thị xin nghỉ việc và được Công ty đồng ý. Trước khi nghỉ
việc, chị Đỗ Thị và Công ty H đã ký kết “Giấy cam kết phân kỳ hoàn trả chi phí
đào tạo do vi phạm cam kết đào tạo”, theo đó chị Đỗ Thị phải hoàn trả cho Công
ty H chi phí đào tạo (sau khi đã khấu trừ thời gian chị Đỗ Thị làm việc cho công
ty) với số tiền là 209.997.076 đồng, trong đó có khoản học phí là 117.137.885 đồng.
Sau khi hoàn trả cho Công ty H được 3 đợt, chị Đỗ Thị dừng việc hoàn trả với lý
do không chấp nhận khoản học phí như công ty H đã yêu cầu. Công ty H khởi
kiện yêu cầu chị Đỗ Thị phải hoàn trả cho Công ty toàn bộ số tiền chi phí đào tạo
nghề.

Hỏi: Chị Đỗ Thị có phải hoàn trả toàn bộ số chi phí đào tạo nghề theo yêu
cầu của Công ty H không? Vì sao?

2 vấn đề: hình thức hợp đồng đào tạo nghề, nghỉ việc về bất kỳ lý do gì thì
cũng phải hoàn trả, khoản chi phí

Bản cam kết: chị Đỗ Thị đã ký bản cam kết vs công ty H, bản cam kết này là hai
bên tự nguyện ký và không vi phạm pháp luật nên nó có tính ràng buộc rất cao. Hơn
nữa bản cam kết có đầy đủ điều kiện của hợp đồng đào tạo nghề theo khoản 2 Điều 62
BLLĐ. Tuy bản cam kết này có tên gọi khác hợp đồng đào tạo nghề nhưng về bản chất
thì nó là hợp đồng đào tạo nghề nên nó có giá trị pháp lý ngang nhau.

Chị Đỗ Thị xin nghỉ việc và được Công ty đồng ý, đây được xem là sự thỏa thuận
của người lao động và người sử dụng lao động nên việc chấm dứt hợp đồng lao động
này là đúng pháp luật. (Căn cứ theo khoản 3 Điều 34 BLLĐ 2019).

117.137.885 đồng: công ty phải chứng minh khoản này để đòi khoản này.

Hợp đồng đào tạo nghề là sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên. Do đó, một khi đã
thỏa thuận đúng pháp luật thì phải thực hiện. Tuy hợp đồng đào tạo nghề được phát
sinh trên cơ sở hợp đồng lao động nhưng hai hợp đồng không hề mâu thuẫn, triệt tiêu
nhau. Do đó, hợp đồng lao động chấm dứt không làm mất hiệu lực của hợp đồng đào
tạo nghề. Chị Đỗ Thị chấm dứt hợp đồng lao động là đúng pháp luật nhưng trong hợp
đồng đào tạo nghề có thỏa thuận về trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo nên chị Đỗ
Thị phải hoàn trả chi phí đào tạo, cụ thể chị Đỗ Thị phải trả toàn bộ số tiền
209.997.076 đồng (sau khi đã khấu trừ chị này làm việc trong công ty).Căn cứ khoản 2,
3 Điều 62 của BLLĐ 2019.
TÌNH HUỐNG 2

Ngày 08/02/2017, Công ty L. đã ký với anh Văn hợp đồng lao động số
VH000315/2017 xác định thời hạn 01 năm (kể từ ngày 08/02/2017 đến ngày
07/02/2018), với vị trí kỹ thuật viên sản xuất Cell tại L.Display.

Để anh Văn nắm bắt được chuyên môn và gắn bó với lâu dài với L. Display;
ngày 25/02/2017, Công ty L. đã ký với anh Văn hợp đồng đào tạo số
VH000315/2017ĐT, với nội dung: Công ty L. tổ chức để anh Văn sang thành phố
Gumi Hàn Quốc học khóa đào tạo kỹ thuật trong thời hạn 47 ngày. Công ty L. lo
thủ tục và chịu trách nhiệm chi trả mọi chi phí cho anh Văn tham gia khóa học (bao
gồm: Chi phí tổ chức khóa học; vé máy bay; phụ cấp lưu trú, công tác phí; chi phí
đi lại; lệ phí vi sa, hộ chiếu..; tiền thuê khách sạn, nhà nghỉ; tiền lương, tiền đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian đào tạo). Anh Văn có nghĩa vụ phải
tham gia đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của khóa đào tạo; tự
thanh toán mọi chi tiêu cá nhân ngoài các khoản mà Công ty L. đã hỗ trợ như trên.
Anh Văn có trách nhiệm hoàn trả cho Công ty L. chi phí đào tạo khi không hoàn
thành khóa đào tạo vì bất kỳ lý do nào hoặc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao
động trong thời gian đào tạo, không đảm bảo thời gian làm việc cho Công ty L. như
cam kết…

Để đảm bảo cho các Hợp đồng lao động và Hợp đồng đào tạo nêu trên; ngày
01/3/2017, ông Hoàng là bố đẻ của anh Văn đã ký với Công ty L. cam kết bảo lãnh
của gia đình cho anh Văn. Trong đó, ông Hoàng cam kết:

- Anh Văn sẽ thực hiện đầy đủ nội dung của hợp đồng đào tạo và chính sách
của Công ty L. liên quan đến đào tạo; cam kết hoàn trả chi phí đào tạo và chi phí
bồi thường cho Công ty L. thay cho anh Văn trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo của Công ty L. về việc anh Văn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
hoàn trả chi phí đào tạo và chi phí bồi thường liên quan theo hợp đồng đào tạo -
Trả một khoản tiền phạt tương đương 195.144.999đ cho Công ty L. trong trường
hợp anh Văn trốn ở lại nước ngoài trong và sau thời gian đào tạo; số tiền phạt nêu
trên sẽ trả cho Công ty L. trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được thông báo
về việc anh Văn trốn ở lại nước ngoài.

Thực hiện Hợp đồng Đào tạo số VH000315/2017-ĐT nói trên, Công ty L. đã
lo mọi thủ tục để anh Văn được cấp thị thực nhập cảnh vào Hàn Quốc trong thời
hạn 02 tháng. Ngày 13/3/2017, Công ty L. đã tổ chức đưa đoàn người lao động
Việt nam sang Hàn Quốc để theo học khóa đào tạo. Anh Văn đã nhập cảnh vào
Hàn Quốc qua cửa khẩu sân bay quốc tế Incheon. Vào hồi 19h30 ngày 13/3/2017,
khi tới sân bay Incheon, anh Văn đã tách khỏi đoàn và không trở lại. Hiện tại,
anh Văn đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Mặc dù đã được nhiều đồng
nghiệp công tác tại Công ty L. khuyên nhủ nhưng anh Văn đã trao đổi và nhắn tin
cho họ cũng như gia đình là không trở lại theo học khóa đào tạo do Công ty L. tổ
chức.

Dự trù chi phí cho anh Văn theo khóa học bao gồm: Chi phí làm hộ chiếu
200.000đ, chi phí cấp thị thực là 450.000đ, vé máy bay là 12.375.000đ, tiền ký túc
xá là 16.638.783đ, chi phí đi lại bằng xe bus là 1.691.924đ, chi phí ăn uống là
11.253.868đ, chi phí giảng viên là 105.486.852đ, phòng đà tạo là 489.694đ, tiền tài
liệu là 772.400đ, tiền công tác phí là 35.392.500đ, tiền lương là 8.519.645đ, tiền
đóng bảo hiểm là 1.874. 324đ; tổng cộng là 195.144.999đ.

Thực tế, Công ty L. đã chi để anh Văn theo học khóa học nghiệp vụ tại Hàn
Quốc gồm các khoản: Chi phí tại Việt Nam gồm: Chi phí cấp visa là 450.000đ,
tiền vé máy bay là 14.440.932đ, tiền tạm ứng công tác phí mà anh K đã nhận là
17.707.500đ; tổng cộng là 32.598.432đ.
Chi tại Hàn Quốc cho 21 người theo khóa học là 2.787.829.113đ; bình quân
chi phí cho mỗi người là 132.753.767đ (trong đó chi phí cho 21 người tiền ký túc
xá là 349.414.450đ, tiền thuê xe bus để đi lại là 35.530.400đ, chi phí giảng viên là
2.378.026.500đ, tiền phòng đào tạo là 8.637.363đ, tiền tài liệu là 16.220.400đ).

Tổng cộng các khoản mà Công ty L đã chi để anh Văn theo học các khóa học
chuyên môn tại Hàn Quốc là 165.352.199đ.

Công ty L. yêu cầu anh Văn phải trả 100% chi phí đào tạo là 165.352.199đ;
trong trường hợp anh Văn không trả được thì ông Hoàng và bà Phạm phải trả
thay số tiền trên. Ông Hoàng và bà Phạm phải trả khoản tiền phạt là
195.144.999đ. Kể từ ngày 28/4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm, anh Văn phải trả lãi
của số tiền chi phí đào tạo theo mức lãi suất 20%/năm.

Ông Hoàng và bà Phạm đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ
án, nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; nhưng ông Hoàng và bà
Phạm đều không giao nộp chứng cứ và đều không có mặt theo triệu tập của Tòa
án.

Hỏi:

1. Thỏa thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên đây đúng hay trái
pháp luật? Vì sao?
Phạt vi phạm vượt quá phạm vi bảo lãnh => ko hợp pháp
Thỏa thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên đây là đúng pháp luật.
Về thỏa thuận bảo lãnh:
Thứ nhất, giữa anh Văn và Công ty L. đã ký với nhau Hợp đồng lao động và Hợp
đồng đào tạo nghề (trong đó mọi chi phí đều do Công ty L chi trả ngoại trừ chi tiêu cá
nhân).
Thứ hai, ông Hoàng và bà Phạm đã ký cam kết bảo lãnh để đảm bảo cho các Hợp
đồng lao động và Hợp đồng đào tạo của anh Văn. Tuy nhiên anh Văn đã trốn không
thực hiện việc đào tạo nghề theo như hợp đồng đã ký. Như vậy anh Văn đã đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động và hợp đồng đào tạo trái pháp luật.
Và nếu anh Văn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hoàn trả chi phí đào tạo và chi
phí bồi thường liên quan thì ông Hoàng bà Phạm phải thay anh Văn trả số tiền trên
(Điều 342 BLDS 2015). Do đó việc ông Hoàng bà Phạm cam kết bảo lãnh nghĩa vụ
hoàn trả lại chi phí đào tạo cho anh Văn khi anh Văn không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả
cho công ty là phù hợp và được pháp luật cho phép theo Điều 335 BLDS 2015.
Về thỏa thuận phạt vi phạm: Hiện nay, theo BLLĐ 2019 không có quy định nào
hạn chế hoặc ngăn cấm các bên thỏa thuận về mức phạt vi phạm trong hợp đồng đào
tạo nghề. Như vậy, miễn là thỏa thuận đó không trái pháp luật và đồng thời căn cứ theo
Điều 418 BLDS 2015 về “Thỏa thuận phạt vi phạm” thì thỏa thuận cam kết ông Hoàng
bà Phạm sẽ trả một khoản tiền phạt trong trường hợp anh Văn trốn ở lại nước ngoài
trong và sau thời gian đào tạo là hợp lý, không trái pháp luật.

2. Xác định các trường hợp người học nghề, người lao động phải chịu phải
chịu trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo ?

Đối với người lao động:

Theo quy định tại Điều 62 BLLĐ 2019 thì NLĐ và NSDLĐ phải ký kết hợp đồng
đào tạo nghề trong trường hợp NLĐ được đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao
động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.. Trong hợp đồng
đào tạo nghề phải có nội dung về thời gian NLĐ cam kết phải làm việc cho NSDLĐ
sau khi được đào tạo, chi phí đào tạo và trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo của NLĐ

Nhưng thực tế thì lại khác, việc hoàn trả chi phí đào tạo nghề của NLĐ có thể xảy
ra các trường hợp sau đây:
- Trường hợp thứ nhất: NSDLĐ và NLĐ có ký kết hợp đồng đào tạo nghề theo
Điều 62 BLLĐ 2019 và trong hợp đồng có điều khoản về trách nhiệm hoàn trả chi phí
đào tạo và các khoản bồi thường khác (nếu có) khi NLĐ vi phạm cam kết về thời gian
làm việc cho doanh nghiệp. Như vậy, nếu NLĐ không thực hiện đúng theo các cam
kết, thỏa thuận trong hợp đồng đào tạo nghề thì NLĐ sẽ phải hoàn trả chi phí đào tạo
và các khoản bồi thường khác (nếu có) cho NSDLĐ, kể cả khi NLĐ chấm dứt hợp
đồng lao động hay đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật.

- Trường hợp thứ hai: Nếu NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật thì NLĐ phải hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ theo quy định tại khoản 3
Điều 40 BLLĐ 2019, kể cả trong trường hợp giữa NSDLĐ và NLĐ không ký hợp
đồng đào tạo nghề, hoặc có ký hợp đồng đào tạo nghề nhưng trong hợp đồng không
quy định về về thời gian NLĐ cam kết làm việc cho doanh nghiệp sau khi được đào
tạo, chi phí đào tạo và trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ.

Đối với người học nghề: Theo Khoản 2 Điều 61 Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014,
người tốt nghiệp các khóa đào tạo do người sử dụng lao động cấp chi phí đào tạo phải
làm việc cho họ theo thời hạn đã cam kết trong hợp đồng đào tạo, nếu không thực hiện
đúng cam kết thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo. Như vậy, người học nghề
hoặc NLĐ thỏa thuận theo Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 sẽ phải bồi thường chi phí
đào tạo theo cam kết mặc dù chấm dứt HĐLĐ đúng pháp luật.

Giả sử anh Văn hoàn thành khóa đào tạo và sau khi đã làm việc được 35%
tổng thời gian cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo thì anh Văn chấm dứt hợp
đồng lao động đúng pháp luật. Vậy, anh Văn phải chịu trách nhiệm hoàn trả chi
phí đào tạo như thế nào?

Hoàn trả toàn bộ theo 100% điều 62 theo tinh thần của pháp luật.

Quan điểm nhóm em cho rằng không nên để anh Văn hoàn trả 100% chi phí đào
tạo theo tại Điều 62 BLLĐ 2019 mà nên hoàn trả chi phí đào tạo theo phần trăm chưa
hoàn thành như thời gian đã cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo. Như vậy sẽ đảm
bảo quyền lợi cho Văn cũng như quyền lợi cho Công ty.

Xét trường hợp sau khi ký hợp đồng đào tạo nghề mà anh Văn đã không thực
hiện nghĩa vụ theo như thỏa thuận ngay từ đầu thì anh Văn phải hoàn trả 100% chi phí
đào tạo nghề là hợp lý và nhằm mang tính răn đe cao. Tuy nhiên trong trường hợp này
anh Văn đã hoàn thành được khóa đào tạo và làm được 35% tổng thời gian cam kết
theo hợp đồng đào tạo, về cơ bản anh Văn đã đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo thỏa
thuận, nhưng vì lí do chính đáng mà anh Văn chấm dứt hợp đồng lao động (Điều 34
BLLĐ 2019, đúng pháp luật) sớm hơn so với thỏa thuận trong hợp đồng đào tạo nên
nếu bắt anh Văn phải hoàn trả 100% chi phí đào tạo là không hợp lý cũng như không
đảm bảo được quyền lợi cho anh Văn. Vậy nên sẽ cân bằng hơn cho lợi ích giữa các
bên khi trách nhiệm hoàn trả chi phí bằng là 165.352.199 x 65% = 107.478.929,4đ (đã
khấu trừ thời gian làm việc).

You might also like