You are on page 1of 6

PHÂN TÍCH “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”.

“Không triền miên sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không ấp ủ nhiều giấc
mộng chinh phu như Thế Lữ hay những hoài vọng xa xăm như Huy Thông,
hồn thơ của Hàn Mặc Tử là một hồn thơ khao khát sống đến mãnh liệt và đau
đớn tột cùng.” Hàn đến với thi đàn bằng những bài thơ mang khuynh hướng
siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng chính nó cũng là hình
chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời của ông. Bởi lẽ
cuộc đời của Hàn đã nổi giông bão quá nhiều, đến nỗi ông trải nghiệm đau
thương dường như bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, bằng cả điên lẫn tỉnh, bằng
cả mơ lẫn thực. Thơ Hàn được phóng xuất ra từ nỗi đau, nỗi trăn trở và khát
vọng sống dạt dào. Không như Xuân Diệu hồ hởi với cuộc sống vì ham sống
với sự tận hưởng và tận hiến, Hàn lúc nào cũng chìm trong trạng thái lâm lụy
bởi tiếng kêu gào thống thiết từ trong cốt tủy, rằng mỗi ngày Hàn sống là một
ngày Hàn chết. Từ trong nỗi cô đơn và thống khổ như thế, Hàn đã viết, viết
để tha thiết hơn, viết để biết rằng mình còn sống, và viết để mong muốn mình
được sống. Qua “Đây thôn Vĩ Dạ”, ông đã thể hiện rõ mộng ước của mình,
đó là khát vọng được quay về “đường xưa lối cũ”, được một lần sống với tình
yêu của mình, và có lẽ là cả tình yêu của đời.
Huế được xem như là quê hương thứ hai của Hàn Mặc Tử, ông yêu Huế như
cách những người con sinh ra từ xứ sở thơ mộng này yêu nó. Với Hàn Mặc
Tử, Huế là nhà, Vĩ Dạ là nhà. Hơn cả, ở chốn thôn quê này, có hình bóng
người ông yêu - người ông tâm niệm được tái ngộ, với ông, Vĩ Dạ hay Huế
đều dường như đã trở thành ẩn ức, trở thành một phần máu thịt mà ông mang
nặng suốt cả cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà “Đây thôn Vĩ Dạ” đã trở thành tuyệt
bút thi ca trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, trở thành nét chấm phá
để hậu thế mãi không bao giờ quên có một người thi sĩ đã yêu chân thành và
dang dở đến thế, đã rút hồn cốt của mình để yêu Vĩ Dạ và yêu cả người
thương nhiều đến thế.
Có lẽ để lại ấn tượng nhiều nhất cho bạn đọc sau khi gấp lại thi phẩm này là
cái tôi mặc cảm nhưng cũng đầy hoài nghi và khao khát thể hiện qua khổ thơ
thứ hai và thứ ba của “Đây thôn Vĩ Dạ”.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ hai đã nói tới một thực tại đầy phiêu tán.
Nhịp thơ 4/3 đã miêu tả sự chia lìa, tan tác. “Gió” và “mây” bỗng bị đẩy về
hai đầu của câu thơ, gợi lên sự xa cách vời vợi, mà theo chiều hướng, xu thế
chuyển động thì càng lúc càng xa, khoảng cách giữa “gió” và “mây” dường
như đã không còn cân đong đo đếm được. Từ cặp hình ảnh sóng đôi, “gió” và
“mây” đã trở thành hai hình ảnh đơn lẻ, xa cách nhau. Mỗi vật một đường,
mỗi người một ngả. Tưởng chừng ở gần nhau, ở cạnh nhau nhưng thực ra là
đã ly khai, vĩnh biệt, mãi mãi không về chung một mối. Sự chia xa ấy cũng
từng xuất hiện trong thơ của Thế Lữ:
“Em đường em tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi”.
hay trong thơ của Huy Cận:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”.
Mượn hình ảnh gió - mây, Hàn Mặc Tử dường như muốn biểu đạt tâm trạng
đầy đau khổ của mình. Với một kẻ đứng trước cửa tử như ông, sự xa cách đối
với người yêu đã trở thành án tuyên lớn nhất, ông sợ hãi việc phải chết đi,
nhưng điều khiến ông đau đớn hơn đấy là việc chết đi trong cô độc. Vậy là
ông và người mình yêu đã vĩnh viễn ly biệt. Một ngày sống với ông vậy là lại
thêm một ngày dằn vặt, một ngày tự trách, một ngày u oải, cố gắng đi tìm
những mảnh kí ức điêu tàn trong tâm thức của mình. Ở một chốn đầy tử khí
như trại phong Tuy Hòa, Hàn Mặc Tử lại càng chiêm nghiệm sâu sắc hơn sự
cô đơn, tách biệt với cuộc sống xung quanh. Giống như một kẻ tử tù đang
chờ ngày tiến ra pháp trường, hay một kẻ lang thang giữa hai miền sống chết,
Hàn Mặc Tử dường như đã không còn hi vọng, nên ông nhìn đâu cũng thấy
sự chia lìa, thậm chí còn nhìn thấy sự chia lìa trong những thứ không thể chia
lìa như “mây” và “gió”. Ở câu thơ thứ hai của khổ hai, ông viết “Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay”. Nỗi đau buồn của Hàn Mặc Tử dường như nhuốm cả
không thời gian, dòng sông giờ cũng mang một gương mặt ủ ê, “buồn thiu”
không một gợn sóng. Tâm trạng của ông đã khiến dòng sông kia trở thành
một dòng sông tâm trạng với nhiều những xúc cảm khác nhau. Ở dòng sông
xanh ấy, xuất hiện một hình ảnh “hoa bắp lay” đầy ý vị. Chữ “lay” nếu bình
thường thì chỉ là một động từ không buồn cũng chẳng vui, nhưng khi đặt vào
câu thơ Hàn viết, nó dường như mang một màu sắc hiu hắt và đầy cô liêu,
khiến cho bức tranh thiên nhiên thêm phần trống trải, cũng như càng khiến
cho tâm trạng của chủ thể trữ trình phảng phất sự u buồn, nét cô đơn của
người mang án tử “treo” trên mình.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Hình ảnh thuyền và sông đều là những thi liệu quen thuộc trong thơ ca Việt
Nam nói chung và thơ Hàn nói riêng. Biểu tượng này đã theo ông từ lúc bắt
đầu làm thơ cho đến ngày cuối đời:
“Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Có đùa trăng đến bên ao
Trăng lại đẫm mình xuống nước
Trăng nước đều lặng nhìn nhau.”
(Bắt chước)
Tưởng như câu thơ của Hàn Mặc Tử không có gì đặc biệt, tuy nhiên trong hai
câu thơ này lại hội tụ nhiều điểm sáng tạo độc đáo. Ông ghép “trăng” với
“sông”, dùng “trăng” như một vật để “chở”. Sự liên tưởng phong phú của ông
đã tạo ra những hình ảnh xen giữa đôi bờ hư - thực. Không biết dòng nước
đang hóa mình thành dòng trăng hay ánh trăng đang vỡ tan rồi hòa vào nước,
chỉ biết rằng dòng sông lúc ấy đã trở thành một dòng ánh sáng tự bao giờ,
bến sông nay đã trở thành “bến sông trăng” và con thuyền cũng chở đầy trăng
rực rỡ. Toàn bộ hy vọng của Hàn đã đặt cả vào con thuyền chở trăng, và con
thuyền ấy dường như không chỉ chuyên chở niềm tin và hy vọng của ông, mà
còn là sự lo âu, bất lực trước thực tại. Sức nặng của khổ hai đã rơi vào một
chữ “kịp” thật giản dị và khiêm nhường. Nhãn tự của bài thơ xuất hiện với
một vị trí không bóng bẩy, không cầu kỳ nhưng vẫn giữ nguyên được hàm ý
sâu sắc. Chữ “kịp” ấy dường như đã chứa đựng hết tất cả những nỗi ám ảnh
về thời gian mà Hàn phải gánh chịu, chứa đựng cả nỗi đau và giọt nước mắt
Hàn đánh rơi trên trang giấy. Dường như kẻ tử tù này đã chờ trăng từ rất lâu,
và hắn có thể thức nhận được rằng mình không còn nhiều thời gian để chờ
được nữa. Bởi vì bất kì lúc nào hắn cũng có thể sẽ phải rời đi, đứt lìa ra khỏi
đời sống, ngay cả khi chưa kịp tận hưởng vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của
cuộc đời. Qua đó Hàn Mặc Tử muốn cho bạn đọc thấy được tâm thế sống của
mình, đấy là phải sống chạy đua với thời gian, tranh thủ không đánh rơi một
khắc quý giá nào trong quỹ thời gian của mình xuống những điều vô ích, bởi
vì thời gian đang vơi đi từng chút một, và điều đó cũng có nghĩa là cái chết
lại thêm gần kề.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Tiếp nối mạch thơ, khổ cuối thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân
trong cái mênh mông, bao la của đất trời. Đó là sự chờ đợi, mong mỏi khôn
nguôi và một niềm khắc khoải tràn đầy của người nghệ sĩ. Câu thơ đầu của
khổ cuối chính là bản lề khép lại cõi thực, để mở ra một cõi mộng xa xăm. Từ
những vần điệu có ý thức cho đến những hình ảnh vô thức, nỗi nhớ của Hàn
Mặc Tử dường như theo ông xuyên suốt từ cõi thực đến cõi ảo. Người ta nói
rằng khi chúng ta chìm vào giấc ngủ và mơ thì những gì xảy ra trong giấc mơ
là những gì chân thực nhất, là những ẩn ức giấu kín trong bản thể của mỗi
con người. Vậy hình ảnh “khách đường xa” là ai? Đấy có thể là người Hàn
Mặc Tử thầm thương trộm nhớ, khách đường xa ấy vậy mà lại chỉ có thể xuất
hiện trong giấc mơ, không thể trở thành hiện thực. Người khách đó cứ xa
dần, xa mãi rồi chói lòa trong tâm trí của tác giả. Rồi đến khi “Áo em trắng
quá nhìn không ra”, thì Hàn Mặc Tử đã lần nữa cực tả sắc trắng của áo em
đến tột độ, đó là gam màu trắng đến mức không thực, đến hư ảo, đến nao
lòng và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt hay với tới. Và hình như,
giai nhân áo trắng với thi nhân có khoảng cách nên khiến thi nhân không khỏi
nghĩ ngợi, suy tư:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”.
“Ở đây” là cái cách biệt với bên ngoài, cách biệt với xã hội xung quanh. Đó
chính là không gian ảo mộng trong mơ, là không gian đầy đau thương và
tuyệt vọng của Hàn. Không gian này khiến ta càng thấy rõ hơn con người này
đang ở giữa hai ranh giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ.
Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với
“sinh, lão, bệnh, tử”. Trong làn sương khói ấy, con người bị làm nhòa đi, có
lẽ Hàn sợ rằng trong không gian ấy không chỉ con người đang bị làm mờ
nhạt, mà tình người cũng thế cho nên tác giả không dám khẳng định tình
mình với người thương xứ Huế mà chỉ dám dùng đại từ phiếm chỉ “ai”. Ta có
thể thấy rằng, điệp từ “ai” đã xuyên suốt “Đây thôn Vĩ Dạ”, ở khổ nào cũng
có sự xuất hiện của nó. Nếu khổ một là “vườn ai”, khổ hai là “thuyền ai” thì
khổ ba là “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” trong câu thơ cuối rốt cuộc là chỉ
đối tượng nào? Nếu như xét từ mạch của bài thơ, ta có thể thấy rằng “ai” thứ
nhất là Hàn Mặc Tử, “ai” thứ hai chính là Hoàng Cúc, câu thơ viết ra như
muốn nói rằng “Em biết tình anh có đậm đà?”. Âm điệu của câu thơ ngân xa
như một tiếng than, nỗi đau của Hàn dường như đang trải ra đến mênh mông
vô cùng. Dường như Hàn đang lâm vào tình thế tuyệt vọng, nói đúng hơn là
sự thất vọng. Bởi vì thi nhân dù có cố gắng đến mấy cũng không thể “khuấy”
tình thành một mối, dù có một trái tim tràn đầy khao khát yêu thương nhưng
đến cuối vẫn không có được tình yêu trọn vẹn.
Có ai đó đã nói rằng “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử xuất
hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời để lại
cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình.” Có gì đó ở một kẻ sống dưới lưỡi hái của
tử thần khiến ta phải ngưỡng vọng. Phải yêu thôn Vĩ, yêu người thương lắm
thì những nét bút viết ra mới có hồn như vậy, mới thành công tái hiện - dựng
cảnh tuyệt vời đến như vậy. Cho đến cuối cùng, thôn Vĩ và Hoàng Cúc vẫn
sống trong tiềm thức của Hàn Mặc Tử cho đến ngày ông lìa xa nhân thế. Tuy
“Đây thôn Vĩ Dạ” có một màu thơ đượm buồn, nhưng qua đó bạn đọc không
chỉ nhìn thấy sự phiêu tán, chia lìa mà còn thấy được những khao khát và
hoài nghi của một đời kẻ sĩ. Đấy là ước vọng được sống mãnh liệt đến khôn
cùng, đến chao đảo cả trời đất.

You might also like