You are on page 1of 12

PHÂN TÍCH “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”.

“Không triền miên sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không ấp ủ nhiều giấc mộng chinh phu như Thế
Lữ hay những hoài vọng xa xăm như Huy Thông, hồn thơ của Hàn Mặc Tử là một hồn thơ khao
khát sống đến mãnh liệt và đau đớn tột cùng.” Hàn đến với thi đàn bằng những bài thơ mang
khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng chính nó cũng là hình chiếu
ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời của ông. Bởi lẽ cuộc đời của Hàn đã nổi
giông bão quá nhiều, đến nỗi ông trải nghiệm đau thương dường như bằng cả tâm hồn lẫn thể
xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng cả mơ lẫn thực. Thơ Hàn được phóng xuất ra từ nỗi đau, nỗi
trăn trở và khát vọng sống dạt dào. Không như Xuân Diệu hồ hởi với cuộc sống vì ham sống với
sự tận hưởng và tận hiến, Hàn lúc nào cũng chìm trong trạng thái lâm lụy bởi tiếng kêu gào
thống thiết từ trong cốt tủy, rằng mỗi ngày Hàn sống là một ngày Hàn chết. Từ trong nỗi cô đơn
và thống khổ như thế, Hàn đã viết, viết để tha thiết hơn, viết để biết rằng mình còn sống, và
viết để mong muốn mình được sống. Qua “Đây thôn Vĩ Dạ”, ông đã thể hiện rõ mộng ước của
mình, đó là khát vọng được quay về “đường xưa lối cũ”, được một lần sống với tình yêu của
mình, và có lẽ là cả tình yêu của đời.

Huế được xem như là quê hương thứ hai của Hàn Mặc Tử, ông yêu Huế như cách những người
con sinh ra từ xứ sở thơ mộng này yêu nó. Với Hàn Mặc Tử, Huế là nhà, Vĩ Dạ là nhà. Hơn cả, ở
chốn thôn quê này, có hình bóng người ông yêu - người ông tâm niệm được tái ngộ, với ông, Vĩ
Dạ hay Huế đều dường như đã trở thành ẩn ức, trở thành một phần máu thịt mà ông mang
nặng suốt cả cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà “Đây thôn Vĩ Dạ” đã trở thành tuyệt bút thi ca trong sự
nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, trở thành nét chấm phá để hậu thế mãi không bao giờ quên
có một người thi sĩ đã yêu chân thành và dang dở đến thế, đã rút hồn cốt của mình để yêu Vĩ
Dạ và yêu cả người thương nhiều đến thế.

Có lẽ để lại ấn tượng nhiều nhất cho bạn đọc sau khi gấp lại thi phẩm này là cái tôi mặc cảm
nhưng cũng đầy hoài nghi và khao khát thể hiện qua khổ thơ thứ hai và thứ ba của “Đây thôn Vĩ
Dạ”.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”.

Hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ hai đã nói tới một thực tại đầy phiêu tán. Nhịp thơ 4/3 đã
miêu tả sự chia lìa, tan tác. “Gió” và “mây” bỗng bị đẩy về hai đầu của câu thơ, gợi lên sự xa
cách vời vợi, mà theo chiều hướng, xu thế chuyển động thì càng lúc càng xa, khoảng cách giữa
“gió” và “mây” dường như đã không còn cân đong đo đếm được. Từ cặp hình ảnh sóng đôi,
“gió” và “mây” đã trở thành hai hình ảnh đơn lẻ, xa cách nhau. Mỗi vật một đường, mỗi người
một ngả. Tưởng chừng ở gần nhau, ở cạnh nhau nhưng thực ra là đã ly khai, vĩnh biệt, mãi mãi
không về chung một mối. Sự chia xa ấy cũng từng xuất hiện trong thơ của Thế Lữ:

“Em đường em tôi đường tôi

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi”.

hay trong thơ của Huy Cận:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”.

Mượn hình ảnh gió - mây, Hàn Mặc Tử dường như muốn biểu đạt tâm trạng đầy đau khổ của
mình. Với một kẻ đứng trước cửa tử như ông, sự xa cách đối với người yêu đã trở thành án
tuyên lớn nhất, ông sợ hãi việc phải chết đi, nhưng điều khiến ông đau đớn hơn đấy là việc chết
đi trong cô độc. Vậy là ông và người mình yêu đã vĩnh viễn ly biệt. Một ngày sống với ông vậy là
lại thêm một ngày dằn vặt, một ngày tự trách, một ngày u oải, cố gắng đi tìm những mảnh kí ức
điêu tàn trong tâm thức của mình. Ở một chốn đầy tử khí như trại phong Tuy Hòa, Hàn Mặc Tử
lại càng chiêm nghiệm sâu sắc hơn sự cô đơn, tách biệt với cuộc sống xung quanh. Giống như
một kẻ tử tù đang chờ ngày tiến ra pháp trường, hay một kẻ lang thang giữa hai miền sống
chết, Hàn Mặc Tử dường như đã không còn hi vọng, nên ông nhìn đâu cũng thấy sự chia lìa,
thậm chí còn nhìn thấy sự chia lìa trong những thứ không thể chia lìa như “mây” và “gió”. Ở câu
thơ thứ hai của khổ hai, ông viết “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Nỗi đau buồn của Hàn
Mặc Tử dường như nhuốm cả không thời gian, dòng sông giờ cũng mang một gương mặt ủ ê,
“buồn thiu” không một gợn sóng. Tâm trạng của ông đã khiến dòng sông kia trở thành một
dòng sông tâm trạng với nhiều những xúc cảm khác nhau. Ở dòng sông xanh ấy, xuất hiện một
hình ảnh “hoa bắp lay” đầy ý vị. Chữ “lay” nếu bình thường thì chỉ là một động từ không buồn
cũng chẳng vui, nhưng khi đặt vào câu thơ Hàn viết, nó dường như mang một màu sắc hiu hắt
và đầy cô liêu, khiến cho bức tranh thiên nhiên thêm phần trống trải, cũng như càng khiến cho
tâm trạng của chủ thể trữ trình phảng phất sự u buồn, nét cô đơn của người mang án tử “treo”
trên mình.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”.

Hình ảnh thuyền và sông đều là những thi liệu quen thuộc trong thơ ca Việt Nam nói chung và
thơ Hàn nói riêng. Biểu tượng này đã theo ông từ lúc bắt đầu làm thơ cho đến ngày cuối đời:

“Trăng đang nằm trên sóng cỏ


Có đùa trăng đến bên ao

Trăng lại đẫm mình xuống nước

Trăng nước đều lặng nhìn nhau.”

(Bắt chước)

Tưởng như câu thơ của Hàn Mặc Tử không có gì đặc biệt, tuy nhiên trong hai câu thơ này lại hội
tụ nhiều điểm sáng tạo độc đáo. Ông ghép “trăng” với “sông”, dùng “trăng” như một vật để
“chở”. Sự liên tưởng phong phú của ông đã tạo ra những hình ảnh xen giữa đôi bờ hư - thực.
Không biết dòng nước đang hóa mình thành dòng trăng hay ánh trăng đang vỡ tan rồi hòa vào
nước, chỉ biết rằng dòng sông lúc ấy đã trở thành một dòng ánh sáng tự bao giờ, bến sông nay
đã trở thành “bến sông trăng” và con thuyền cũng chở đầy trăng rực rỡ. Toàn bộ hy vọng của
Hàn đã đặt cả vào con thuyền chở trăng, và con thuyền ấy dường như không chỉ chuyên chở
niềm tin và hy vọng của ông, mà còn là sự lo âu, bất lực trước thực tại. Sức nặng của khổ hai đã
rơi vào một chữ “kịp” thật giản dị và khiêm nhường. Nhãn tự của bài thơ xuất hiện với một vị trí
không bóng bẩy, không cầu kỳ nhưng vẫn giữ nguyên được hàm ý sâu sắc. Chữ “kịp” ấy dường
như đã chứa đựng hết tất cả những nỗi ám ảnh về thời gian mà Hàn phải gánh chịu, chứa đựng
cả nỗi đau và giọt nước mắt Hàn đánh rơi trên trang giấy. Dường như kẻ tử tù này đã chờ trăng
từ rất lâu, và hắn có thể thức nhận được rằng mình không còn nhiều thời gian để chờ được
nữa. Bởi vì bất kì lúc nào hắn cũng có thể sẽ phải rời đi, đứt lìa ra khỏi đời sống, ngay cả khi
chưa kịp tận hưởng vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của cuộc đời. Qua đó Hàn Mặc Tử muốn cho
bạn đọc thấy được tâm thế sống của mình, đấy là phải sống chạy đua với thời gian, tranh thủ
không đánh rơi một khắc quý giá nào trong quỹ thời gian của mình xuống những điều vô ích,
bởi vì thời gian đang vơi đi từng chút một, và điều đó cũng có nghĩa là cái chết lại thêm gần kề.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Tiếp nối mạch thơ, khổ cuối thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh
mông, bao la của đất trời. Đó là sự chờ đợi, mong mỏi khôn nguôi và một niềm khắc khoải tràn
đầy của người nghệ sĩ. Câu thơ đầu của khổ cuối chính là bản lề khép lại cõi thực, để mở ra một
cõi mộng xa xăm. Từ những vần điệu có ý thức cho đến những hình ảnh vô thức, nỗi nhớ của
Hàn Mặc Tử dường như theo ông xuyên suốt từ cõi thực đến cõi ảo. Người ta nói rằng khi
chúng ta chìm vào giấc ngủ và mơ thì những gì xảy ra trong giấc mơ là những gì chân thực nhất,
là những ẩn ức giấu kín trong bản thể của mỗi con người. Vậy hình ảnh “khách đường xa” là ai?
Đấy có thể là người Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ, khách đường xa ấy vậy mà lại chỉ có
thể xuất hiện trong giấc mơ, không thể trở thành hiện thực. Người khách đó cứ xa dần, xa mãi
rồi chói lòa trong tâm trí của tác giả. Rồi đến khi “Áo em trắng quá nhìn không ra”, thì Hàn Mặc
Tử đã lần nữa cực tả sắc trắng của áo em đến tột độ, đó là gam màu trắng đến mức không
thực, đến hư ảo, đến nao lòng và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt hay với tới. Và hình
như, giai nhân áo trắng với thi nhân có khoảng cách nên khiến thi nhân không khỏi nghĩ ngợi,
suy tư:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”.

“Ở đây” là cái cách biệt với bên ngoài, cách biệt với xã hội xung quanh. Đó chính là không gian
ảo mộng trong mơ, là không gian đầy đau thương và tuyệt vọng của Hàn. Không gian này khiến
ta càng thấy rõ hơn con người này đang ở giữa hai ranh giới sống và chết, và thế giới nào cũng
lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh,
lão, bệnh, tử”. Trong làn sương khói ấy, con người bị làm nhòa đi, có lẽ Hàn sợ rằng trong
không gian ấy không chỉ con người đang bị làm mờ nhạt, mà tình người cũng thế cho nên tác
giả không dám khẳng định tình mình với người thương xứ Huế mà chỉ dám dùng đại từ phiếm
chỉ “ai”. Ta có thể thấy rằng, điệp từ “ai” đã xuyên suốt “Đây thôn Vĩ Dạ”, ở khổ nào cũng có sự
xuất hiện của nó. Nếu khổ một là “vườn ai”, khổ hai là “thuyền ai” thì khổ ba là “Ai biết tình ai
có đậm đà?”. “Ai” trong câu thơ cuối rốt cuộc là chỉ đối tượng nào? Nếu như xét từ mạch của
bài thơ, ta có thể thấy rằng “ai” thứ nhất là Hàn Mặc Tử, “ai” thứ hai chính là Hoàng Cúc, câu
thơ viết ra như muốn nói rằng “Em biết tình anh có đậm đà?”. Âm điệu của câu thơ ngân xa
như một tiếng than, nỗi đau của Hàn dường như đang trải ra đến mênh mông vô cùng. Dường
như Hàn đang lâm vào tình thế tuyệt vọng, nói đúng hơn là sự thất vọng. Bởi vì thi nhân dù có
cố gắng đến mấy cũng không thể “khuấy” tình thành một mối, dù có một trái tim tràn đầy khao
khát yêu thương nhưng đến cuối vẫn không có được tình yêu trọn vẹn.

Có ai đó đã nói rằng “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử xuất hiện giữa làng thơ
Việt Nam như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời để lại cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình.” Có
gì đó ở một kẻ sống dưới lưỡi hái của tử thần khiến ta phải ngưỡng vọng. Phải yêu thôn Vĩ, yêu
người thương lắm thì những nét bút viết ra mới có hồn như vậy, mới thành công tái hiện - dựng
cảnh tuyệt vời đến như vậy. Cho đến cuối cùng, thôn Vĩ và Hoàng Cúc vẫn sống trong tiềm thức
của Hàn Mặc Tử cho đến ngày ông lìa xa nhân thế. Tuy “Đây thôn Vĩ Dạ” có một màu thơ đượm
buồn, nhưng qua đó bạn đọc không chỉ nhìn thấy sự phiêu tán, chia lìa mà còn thấy được
những khao khát và hoài nghi của một đời kẻ sĩ. Đấy là ước vọng được sống mãnh liệt đến khôn
cùng, đến chao đảo cả trời đất.

---------------//----------------
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng
khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả
hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để
viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây
tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình
riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man
mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền
ảo và cụ thể hoà vào nhau.

Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu
thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng
vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương
diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một
bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau
tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn
mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau
nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới
những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả
non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng
bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào
những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được
dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc


Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Đến câu
thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng
xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng
của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.
Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng
không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của
vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như
cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm
bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta
bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được
những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm
thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp
thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn
mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu
hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo
nhưưong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi
theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của
nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ
thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn
biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy
giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u
uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như
màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng
sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa
vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt
nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp
người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng
mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với
cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh
sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi
lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá
thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một
tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng
trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những
câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng
trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn
Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao,
kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn
lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu
thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến
đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của
mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng
không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang
thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng
của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý
của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân
không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi
và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm
trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi
họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ
nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất
vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn.
Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên
kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và
kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu
tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với
lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc
“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa để mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa thu”
(Chế Lan Viên)
Tâm hồn người thi sĩ lúc nào cũng xôn xao cũng đa cảm như tiếng lá lao xao của mùa thu vậy, luôn
nặng trĩu tâm sự và cảm xúc ,có như vậy bài thơ mới mang sức gợi biểu đạt được những tâm tư tình
cảm sâu kín mà thi sĩ khó có thể nói thành lời . Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét về thơ
rằng: “thơ không cần nhiều từ ngữ nó cũng không quan tâm đến hình xác của sự sống nó cũng chỉ
cần cảm nhận và truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ”.Điều này được
thể hiện rõ nét qua bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử một bài thơ rất giàu hình ảnh và giàu
cảm xúc.
Huy Trực từng nói thơ là rượu của thế gian, thơ có thể khiến con người ta say mê ngây ngất, thơ có
sức quyến rũ lớn như vậy nhưng Thơ không cần nhiều từ ngữ. Bởi vì thơ luôn ngắn gọn xúc tích
nhưng lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và giàu lòng trắc ẩn, thơ không quan tâm đến hình xác của
sự sống, tức là thơ không miêu tả chi tiết cặn kẽ cụ thể của sự việc mà thơ chỉ cần cảm nhận và
truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ, nghĩa là thơ phải được viết nên từ
cảm xúc chân thực về những rung động trái tim, những giao cảm tâm hồn của người nghệ sĩ với vạn
vật “thơ chính là tâm hồn” (M.Gorki). Vì thế trong sáng tác thơ ca người nghệ sĩ không chú trọng
vào miêu tả chi tiết từng chút một mà chỉ cốt làm sao nắm được cái hồn, cái cốt của sự vật thông qua
từ ngữ hình ảnh, vần nhịp của bài thơ.
Ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh muốn đề cập đến đặc trưng của thơ ca và sứ mệnh của nhà
thơ trong việc truyền tải cảm hứng đến người đọc qua tác phẩm của mình.
“Thơ là thơ, đồng thời là họa là, nhạc” (Sóng Hồng) vì vậy mà thơ luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đến
mọi người. Thơ ngắn gọn súc tích nhưng qua mỗi câu chữ lại toát lên rất nhiều điều mà không thể
hiện ra bên, ngoài ẩn ý đó buộc người đọc phải suy nghĩ cảm nhận những tâm tư của tác giả trong
hoàn cảnh sáng tác bài thơ, tưởng tượng ra khung cảnh mà nhà thơ gây dựng lên qua câu, chữ, từ đó
hút lấy cái thần thái, cái hồn của sự vật, cái hồn của sự vật đó phải được vẽ lên từ cái hồn và tài năng
của thi sĩ. Nhà thơ phải là người có trái tim sống, từ đó nhà thơ mới cảm nhận được từng chút mơn
trớn, man mác trong sự vật xung quanh, từ đó nhà thơ nắm bắt lấy cái hồn của sự vật và dùng tài
năng của mình giúp người đọc cũng có những rung cảm sâu sắc với cuộc đời, với mọi điều xung
quanh như mình đã từng. Âm nhạc sử dụng giai điệu tiết tấu hội họa dùng đường nét màu sắc còn thơ
ca muốn toát lên được cái hồn nơi sự vật cần phải có ngôn ngữ giàu sức gợi hình ảnh đặc sắc gây
nhiều liên tưởng và người thưởng thức thơ ca phải cảm nhận được nét đặc trưng cái ý vị của thơ Đây
thôn Vĩ Dạ là một bài thơ giàu sức gợi và tạo nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng khởi đầu cho dòng lãng mạn Việt Nam, là người khởi xướng ra
trường thơ loạn. Mặc dù là người có tài năng và tình yêu cuộc sống sâu sắc nhưng Hàn Mặc Tử đã
không có cơ hội tận hưởng hết tuổi trẻ tươi đẹp của mình khi mới 23 tuổi, cái tuổi còn rất say mê với
đời đang tràn đầy sức sống thì Hàn Mặc Tử mắc căn bệnh hiểm nghèo mà bấy giờ không có thuốc
chữa. Sau 5 năm vật lộn trong đau đớn với bệnh tật ông đã ra đi trong khi sự nghiệp văn học còn
dang dở, cuộc đời còn lưng chừng, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được viết khi tác giả đang nằm trên
giường bệnh chống chọi với sự giằng xé về cả tâm hồn lẫn thể xác. Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ hay,
giàu hình ảnh, giàu liên tưởng và chứa đựng những suy tư của tác giả.
Leonardo Devinci từng nói thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm, qua ngôn ngữ hình ảnh
và cách diễn đạt nhà thơ vẽ lên trước mắt người đọc những điều đẹp đẽ giúp họ tưởng tượng một
cách dễ dàng về phong cảnh sự việc và con người. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đã
giúp người đọc được thưởng thức bức tranh Thôn Vĩ Dạ vào buổi bình minh thật là đẹp, Hàn Mặc Tử
không viết là “nắng sớm mai”, “nắng bình minh” cũng không có một từ ngữ nào thông báo về thời
gian là buổi sáng cho mọi người nhưng chúng ta vẫn hiểu được điều đó.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, “nắng mới lên” những ánh nắng xuất hiện đầu tiên của ngày
mới câu thơ với việc từ nắng gợi trong mắt người đọc một không gian ngập tràn ánh sáng, thiên
nhiên, cảnh vật hiện lên rõ nét, sống động mà đập vào mắt người ta đầu tiên là vẻ đẹp của những thân
cây cau cao thẳng kiêu hãnh đang tắm táp dưới ánh nắng mặt trời. Nhà thơ chọn hình ảnh những
hàng cau xanh bởi đó là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam, mang linh hồn Việt Nam.Chọn
hình ảnh hàng câu đưa vào trong thơ tác giả gợi cho người đọc sự yên bình, dân dã của thôn Vĩ lúc
bình minh.
Bên cạnh đó hình ảnh thôn Vĩ Dạ còn hiện lên ở vẻ đẹp của khu vườn đầy nhựa sống, nhà thơ đã phải
thốt lên trầm trồ rằng “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai là vườn của ai? điều này không xác
định người đọc chỉ có thể cảm nhận được vẻ đẹp của khu vườn ấy qua một từ “mướt quá”, quả thật
Thơ không cần nhiều từ ngữ người đọc dễ dàng tưởng tượng ra một khu vườn tươi tốt, tràn trề nhựa
sống. Khu vườn ấy mang một màu xanh “như ngọc” một màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không
chói chang mà rất dịu. Quá xanh nên ta cảm thấy trong câu thơ chỉ thấy chữ nhưng lại miêu tả đầy đủ
vẻ đẹp và sức sống của thiên nhiên, cảnh vật. Không dừng lại ở đó Hàn Mặc Tử đã đưa hình bóng
con người vào đoạn thơ nhưng lại đặc sắc ở chỗ nhà thơ tiếp tục không dùng một chữ người nào để
thông báo sự xuất hiện của con người, đồng thời nhà thơ khiến người đọc thắc mắc và hoang mang
bởi cụm từ “mặt chữ điền” trong câu thơ không chỉ gợi sự xuất hiện của con người mà còn mang ý
nghĩa nào đó nữa.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ gây cho người đọc rất nhiều sự liên tưởng, phong phú. “Lá trúc” mảnh mai, thanh tao còn
mặt chữ điền gợi sự vuông vắn đầy đặn, phúc hậu.Hàn Mặc Tử chỉ biết là “mặt chữ điền”, không nói,
không giải thích thêm đó là khuôn mặt của ai? khiến đã có nhiều tranh cãi về hình ảnh đặc sắc này.
Theo giáo sư Bùi Minh Đức mặt chữ điền là mặt của người phụ nữ miền Trung được xây dựng bằng
bút pháp cách điệu hóa, còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Thuận thì khuôn mặt chữ điền tả thực
do nhà thơ tự họa khuôn mặt mình khi trở về thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử vì mặc cảm bệnh tật chỉ dám
đứng sau khóm trúc lặng lẽ say xưa ngắm vẻ đẹp thần tiên của thôn Vĩ, chỉ qua bốn câu thơ tác giả đã
rất thành công khi mang đến cho người đọc nhiều liên tưởng. Bốn câu thơ đã vẽ lên cả một bức tranh
Thôn Vĩ Dạ rất đẹp, rất tươi sáng. Người đọc dễ dàng nắm lấy được cái hồn của sự vật và cảm nhận
được tình yêu quê hương, nỗi nhớ quê sâu sắc của Hàn Mặc Tử thể hiện qua việc miêu tả khung cảnh
thôn vĩ đẹp và thơ mộng đến như vậy.
Thi sĩ là người mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây là người lúc nào cũng chất chứa rất nhiều tâm sự,
họ gửi gắm những cảm xúc của mình vào thơ. Có những cảm xúc rõ ràng khiến chúng ta dễ dàng
nhìn thấu được, nhưng có những cảm xúc thật khó nói lên thành lời, cảm xúc đó đôi khi được hình
thành từ những cảm giác của nhà thơ trước thiên nhiên cảnh vật. Và nhà thơ lại dùng chính thiên
nhiên cảnh vật ấy để diễn tả cho tâm trạng của mình.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Câu thơ miêu tả cảnh vật quanh đôi bờ sông Hương nhưng đó lại là những sự vật không có một mối
quan hệ nào đến nhau, cái cần liên quan đến nhau thì nhà thơ lại khiến chúng xa rời nhau.
“Gió theo lối gió mây đường mây”
Người ta thường nói gió thổi mây trôi, nhưng ở đây mây và gió lại chia hai ngả, gió lối gió, mây
đường mây không liên quan đến nhau. Dòng nước sông Hương lững lờ trôi và những bông hoa khẽ
lay trong gió cảnh vật thật buồn thật ảm đạm, nhà thơ có lẽ cũng đang mang một nỗi buồn tâm cảnh
đúng như nhà thơ. Nguyễn Du từng nói “Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ”. Qua hai câu thơ
tác giả chỉ phắc họa vài nét mờ nhạt nhưng lại giúp cho người đọc nhìn thấu được cả một nỗi buồn
đang nặng trĩu trong lòng nhà thơ, dường như có những dự cảm và sự chia ly khi cảm nhận cảnh vật
không có sự gắn kết với nhau một bức tranh buồn hiu hắt mọi cử động đều rất khẽ, rất nhẹ tạo cảm
giác vắng lặng quạnh hiu từ cảm xúc buồn, cô đơn rất thực đó.Hàn Mặc Tử Đưa người đọc về cõi
mộng như một tuyệt tác kết tinh rực rỡ, bút phát tài hoa, lãng mạn của Hàn Mặc Tử.
“Thuyền ai đâu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Vẫn là dòng sông Hương, vẫn là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, không còn xanh mà trước
mắt người đọc là một không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông
trở thành trở thành dòng sông trăng và bến thì thành bến trăng. Người đọc tưởng tượng ra một dòng
sông trong vắt, in bóng xuống dòng sông là mặt trăng sáng dịu hiền và ánh trăng đang dát vàng lên
mọi cảnh vật chỉ qua từ sông trăng ta liên tưởng đến một khung cảnh hư hư, thực thực huyễn hoặc
như lạc vào cõi mộng. Cảnh tuy hư ảo nhưng cảm xúc trong nhà thơ lại rất sâu sắc và trỗi dậy một
cách mạnh mẽ.
“Thuyền ai đâu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
“Thuyền ai” là thuyền của ai? và tối nay là tối nào? tối nay phải chăng là giới hạn cuối cùng của cuộc
đời nhà thơ đang chạy đua với thời gian giành giật từng giây từng phút để được tận hưởng cuộc đời.
Câu thơ không gợi lên khung cảnh buồn bã, hiu hắt nhưng qua cái hư hư thực thực ấy tác giả bộc lộ
cảm xúc rất mãnh liệt về sự hoang mang sợ hãi câu hỏi tu từ vang lên thật cần thiết.
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hàn Mặc Tử ý thức được quãng đời còn lại của mình không còn dài thì thế ông đã rất lo lắng liệu
rằng con thuyền ấy có kịp cập đến trước khi mình trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Chỉ một câu
hỏi mà chứa chất báo tâm sự, nỗi niềm khắc khoải mong chờ hạnh phúc, khát khao giao cảm với đời,
khát vọng sống mãnh liệt khi cái chết cận kề của tác giả.Qua một đoạn thơ ngắn nhưng nhà thơ đã
khiến người đọc như trải lòng cùng mình, đi qua từng cung bậc cảm xúc giúp người đọc thấu hiểu
được tâm hồn và những tâm tư về cuộc đời mà tác giả muốn gửi gắm qua từng câu chữ.
“Thơ là tiếng lòng” (Diệp tiếp), thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó
không đơn giản mà cũng không thần bí thiêng liêng. thơ xuất phát từ tình cảm, từ những rung động
chân thực nhất của trái tim. Không được viết bằng cảm xúc, thơ chỉ còn là những con chữ đơn thuần
nằm thẳng đơ trên trang giấy. Ở khổ thơ cuối cùng của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ tác giả đã thể hiện
những cảm xúc của mình ở mức độ cao nhất của nỗi đau là sự tuyệt vọng.Dường như bởi vì cảm xúc
quá hỗn độn nên nhà thơ không còn thể hiện được điều gì rõ nét qua hình ảnh nữa mà tác giả vẽ nên
một bức tranh sương khói mờ, ảo như trong cõi mơ.
“Mở khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Nhịp thơ có sự thay đổi, cảnh giường như không phải ở Huế nữa.Từ “khách đường xa” được lặp lại
hai lần trong một câu thơ khiến câu thơ 7 chữ chỉ còn 1 chữ duy nhất không lập lại đó là “mơ”.Người
đọc mơ hồ, tưởng tượng khách đường xa mà tác giả nhắc đến có lẽ là cô gái Huế xuất hiện trong màu
áo trắng màu áo tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khôi và cũng như là màu trắng trong mối tình đầu của
thi nhân. Hình ảnh cô gái thật hư ảo do màu áo” trắng quá” không thể nhìn ra và tác giả đã gợi cho
người đọc một cảm giác trống vắng. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Lại một từ ngữ bất định “ở đây” là ở đâu? “ở đây” và “ngoài kia” có gì khác biệt, có gì xa xôi cách
trở mà không thể với tới. Không những đưa người đọc vào một thế giới hư ảo, nhà thơ còn bộc lộ
những cảm xúc mãnh liệt, Hàn Mặc Tử đã từng viết rằng:
“Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Nhà thơ tự cảm thấy chua xót cho cuộc đời, cho lương duyên của mình để rồi đặt ra một câu hỏi đầy
hoài nghi khắc khoải về một mối tình đơn phương vô vọng
“Ai biết tình ai có đậm đà”
“Tình ai” là tình ai? tình anh, tình em hay tình đời, tình người? Câu thơ không một từ ngữ bộc lộ cảm
xúc, không một dấu chấm than nhưng người đọc vẫn cảm thức được nỗi khổ tâm của nhà thơ. Hàn
Mặc Tử rơi vào trang thái hoài nghi, bị giày vò vì quá khao khát nên rơi vào trạng thái trống trải, cô
đơn. Nhà thơ “mơ” về “khách đường xa”, về cô gái Huế trong bộ áo dài trắng. là “mơ” chứ không
phải mong bởi mong không được nên mới mơ. Khổ thơ cuối cùng chính là cao trào của cảm xúc
trong lòng tác giả và gây cho người đọc những cảm giác mơ hồ khó diễn tả.
Kết thúc bằng một câu hỏi bỏ ngỏ Hàn mặc Tử đã khiến cho người đọc có những ấn tượng mạnh về
bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ không sử dụng nhiều từ ngữ tác giả cũng không chú trọng vào
miêu tả chi tiết từng chút một nhưng bài thơ mỗi hình ảnh đều có hồn tạo liên tưởng và mỗi chữ đều
mang sức gợi lớn trong lòng người đọc. Ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định đặc
trưng của thơ Thơ luôn gắn gọn xúc tích miêu tả trong thơ chỉ cốt lấy cái thần cái hồn của sự vật và
thi sĩ có sứ mệnh truyền cảm hứng giúp người đọc cảm nhận được những tâm tư cảm xúc những rung
động qua tâm hồn và cách làm lan tỏa cảm xúc của nhà thơ. Đạt được những điều này khi phẩm sẽ
thành công về cả hình thức lẫn nội dung sẽ mang giá trị tư tưởng tình cảm lớn dễ chạm được vào trái
tim con người .Tác phẩm như vậy sẽ tạo được nhiều ấn tượng trong lòng người đọc, giúp độc giả
thêm thấu hiểu thêm đồng cảm với những gì mà nhà thơ đang cảm thấy, đang trải qua. Tác phẩm sẽ
từ từ bước vào trái tim người đọc sẽ mang lại thành công trên con đường sự nghiệp thơ ca của tác
giả.
Nghệ thuật cũng là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học. Bằng thể thơ 7 chữ
ngôn ngữ trong, sáng tinh tế, nhịp điệu, giọng điệu luôn thay đổi khi chậm rãi gấp gáp lúc tha thiết
hoài nghi tuyệt vọng và đặc biệt với việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật một cách đặc sắc, Hàn
Mặc Tử đã giúp cho Đây Thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm rất thành công và luôn khiến người đọc trăn
trở.
“Thơ phát khởi trong lòng người” (Lê Quý Đôn). Vì vậy nên mỗi một tác phẩm thơ, đều chan chứa
cảm xúc và tâm tư. Những cảm xúc và tâm tư ấy lại được thể hiện ngắn gọn qua từ ngữ giàu sức gợi
cảm, gợi tả. Xuất phát từ ý nghĩa này Đây Thôn Vĩ Dạ đã trở thành bài thơ hay làm xúc động lòng
người và sẽ mãi mãi ghi dấu ấn trong lòng người.

You might also like