You are on page 1of 10

TÂY TIẾN Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Quang Dũng là cái tên tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là Khí hậu miền Tây hoang vu đầy khắc nghiệt. Vùng núi Sài Khao chìm trong
một người nghệ sĩ với nhiều tài nghệ, tài năng như viết văn, vẽ tranh và soạn sương mù dày đặt, bị bủa vây bởi cái âm u, mờ mịt. Sương mờ bao phủ khắp
nhạc. Ông tham gia kháng chiến trong những năm tuổi trẻ sục sôi, độ tuổi núi rừng, lấp kín cả lối đi, như cái miệng lớn của loài thú vật nuốt chửng cả
ngây ngất với những rung động, mộng mơ đầu đời, vì thế mà hồn thơ của ông đoàn quân Tây Tiến, che lấp cả sự mỏi mệt, gian khổ mà đoàn quân phải chịu
phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Ông bước vào đời, vào thực tại đựng. Mường Lát hiện lên trong kí ức của nhà thơ giữa màn sương buổi đêm
tàn khốc với tâm hồn của người trai trẻ chí lớn lại đầy mơ mộng. với vẻ đẹp huyền ảo qua hình ảnh 'hoa về trong đêm hơi'. Hình ảnh 'hoa về'
Nhà thơ Quang Dũng đã thổi vào văn chương kháng chiến một làn gió mới không chỉ là diễn tả lại vẻ đẹp của những bông hoa rừng tỏa hương thơm
mang tên "Tây Tiến". Đoạn trích được sáng tác vào năm 1948 và được in ngát mà phải chăng hình là hình ảnh ẩn dụ chỉ bóng hình người lính Tây Tiến
trong tập thơ "Mây đầu ô" (1986). Đoạn trích là nơi mà tác giả gửi gắm nỗi trở về trong 'đêm hơi', trong bản làng khói sương mờ ảo. Nếu sương đêm là
nhớ về thiên nhiên, về vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những hiện thực gian khổ thì 'sương hơi' chính là hiện thực được lãng mạn hoá, tạo
người lính đồng đội cùng trải qua những khoảng thời gian khó khăn, thiếu nên một không gian bồng bềnh, hư ảo. Mường Lát như bừng sáng trong đêm
thốn vật chất nhưng tràn đầy niềm lạc quan sau khi đã rời xa đơn vị Tây Tiến. bởi những ngọn đuốt hoa bập bùng giữa sương giăng kín lối trên tay cầm của
Đây là đoạn trích thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. những người lính Tây Tiến trở về. Khí hậu giá lạnh, thời tiết khắc nghiệt,
Chặng đường hành quân giữa rừng núi được tái hiện trong kí ức của người phong cảnh lại ngập tràn nét thơ mộng trữ tình.
lính trẻ qua những câu thơ chan chứa bao cảm xúc. Hai câu thơ đầu được "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
xem như là khởi nguồn của mọi nỗi nhớ : Heo hút cồn mây súng ngửi trời
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Con sông Mã chảy dài cả nhiều năm liền, đã cùng trải qua với người chiến sĩ Với từ láy 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm', 'heo hút', cùng điệp từ 'dốc', 'ngàn thước'
suốt bao nhiêu gian khó trên chặng đường kháng chiến, dường như đã chứng tác giả đã cho thấy được vô vàn sự nguy hiểm mà người lính phải đối mặt nơi
kiến hết thảy những buồn vui, những hi sinh, những nỗi khó khăn, vất vả, núi rừng Tây Bắc. Núi này nối tiếp núi nọ, dốc cao gập ghềnh khúc khuỷu, vực
nhọc nhằn của đời lính nơi chiến trường. Sông Mã chảy xiết cuộn trào giờ chỉ sâu thăm thẳm, chỉ cần một phút lơ đãng liền sẽ mất mạng. Sương dày che
còn hiện hữu nơi miền ký ức, hai từ ' xa rồi" vang lên như lời than thở đầy mắt, đường đi lại nhỏ hẹp, trơn trượt, trong mưa rừng giăng mắc và cái lạnh
nuối tiếc với nỗi lưu luyến không nỡ cứ đong đầy. Dâng trào nỗi nhớ, tác giả buốt phảng phất đoàn quân vẫn miệt mài tiếp bước. Từ 'heo hút' được đặt
bật lên tiếng gọi tha thiết 'Tây Tiến ơi!'. Thông qua thán từ 'ơi' ta thấy được lên đầu câu càng nhấn mạnh quang cảnh hoang vu nơi núi rừng.Cụm từ
tình cảm sâu sắc mà nhà thơ dành cho đơn vị quân đội giữa núi rừng này, 'súng ngửi trời' làm ta liên tưởng đến hình ảnh "đầu súng trăng treo" trong bài
tiếng gọi đầy trìu mến dành cho người bạn đồng hành thân thương một thời thơ "Đồng chí" của Chính Hữu. Bằng sự tài tình trong việc sử dụng biện pháp
gắn bó nghĩa tình với nhau. Đến câu thơ thứ hai, nỗi nhớ cuộn trào như sóng nghệ thuật, Quang Dũng đã làm nổi bật sự cao ngất trời của những dãy núi,
vỗ bờ. Điệp từ 'nhớ' nhấn mạnh cho nỗi nhớ cứ ngày một mãnh liệt. Cả từ láy cái hùng vĩ, tráng lệ của núi rừng Tây Bắc. Đoàn quân đi qua những dãy núi
'chơi vơi' cũng gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng, mênh mang vô định, không có cao vút, cảm tưởng như đầu súng treo trên vai có thể chạm đến và xuyên qua
điểm dừng mà cứ lan rộng mãi, một cảm giác khắc khoái, da diết khó có thể cả bầu trời. Câu thơ cho thấy tính cách lạc quan, vẻ tinh nghịch, hồn nhiên,
diễn tả. Nỗi nhớ ấy lan tỏa ra khắp không gian, thời gian. tếu táo, luôn yêu đời của những người lính trẻ, rằng muôn vàn khó khăn
Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và những chăng đường hành quân gian khổ được chẳng xá gì với sức trẻ dồi dào và tình yêu tổ quốc. Đồi núi hết lên rồi lại
diễn tả rõ nét qua ngòi bút tài hoa của nhà thơ không những không mất đi sự xuống, câu thơ có sự tương phản rõ rệt. “Ngàn thước lên cao ngàn thước
hiểm trở mà còn được tăng thêm chất lãng mạn. Các địa danh hành quân xuống” núi cao bao nhiêu, vực sâu bấy nhiêu. Một hành trình đầy gian nan
được nhà thơ liệt kê như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Hường Mịch gợi của người chiến sĩ.
nhớ về những miền đất hoang vu, hẻo lánh đầy bí ẩn, cho thấy được không Khác với ba câu thơ trên, câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" có phần
gian hành quân đầy rộng lớn trong kí ức của người lính Tây Tiến. Với nét thơ độc đáo hơn, câu thơ chỉ toàn là thanh bằng tạo một cảm giác nhẹ nhàng, thư
uyển chuyển, mềm mại lại dữ dằn nhà thơ đã khắc họa lại được một Tây Bắc thả. Các anh phóng tầm mắt nhìn bao quát toàn cảnh từ nơi núi cao, thấp
với thiên nhiên đầy hùng vĩ, hiểm trở hòa quyện hài hòa với nét thơ mộng trữ thoáng trông thấy giữa màn mưa giăng mờ ảo là hình ảnh những ngôi nhà ở
tình. Pha Luông góp phần làm cho không gian trở nên bớt hiu quạnh, vắng vẻ,
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi sưởi ấm tâm hồn của những người lính xa quê đã lâu.
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa nghị lực, bản lĩnh mạnh mẽ, kiên cường cùng tâm hồn lạc quan, trẻ trung, lãng
Gục lên súng mũ bỏ quên đời! mạn, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét Ở khổ thơ thứ hai, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở phong cảnh thiên nhiên Tây
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" Bắc nguy hiểm mà trữ tình mà còn là kỉ niệm về những khoảnh khắc yên bình
Trong suốt chặng đường hành quân, không biết đã bao người phải đổ gục vì thoáng chút buồn, những đêm hội liên hoan tưng bừng ánh lửa:
những vất vả, gian khổ. Nhưng qua ngòi bút của Quang Dũng, cái chết của "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
những người lính ấy mất đi phần nào bi thương mà gợi lên một tư thế ngang Kìa em xiêm áo tự bao giờ
tàng, ngạo nghễ, tâm thế xem thường khi đối diện cái chết bằng cụm từ "bỏ Khèn lên man điệu nàng e ấp
quên đời". Tưởng như là "không bước nữa" chỉ vì có chút mỏi mệt nên cần Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
nghỉ ngơi thôi chứ không phải là nhắm mắt ra đi gửi lại đời mình chốn hoang Doanh trại về đêm bập bùng ánh lửa, ánh sáng phát ra rực rỡ, lung linh làm
vu giá lạnh. Cụm từ "gục lên súng mũ" diễn tả lại cái chết của những người bừng sáng cả không gian, xua tan đi cái lạnh lẽo của màn đêm. Hai từ "bừng
lính tựa như là một giấc ngủ để lấy lại sức sau những khó nhọc, đối với đời lên" không chỉ diễn tả ánh sáng của bó đuốc mà còn là lời ca điệu múa, tiếng
lính cái chết chỉ nhẹ tựa lông hồng. khèn bừng lên tươi vui rộn rã. Hình ảnh “hội đuốc hoa” vừa mang nghĩa tả
Thiên nhiên Tây Bắc không chỉ trùng trùng điệp điệp là rừng là núi mà ẩn sâu thực cả cánh rừng lung linh huyền ảo dưới ánh sáng trăm nghìn bó đuốc, vừa
trong đó còn là những điều bí ẩn, sự hiểm nguy luôn rình rập, đe doạ đến tính mang nghĩa tượng trưng được ví như những cây nến thắp trong đêm tân hôn
mạng của người lính. Từ láy "chiều chiều", "đêm đêm" cho ta hay đây có thể gợi không khí ấm cúng, hạnh phúc trong lòng người chiến sĩ.
là khoảng thời gian mà người lính thường xuyên phải đương đầu với cái đáng Những cô thiếu nữ vùng núi với nét đẹp lạ lùng xuất hiện lộng lẫy, thẹn thùng
sợ của vùng đất thâm sơn cùng cốc. Hình ảnh "thác gầm thét" và "cọp trêu e ấp, thướt tha yêu kiều trong điệu múa đậm đà bản sắc dân tộc khiến những
người cho thấy sự hoang dại, dữ tợn của thiên nhiên vùng núi. Qua đó làm chàng trai Hà thành lần đầu đặt chân tới miền núi Tây Bắc phải ngỡ ngàng
nổi bật tính gan dạ, sự dũng cảm của những người lính trẻ. trước vẻ độc đáo của văn hoá miền núi và thốt lên "Kìa em xiêm áo tự bao
Đến hai câu cuối của đoạn thơ, những kí niệm về tình cảm quân dân ấm áp giờ". Hai từ "kìa em" cho thấy sự ngỡ ngàng, xuyến xao, ngây ngất của người
nghĩa tình dường như đã trở thành một điều trân quý không thể nào phai nhoà lính trước vẻ đẹp phương xa xứ lạ. Vẻ đẹp ấy khiến tâm hồn người nghệ sĩ
trong kí ức người lính: trong nhà thơ thăng hoa. Những đêm hội liên hoan rộn rã, đầy ấp tiếng cười,
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói thắm đẫm tình quân dân trong kí ức người lính như là nguồn vui tiếp thêm
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi." sức mạnh cho người chiến sĩ trong những chặng đường tiếp theo. Mặt khác ở
Tây Tiến lần nữa hiện lên nơi tâm trí người lính trong âm điệu bồi hồi, tha thiết đây, chất thơ chất nhạc chất họa còn chấp cánh cho tầm hồn người lính đến
của thán từ "ôi". Nỗi nhớ da diết, dâng trào mãnh liệt. Nhớ về cảm giác ấm áp với vùng đất đẹp của nước bạn thân thiết. Cảnh vật cùng con người say đắm,
từ nồi cơm trắng khói nghi ngút, nhớ về từng miếng nếp xôi thơm lừng, dẻo ngả nghiêng trong bầu không khí có chút hoang dại của rừng núi đầy mê hoặc
mềm. Con người miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó, yêu lòng người.
thương và che chở cho những người lính Tây Tiến, cho thấy tình cảm quân Những hoài niệm về đêm liên hoan lửa trại dần thay thế bằng nỗi nhớ miên
dân khăng khít, thắm thiết. Đối với những con người phải rời xa gia đình đây man về cảnh sông nước miền Tây hữu tình trong bốn câu thơ sau :
là một điều trân quý vô cùng. Câu thơ tái hiện lại không khí đầm ấm, vui vầy, "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
sưởi ấm trái tim người lính sau những chặng hành quân mỏi mệt. Cảnh tượng Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
quen thuộc thân thương vẫn còn in dấu đậm nét trong tâm hồn nhà thơ. Hai Có nhớ dáng người trên độc mộc
câu thơ cuối đoạn khép lại nỗi nhớ về phong cảnh núi rừng Tây Bắc, về Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
những phút giây tuy mỏi mệt nhưng vẫn ngập tràn niềm vui trong suốt chặng Sông nước miền Tây vào buổi chiều chìm trong màn sương giăng kín, tĩnh
đường hành quân. lặng. Không gian được bao phủ bởi nét hoang sơ, mênh mang, mờ ảo trông
Khổ thơ đầu là khổ thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Quang Dũng. Ngôn yên bình như một miền cổ tích. Nét mơ màng, không rõ trong thiên nhiên miền
ngữ trong đoạn thơ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu. Với sự kết hợp giữa núi Tây Bắc hiện lên qua những hình ảnh rất đặc trưng như "hồn lau", "hoa
bút pháp hiện thực và lãng mạn cùng nhịp thơ 4/3, Quang Dũng đã khắc hoạ đong đưa". Hai bên bờ sông những bông lau lay động nhẹ nhàng làm tăng
nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, hiểm trở lại vừa thêm cảm giác yên bình nơi vùng sông nước . Cụm từ "nước lũ" ta còn thấy
thơ mộng trữ tình. Hiện lên không gian ấy là người lính Tay Tiến với ý chí, được cái khó khăn của vùng Tây Bắc, không chỉ có sương giăng mắt mịt mù
mà còn có nhiều thiên tai lũ lụt. Thế nhưng qua ánh mắt lạc quan của người
lính họ nhìn đâu cũng thấy lãng mạn, cũng thấy nét trữ tình trong cái khắc nên chiến công. Trái tim người lính giàu khát vọng ước ao, “dáng kiều thơm”
nghiệt của thực tế cuộc đời. Nhà thơ hoà mình vào khung cảnh cảm nhận cái ẩn dụ cho vẻ đẹp yêu kiều của những thiếu nữ Hà thành, là những mộng mơ
chập chờn, mơ hồ của nơi sông nước hoang vắng qua ánh nhìn lãng mạn, trữ trong tâm hồn người lính từ đó bộc lộ nên vẻ đẹp đẹp tâm hồn hào hoa, lãng
tình. Phép điệp câu hỏi tu từ "có thấy", "có nhớ" bộc lộ tâm trạng bồi hồi, hoài mạn của các chàng trai Hà Nội tuổi đôi mươi. Những giấc mộng và khát khao
niệm, nhớ thương đầy lưu luyến của người lính. Nhà thơ chẳng cần phải tả rõ như nguồn động lực tiếp thêm sức mạnh cho các anh trên chặng đường gian
mà chỉ cần qua những câu từ đầy sức gợi tình cũng đủ để ta gợi lên hình ảnh khổ.
dáng người khoẻ khắn lại mềm mại, duyên dáng đứng vững trên con thuyền Chân dung người lính hiện lên đẹp đẽ qua lý tưởng của các anh:
gỗ xuôi theo dòng nước. Nghệ thuật đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
“dòng nước lũ” với cái mềm mại “hoa đong đưa” để làm nổi bật lên vẻ đẹp của Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
hoa.Con thuyền xuôi theo dòng tựa như những bông hoa rừng đong đưa trên Áo bào thay chiếu anh về đất
mặt nước nhẹ nhàng, yêu kiều. Khung cảnh thoáng nét buồn như trong một Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
cuộc tiễn đưa. Cuộc tiễn đưa trong kí ức hoài niệm của Quang Dũng, không Lý tưởng của các anh như ngọn thương rực lửa bay xuyên qua cả màn đêm
rõ là ai tiễn đưa ai, chỉ biết tâm trạng của con người khi ấy buồn man mác hoà chiến tranh tăm tối để hướng về ánh sáng ngày tổ quốc hoà bình. “Rải rác
với cảm xúc luyến lưu không nỡ. Bức tranh thiên nhiên, sông nước miền Tây biên cương mồ viễn xứ” trĩu nặng trong đan thương mất mát của chiến tranh,
thơ mộng hữu tình. gợi hình ảnh những nấm mồ vô danh hoang lạnh của các chiến sĩ ngã xuống
Với cảm hứng lãng mạn, bút pháp gợi tả cùng ngôn ngữ giàu chất hoạ đoạn nằm rải rác dọc biên cương. Đến với Tây Tiến, người lính buộc phải đối mặt
thơ thể hiện sự hài hoà giữa cảnh và người trong vẻ đẹp hoang sơ, hư ảo của với cái chết đầy cô đơn lạnh lẽo nơi chiến trường xa xôi, heo hút. Vì ngày
thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng trữ tình. Để lại những cảm xúc Bâng khuâng, xuân của đất nước những người lính tuổi đôi mươi hào hoa sẵn sàng hiến
nhớ nhung, xao xuyến, khó quên trong lòng người đọc. Đồng thời đoạn thơ dân cả “đời xanh” mà không chút nuối tiếc, dường như tất cả đều đã chuẩn bị
cũng ngợi ca sự tinh tế, hào hoa của tâm hồn người lính vượt lên thực tại gian tâm thế để gửi gắm lại thân mình nơi biên cương xa xứ. Hai từ “chẳng tiếc”
khổ, khắc nghiệt cùng những người đồng đội. cho thấy thái độ dứt khoát, tinh thần tự nguyện xả thân vì đất nước. Câu thơ
Ở đoạn thơ thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên hình tượng người lính Tây Tiến như là lời nhà thơ nói thay cho những người đồng đội đã ra đi, nói lên ý chí
bất tử với thời gian: cùng mong ước khát khao của họ. Trong đoạn thơ được sử dụng nhiều từ
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Hán Việt, làm cho cái chết của người lính không chỉ còn là nỗi bi thương mà
Quân xanh màu lá dữ oai hùm trở nên hào hùng. Lí tưởng người lính cao đẹp đến độ lấn át đi cái bi thương.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Hình ảnh “áo bào” khiến cho cái chết trở nên trang trọng hoá cùng lúc đó cũng
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” giảm nhẹ nỗi đau mất mát. Các anh chiến sĩ nhắm mắt thanh thản nằm lại nơi
Đoạn thơ đã khắc hoạ hình ảnh người lính với nét đặc trưng thời chiến tranh. lòng đất mẹ dịu hiền. Cách nói giảm “về đất” nhằm tránh đề cập trực tiếp tới
Qua hai hình ảnh “không mọc tóc”, “xanh màu lá” ta thấy được sự khắc cái chết, thể hiện tình cảm yêu thương của đồng đội dành cho các anh. Nỗi
nghiệt, thiếu thốn cùng bệnh tật đang hành hạ những người lính, sống giữa đâu đất trời, dân tộc dồn nén trong tiếng gầm của Sông Mã âm vang như một
chốn rừng thiêng nước độc, gian khổ khác thường, sốt rét hoành hành, tóc khúc độc hành bi hùng tiễn đưa các anh vào cõi bất tử, hóa thân vào hồn
không mọc nổi, da xanh như lá. Đó là thực tế hiển nhiên, Quang Dũng không thiêng sông núi. Bi thương nhưng không hề bi lụy mà ngược lại hào hùng,
hề che giấu. Bài thơ được sáng tác theo âm hưởng bi tráng, nhà thơ muốn thấm đẫm tinh thần bi tráng.
nhấn mạnh cái bi để làm bật lên cái tráng. Qua vẻ ngoài xơ xác, tiều tụy vì Với bút pháp lãng mạn đậm chất hiện thực, đồng thời sử dụng nhiều từ Hán
những cơn sốt rét rừng cũng đủ để ta hình dung cuộc sống đầy gian khổ mà Việt trang trọng, đoạn thơ đã làm bật lên hình ảnh người lính Tây Tiến vừa
người lính phải trải qua. Dẫu gian nan cực khổ, thiếu thốn đủ mọi bề nhưng lãng mạn vừa bi tráng, tiêu biểu cho người lính thời chống Pháp. Đoạn thơ
người lính “ốm mà không yếu” và dù đứng ở góc đọ nào soi vào thì họ vẫn giữ còn là nơi Quang Dũng bày tỏ nỗi đau thương và tình cảm trân trọng, thành
cho mình một tinh thần, một khí thế “dữ oai hùm” mang hàm nghĩa ẩn dụ thấy kính của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
được tư thế hành quân hiên ngang cùng ý chí kiên cường và bất khuất của Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở
người lính Tây Tiến. Chiến đấu trong gian khổ, ánh nhìn của các anh vẫn đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác
mạnh mẽ, kiên nghị một lòng hướng về giấc mộng hoà bình, hướng về biên phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng
giới mà gửi gắm khát khao ngày hoà bình lặp lại để có thể trở về bên gia đình. mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ.
“Mắt trừng” dữ dội, sự quyết liệt hướng về kẻ thù với mong muốn diệt thù, lập Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc
hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người VIỆT BẮC
lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu trong văn thơ hiện đại. Thơ của
câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn, lí tưởng cách mạng của con
hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến. người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc truyền thống.
Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người Nếu "Từ ấy" là bài thơ đánh dấu cho chặng đường đầu tiên của đời thơ
còn sống và những người đã ngã xuống: Tố Hữu thì "Việt Bắc" lại là một áng thơ bất hủ trên con đường sáng tác
“Tây tiến người đi không hẹn ước thơ ca của ông, được ra đời vào năm tháng 10/1954, nhân sự kiện
Đường lên thăm thẳm một chia phôi” những người kháng chiến từ miền núi tở về miền xuôi, Trung ương
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập Đảng và chính phủ từ chiến khu trở về thủ đô Hà Nội. Bài thơ ghi lại
đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ
không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có về xuôi với con người thiên nhiên Việt Bắc. Nổi bật là đoạn thơ trên....
ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lòng đẩy băn khoăn trăn
đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang trở về tình cảm của người ra đi.
Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi “Mình về mình có nhớ ta?
sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, Muòi lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình. Những người lính trong bài thơ Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại luôn có tâm trạng nặng
Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi niềm như người lính Tây Tiến, từ nể hơn, vừa phải đối diện với một không gian trống trải, thiếu vắng bóng
những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh em: người, vừa luyến tiếc những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi có còn nhớ
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến ta chăng?, với lối xưng hô “mình – ta” ngọt ngào, đẳm thắm như đôi trai gái
tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi yêu nhau đã khơi gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người về
vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng xuôi: Người về chốn thị thành phồn hoa, có còn nhớ đến ta?Vừa khơi gợi cảm
đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại. xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó mười lăm
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc đến
keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm khoảng thời gian đằng đẳng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao ki niệm về
hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa: những gian khổ, thiếu thốn “ta” và “mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn
“Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy nồng” bền chặt, keo sơn và luôn in dấu trong lòng người ở lại. Kỉ niệm không
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà còn được nhắc nhớ qua
Câu thơ: “Ai lên Tây Tiên mùa xuân ấy”như gợi nhớ về mùa xuân năm n nào không gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
đoàn quân Tây Tiền được thành lập, gợi nhắc về tuổi xuân của đoàn quân “Mình về mình có nhớ không?
Tây Tiên và mùa xuân tương lai của đất nước. Khép lại bài thơ là lời thề Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
quyết tâm “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Một khi lý tưởng cao đẹp chưa Câu thơ vẽ lên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, không gian đã
đạt được thì dù có chết người lính Tây Tiên cũng quyết không dời cây súng, từng gắn bó một thời gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở
không dời chiến trường. thành không gian của nỗi nhớ. Nhà thơ đã sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở
Bốn câu thơ cuối được viết như những dòng chữ tạc trên bia mộ của những hai vế “nhìn – nhớ” để nhấn mạnh và khắc sâu những diễn biến sẽ có trong
người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình ảnh những người chiến sĩ dũng tâm trí người ra đi. Núi rừng, sông suối nơi Việt bắc sẽ trở thành một phần kí
cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề với quê hương tổ ức của bộ đội miền xuôi, để khi về lại thủ đô, mỗi lần nhìn “cây” nhìn “sông” ở
quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bi lụy, tràn đầy niềm nơi ấy sẽ gợi nhắc về không gian “núi”, “nguồn” chốn thượng ngàn. Câu thơ
tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống của tuổi trẻ. bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng người đi và ngầm ẩn một lời nhắc nhớ người đi
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ gìn giữ tấm chân tình: đừng vì hoàn cảnh sống thay đổi mà quên những ngày
thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên tháng đồng cam cộng khổ ở Việt Bắc thân thương.
núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lòng nhớ nhung, trăn trở của người ở
Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng vẫn sẽ còn in dấu mãi lại, ta không chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc
trong lòng người đọc.
dành cho cán bộ miền xuôi, mà còn thấy được sự trân trọng, nâng niu những Mình đi có nhớ những nhà
kỉ niệm buồn vui suốt mười lăm năm gắn bó của họ. Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng Qua hình ảnh hoán dụ "rừng núi nhớ ai" câu thơ đã diễn tả tâm trạng trống
định tình cảm của mình bằng những câu thơ đầy xúc động: vắng, hụt hẫng của người dân Việt Bắc khi phải chia tay những người lính
“Tiếng ai tha thiết bên cồn đã một thời gắn bó thân thiết. Người đi rồi chẳng biết phải chia sẻ với ai, chỉ
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi đành "trám bùi để rụng", "măng mai để già". Lúc bấy giờ cuộc sống ở chiến
Áo chàm đưa buổi phân ly khu vô cùng thiếu thốn, cơ cực “miếng cơm chẩm muối”, thậm chí không có
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...” cả muối để mà chấm. “Trám, măng” là những sản vật của núi rừng Việt Bắc
Người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại bởi đang trải lòng thì trong những ngày gian khố đó được dùng thay cho cơm, sắn, ngô, khoai.
mình ra, lắng nghe được “tiếng ai tha thiết bên cồn”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, Cuộc sống khố cực của người dân còn được thế hiện qua hình ảnh “hắt hiu
xác định không rõ ràng là ai. Song điêu đó không quan trọng mà chỉ biết rằng lau xám” những mái nhà tranh đơn sơ, nghèo nàn nằm nép mình bên sườn
nó tha thiết, diết da, như xoáy vào trái tim người đi, níu kéo bước chân người núi. Những hình ảnh trên đã gợi dậy trong ta bao xót thương trước cuộc sống
đi, khiên người đi phải “ Bâng khuâng trong dạ, bồn chôn bước đi” để rồi im cơ cực của người dân Việt Bắc. Cuộc sông vật chất dẫu cơ cực, thiếu thốn
lặng giữa bộn bệ cảm xúc trong giây phút chia tay, đong đầy nỗi nhớ “ Cầm nhưng hoàn toàn đối lập với cuộc sống tỉnh thần. Đối với giặc căm thù sâu
tay nhau biết nói gì hôm nay...”.. Cử chỉ “ cầm tay nhau” toát lên tình cảm yêu sắc “mối thù nặng vai” bởi tội ác chồng chất chúng gây ra cho dân. Đối với
thương nồng nàn, quyến luyến không nỡ rời xa nhau. Và hình ảnh hoán dụ“áo cách mạng "đậm đà lòng son”, thủy chung son sắc, trước sau như một.
chàm” đã trở thành điểm nhớ thân thương trong tâm trí người đi. Điều đó Người ở lại đã không ngừng hướng đến người ra đi gợi nhắc những hoài
chứng tỏ tình cảm của người ra đi đối với người ở lại đậm đà, sâu sắc, thủy niệm xưa cũ, những thời gian khổ, những chiến thắng vinh quang:
chung không kém. "Mình về còn nhớ núi non
Đoạn thơ với thể thơ lục bát, kết câu theo lồi đối đáp giao duyên “mình - tả”, Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
“ta- mình”; điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần; hình ảnh hoán dụ; âm điệu Đây là kỉ niệm sâu sắc về thời kỳ gian khó kháng chiến. Câu hỏi tu từ
mượt mà, sâu lắng đã thể hiện được tình cảm thủy chung, nghĩa tình của “Mình về còn nhớ núi non” như gợi nhắc ngưới ra đi hãy nhớ về núi rừng Việt
người ở lại đối với người ra đi và ngược lại của người ra đi đối với người ở Bắc-nơi gắn liền với hai sự kiện lịch sử “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt
lại. Mình”. Phong trào kháng Nhật năm 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta, núi
Đoạn thơ là những lời nhắc nhở mà người ở lại dành cho người ra đi. Những rừng Việt Bắc từ đây bước vào cuộc chiến đấu mới. Phong trào Việt Minh
câu hỏi tu từ trong đoạn thơ xuất hiện liên tiếp, dồn dập kết hợp với điệp từ năm 1941 là một phong trào lớn mạnh góp phân làm nên chiến thắng Cách
"có nhớ, còn nhớ", theo đó là điệp khúc "mình đi - mình về" cho thấy nỗi bồn mạng tháng Tám năm 1945.
chồn lo lắng của người ở lại. Và đoạn thơ không chỉ bộc lộ rõ nội tâm trăn trở Mình đi, mình có nhớ mình
của người ở lại mà còn khắc hoạ nên bức tranh thiên nhiên, con người Việt Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?"
Bắc với vẻ đẹp đậm đà màu sắc dân tộc: Câu hỏi tu từ “Mình đi mình có nhớ mình ”. Chữ “mình” thứ nhất và thứ hai nói
"Mình đi có nhớ những ngày về người ra đi. Chữ “mình” thứ ba nói về người ở lại. Và cũng có thể hiêu cả
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù ba chữ “mình” đều là một. Kẻ ở người đi như đã hòa vào nhau có cùng chung
Mở đầu đoan trích là câu hỏi tu từ “Mình đi có nhớ những ngày gợi nhắc tâm trạng nỗi nhớ. Câu thơ “Tân Trào. Hồng Thái, mái đình, cây đa" mang
người ra đi có còn nhớ những tháng ngày ta mình bên nhau, đối đầu với thời đậm dấu ấn lịch sử. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của đội Việt Nam
tiết khắc nghiệt “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù ", nghệ thuật tiêu tuyên truyển giải phóng quân, tiến thân của Quân đội nhân dân Việt Nam;
đối, liệt kê nhấn mạnh sự dữ dội của thiên tai. Mây mù phủ kín đất trời, nước đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội thành lập Uy ban Dân tộc giải
lũ dâng cao. Trong những ngày ấy, người cách mạng vẫn kiên gan bám dân, phóng và phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyên trong cả nước.
cùng dân đương đầu chồng chọi với mưa to gió lớn để đảm bảo được an toàn Những địa danh đó đều là những hình ảnh hết sức bình dị và thân thuộc của
tính mạng, tài sản cho nhân dân. làng quê Việt Nam, là không gian đời sống sinh hoạt, lao động thường ngày.
Mình về có nhớ chiến khu Đoạn thơ với thể thơ lục bát, nghệ thuật liệt kê, điệp từ, tiểu đối, đối câu, trùng
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?" điệp kết hợp với nhau mọt cách khéo léo, tạo nhạc điệu cho cả đoạn thơ. Các
"Mình về, rừng núi nhớ ai kỉ niệm ngân nga trầm bổng, khắc sâu trong lòng kẻ ở người đi
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Sau những câu hỏi bộc lộ nỗi niềm của người ở lại người ra đi đã khẳng định nhận trong nhiều không gian và thời gian khác nhau, mang những nét rất đặc
tấm lòng thủy chung của mình dành cho Việt Bắc : trưng của núi rừng miền Bắc.
"Ta với mình, mình với ta Ngự trị nơi tiềm thức của người ra đi không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên mà
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh còn là nỗi nhớ về con người và hiện thực cuộc sống kháng chiến gian khổ
Mình đi, mình lại nhớ mình nhưng đầy nghĩa tình :
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu..." "Ta đi ta nhớ những ngày
Đại từ xưng hô "mình - ta", "ta - mình" được lặp đi lặp lại cho thấy tình cảm Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
gắn bó, khăng khít giữa kẻ ở người đi. Cặp từ láy "mặn mà", "đinh ninh" là lời Thương nhau chia củ sắn lùi
khẳng định cho tấm lòng thủy chung trước sau như một. Lời đáp của người về Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
xuôi, bộc lộ nỗi nhớ da diết của người ra đi đối với người Việt Bắc. Mượn Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
chiều dài của thời gian để khắc đậm chiều sâu của nỗi nhớ. Khẳng định ta với Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô."
mình đã hòa làm một, trái tim tình cảm của ta trước sau như một, không dễ gì Từ "nhớ" được lặp lại nhiều lần như tô đậm thêm cho nỗi nhớ khắc khoải.
thay đôi. Và để tạo ấn tượng hơn, nhà thơ mượn hình ảnh “Nguồn bao nhiêu Nhớ về những con người cần cù, lam lũ, chịu thương chịu khó đã từng đồng
nước, nghĩa tình bây nhiêu...”, biện pháp so sánh kết hợp cùng với thủ pháp cam cộng khổ, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi với cách mạng. Những hình ảnh
tăng tiến "bao nhiêu - bấy nhiêu" chính là lời nhắc lòng, nhủ lòng , không "chia củ sắn lùi", "bát cơm sẻ nửa", "chăn sui đắp cùng" là hiện thực cuộc
được phép quên đi cội nguồn.Thể hiện tình cảm dạt dào, bền chặt như nước sống thiếu thốn mà quân dân miền Bắc phải trải qua. Một củ săn lùi cũng
trong nguồn chảy ra. được bẻ làm hai, một bát cơm cũng san làm nửa và đêm đông lạnh giá cùng
Đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng, về con người và cuộc nhau đặp chung chăn như chia hơi ấm cho nhau. Án tượng là hình ảnh người
sống nơi đây mẹ dưới cái nắng chang chang, nắng như đô lửa, năng đến cháy lưng vẫn địu
Mở đầu là câu hỏi tu từ “nhớ gì như nhớ người yêu” một nỗi nhớ thường trực, con thơ lên rấy, bẻ từng bắp ngô nuôi cán bộ, câu thơ là hiện thân cho những
da diết, Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật so sánh, nhớ về Việt Bắc như nhớ về người mẹ Việt Bắc, cần cù hi sinh, chịu thương chịu khó, luôn âm thầm cống
người yêu, ví tình yêu thiên nhiên Việt Bắc như tình yêu đôi lứa. Từ đó mới hiến sức mình cho Cách mạng cũng như bảo bọc, che chở cho những người
thấy tình cảm mà người lính dành cho Việt Bắc là vô cùng sâu đậm. bộ đội kháng chiến. Qua đó ta cảm nhận được tấm lòng cảm phục, tri ân của
"Nhớ gì như nhớ người yêu nhà thơ và người bộ đội Cách mạng dành cho những con người lao động
Trăng lên đầu núi nắng nắng chiều lưng nương bình dị nhưng vô cùng cao cả.
Nhớ từng bản khói cùng sương Những kỉ niệm cuộc sống kháng chiến, những sinh hoạt mang tính tập thể ở
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về căn cứ địa Việt Bắc dường như đã trở thành một phần kí ức sâu đậm không
Nhớ từng rừng núi bờ tre thể bị lãng quên.
Ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê vơi đầy." "Nhớ sao lớp học i tờ
Thiên nhiên Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ của người ra đi là những đêm Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
trăng sáng dịu dàng lấp ló ngay đầu ngọn núi, là những chiều hoàng hôn nắng Nhớ sao ngày tháng cơ quan
trải dài nhẹ nhàng trên lưng nương. Người ra đi làm sao có thể quên được Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
hình ảnh bản làng Việt Bắc mờ ảo, yên bình trong sương khói bập trùng với Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
bóng "người thương" tần tảo sớm hôm và cả những đêm ánh lửa từ gian bếp Chày đêm, nện cối đều đều suối xa..."
nhỏ chập chờn sưởi ấm tâm hồn con người và xua tan đi cái lạnh lẽo của màn Điệp ngữ "nhớ sao" được thốt lên với âm điệu bâng khuâng mà da diết.
đêm. Thông qua nỗi nhớ của người ra đi ta mới thấy được tình cảm giữa Những người cán bộ đâu chỉ dành sự hết tâm trí cho sự nghiệp Cách mạng
quân và dân ấm nồng, thân thương, trìu mến như là ruột rà máu mủ, như là mà còn phải tập trung vào lớp học “i tờ”để giúp người dân Việt Bắc vùng sâu
anh em một nhà. Người ra đi nhớ từng "rừng nứa", "bờ tre" nhớ từng dòng vùng xa học lấy con chữ. Người lính giờ như một người giáo viên giúp đồng
sông, con suối đã gắn bó thân thuộc với họ suốt những năm kháng chiến. Với bào Việt Bắc xoá đi nạn mù chữ. Những gương mặt phấn khởi của người dân
những hình ảnh liệt kê tình cảm nhớ thương đã in đậm, hằn sâu trong trái tim, đồng bào khi được tiếp xúc với con chữ đã luôn là một kí ức đẹp đối với
trở thành một điều gì đó quá đỗi quen thuộc trong từng phần màu thịt. Nỗi nhớ người ra đi. Cuộc sống nơi chiến khu đầy gian nan những vẫn có những đêm
của người ra đi lan toả đến từng ngóc ngách của mảnh đất việt Bắc. Bức liên hoan đầy vui vẻ, kết nối thêm tình cảm giữa quân và dân. Gác lại những
tranh thiên nhiên trong kí ức mang nét đẹp thơ mộng, huyền ảo, được cảm mất mát, hi sinh đau buồn, quên đi tiếng súng, tiếng đạn họ đã cùng với đồng
bào Việt Bắc hoà mình vào đêm hội liên hoan sáng rực ánh lửa. Trong chặng “Ve kêu rừng phách đồ vàng
đường hiểm nguy người lính vẫn vui vẻ cất vang lời ca tiếng hát lạc quan yêu Nhớ cô em gái hái măng một mình’
đời, như xua tan đi hết bao mệt nhọc và thắp lên ngọn lửa niềm tin vào ngày Mùa hè rực lên sắc vàng của rừng phách “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Câu
mai chiến thắng. Những niềm vui tuy bé nhỏ thế nhưng lại là một nguồn động thơ tạo cảm giác liên tưởng tiếng ve như nhuộm vàng cả rừng phách, được
lực to lớn tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ vượt qua những khó khăn, thế hiện qua động từ "đổ" và càng sống động hơn khi ở đó còn thấp thoáng
thử thách. Khép lại thước phim về cuộc sống sinh hoạt trong kháng chiến là bóng dáng cô sơn nữ “ hăng hái một mình”. Hai chữ "một mình" tưởng như cô
những âm thanh bình dị quen thuộc của cuộc sống nơi đây “Nhớ sao tiếng gái cô đơn nhưng lại không hề, bởi xung quanh cô là bức tranh thiên nhiên
mõ rừng chiều/ Chày đêm, nện cối đều đều suối xa..." là âm thanh tiếng tươi đẹp tràn đẩy sức sống của mùa hè.
mõ trâu bò về bản mỗi khi chiều buông, là âm thanh tiếng chày giã gạo nghe “Rừng thu trăng rọi hòa bình
vui tai vào đêm khuya, trong tiếng suối chảy róc rách nơi rừng núi thơ mộng Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
nghe tươi vui rộn rã . Hai câu thơ cuối của đoạn thơ vọng lên thanh âm gợi tả Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu. Đêm thu có ánh trăng rọi
lại bức hoạ yên ả, nhẹ nhàng lại thoáng nét trữ tình.. qua vòm là tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này thích hợp với
Đoạn thơ với thể thơ lục bát, nghệ thuật điệp từ, điệp khúc cùng giọng thơ việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao
mượt mà, êm ái như đưa người đọc quay trở về với những kỉ niệm sâu lắng duyên . Câu thơ gợi khôngkhí thanh bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc
của một thời kháng chiến gian nan, anh dũng, thắm thiết tình quân dân. Chính sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên tức "rừng thu"
vì vậy mà Việt Bắc trở thành người yêu, người thương trong nỗi nhớ của với vũ trụ tức "trăng" với cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hòa hợp của
người ra đi “Nhớ gì như nhớ người yêu”. những tâm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại. Người về còn nhớ cả
Là lời của người ra đi, nhớ về những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Đó là tâm hồn, là ình cảm của những con
và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi: người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ mang trong mình những rung
“Ta về mình có nhớ ta động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời.
Ta về ta nhớ những hoa cùng người” Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc. Con người là
Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc. “Hoa” là cách nói hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu lục
của nghệ thuật tượng trưng cho thien nhiên và cũng là một bộ phận của thiên nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con người gắn bó khăng khít với
nhiên.Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang sơ và thêm có hồn. Giữa thiên
soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên, người là sản nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với
phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hóa. Vì vậy, khi nhớ người thì nhớ tới hoa, khi lao động. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho
nhớ hoa thì nhớ tới người là ngụ ý ngời ca vẻ đẹp người ở lại. Một bức tranh nhau.
thiên nhiên Việt Bắc phong phú rực rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của Thể thơ lục bát, điệp khúc “mình-ta”, “ta-mình”. Kết cấu tương đồng , câu lục
bốn mùa: nhớ cảnh câu bát nhớ người, nhịp điệu thơ mượt mà, sâu lắng mở ra trước
‘Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi mắt người đọc khung cảnh đa dạng của Việt Bắc qua 4 mùa đông, xuân, hè,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” thu với đủ màu sắc, đường nét, âm thanh. Thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, thơ
Hình ảnh hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa gam màu xanh bạt ngàn của núi rừng mộng, trữ tình. Và nổi bật trên nền cảnh ấy là hình ảnh con người lao động
như xua đi cái lạnh lẽo, băng giá nơi đây. Và càng đẹp hơn nữa là hình ảnh khỏe mạnh, cần cù, chăm chỉ, tài hoa... thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà
con người trên đèo cao "nắng ánh dao gài thắt lưng” mang dáng vẻ mạnh mẽ, thơ đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.
khoẻ khoản của người đi rừng đang bước những bước vững chắc trên đèo Đoạn thơ ca ngợi sức mạnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc
cao. Ở bốn câu thơ đầu tiên, tác giả Tố Hữu như đã tái hiện lại trước mặt độc giả
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng một khung cảnh căng thẳng của cuộc kháng chiến:
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Mùa xuân cả cánh rừng ngời lên sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, lấn át cả Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
màu xanh của núi rừng, gợi sự thanh thản, nhẹ nhàng, ấm áp cho mùa xuân. Núi giăng thành luỹ sắt dày
Và nối bật trên nền cảnh ấy là con người lao động đang cần cù, tỉ mỉ, miệt Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
mài, chin chu, khéo léo với công việc trong từng động tác, “chuốt từng sợi Mênh mông bốn mặt sương mù
giang”. Động từ “chuốt” nhấn mạnh điều này. Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Khung cảnh hiện lên thật căng thẳng, đầy nguy hiểm, đó là khi giặc tới lùng thế hừng hực trong cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt và vĩ đại. Một thời
bắt bộ đội ta. Thế nhưng, tuy trong hoàn cảnh nguy nan là vậy, người lính kì hào hùng, mang vẻ đẹp sử thi song cũng rất lãng mạn.
cũng không hề sợ hãi. Khung cảnh giờ đây thật hào hùng khiến chúng ta "Những đường Việt Bắc của ta
dường như cũng cảm thấy tự hào về những thắng lợi của cuộc chiến mà ta đã Đêm đêm rầm rập như là đất rung
đạt được. Chúng ta cũng không hề chiến đấu một mình, chúng ta chiến đấu Quân đi điệp điệp trùng trùng
cùng với thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Thiên nhiên từ lâu đã Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan."
được coi là người bạn của con người. “Đại từ “ta thể hiện sự hợp lực giữa Hình ảnh "đường Việt Bắc của ta" được nhà thơ nhắc đến với niềm tự hào
thiên nhiên và con người đã tạo nen sức mạnh vô song, sức mạnh Việt Nam vang dội trong trống ngực khi được làm chủ đất nước. Từng đoàn quân nối
đánh thắng kẻ thù. Qua phép nhân hóa, so sánh trong câu thơ “Núi giăng đuôi nhau "điệp điệp trùng trùng" ra trận trong đêm trên con đường đất dài
thành lũy sắt dày” ta như thấy hiện lên hình ảnh núi sát núi giăng lên thành lũy thênh thang, những bước chân "rầm rập" như làm rung chuyển cả đất trời. Từ
sắt dày kiên cố, khiến quân thù không thể nào phá vỡ mà tiến vào láy "rầm rập" không chỉ gợi ra âm thanh bước chân dồn dập đầy hối hả, khẩn
được.”Rừng che bộ đội , rừng vây quân thù” nghệ thuật tiểu đối, điệp từ, nhân trương mà còn giúp cho người đọc hình dung ra sức mạnh và khí thế sục sôi
hóa, đối với bộ đội rừng che chở bảo vệ, đối với giặc rừng bao vây bốn phía. của đoàn quân. Cặp từ láy, "trùng trùng", "điệp điệp" đã tạo ra tính nhạc điệu
Song song với sức mạnh của núi và rừng là sức mạnh của sương mù “Mênh cho câu thơ, làm nổi bật sự dài vô tận của đoàn quân, cứ lớp người này đến
mông bốn mặt sương mù” tả thực , nhấn mạnh sương mù che khuất tầm nhìn, lớp người khác nối tiếp nhau bước đi như những đợt sóng trào. Một đội quân
tầm quan sát của giặc, khiến giặc không thể định hướng được quân ta đang ở hùng hậu, đông đảo về lực lương, mạnh mẽ về tinh thần, khí thế, sẵn sàng
đâu. Còn ta thì chủ động xông ra tiêu diệt giặc. Thiên nhiên và con người đánh tan quân xâm lược.
đồng tâm hiệp lực với nhau như vậy thì chiến thắng là lẽ tất yếu. Không chỉ Một hình ảnh thật đẹp đã xuất hiện trong thơ Tố Hữu đó là "ánh sao đầu súng
đơn giản là những sự vật vô tri, vô giác, giờ đây thiên nhiên cũng trở thành bạn cùng mũ nan". Hai hình ảnh "ánh sao" và "đầu súng" là sự kết hợp hài
một người đồng chí cùng chúng ta sát cánh để bảo vệ đất nước. hòa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn, chấm phá trong cái dữ dội khốc liệt
Rồi đến với tiếp bốn câu thơ tiếp theo, chính là những nỗi nhớ, những kỉ niệm của chiến trường là một nét thi vị trữ tình. Ánh sao như đi theo bước chân
của người lính về nơi đã cùng mình chiến đấu trong suốt mười lăm năm: người chiến sĩ, treo lơ lửng trên đầu ngọn súng soi sáng cho bước đường các
“Ai về ai có nhớ không? anh hành quân. Không chỉ vậy, hình ảnh "ánh sao" còn là biểu trưng cho lý
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng. tưởng Cách mạng cao đẹp của người lính trên con đường kháng chiến gian
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng nan.
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...” Trong cuộc chiến đầy khốc liệt này, không chỉ có mỗi người chiến sĩ phải
“Ai về” dường như là câu hỏi được đặt ra cho những người đồng đội đã cùng hành quân ra trận mà đến cả những người dân cũng cùng chung tay góp
vào sinh ra tử với mình, hay cũng có lẽ là câu hỏi tu từ mà chính người ra đi thêm sức chiến đấu :
đang tự vấn bản thân mình. Mười lăm năm sinh sống, chiến đấu ở mảnh đất "Dân công đỏ đuốc từng đoàn
này sao có thể cứ nói đi là đi được? Câu hỏi tu từ ấy cũng chỉ là cái cớ để nhà Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay."
thơ bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi trước những thắng lợi vang dội được bắt Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
đầu từ Việt Bắc thông qua một loạt địa danh được liệt kê ra như “ Phủ Thông”, Đèn pha bật sáng như ngày mai lên."
“đèo Giang”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao- Lạng”, “Nhị Hà”. Đó không chỉ là Đây là một hình ảnh rất quen thuộc trong kháng chiến. Không chỉ có quân đội
những chiến công mà còn là niềm tự hào về nó, về những chiến sĩ và con ra trận mà đêm đêm cũng trên những nẻo đường Việt Bắc đầy, từng đoàn dân
người, thiên nhiên Việt Bắc đã gắn kết với nhau, đoàn kết thành một khối để công đủ mọi thành phần, lứa tuổi già trẻ gái trai, ai có tinh thần yêu nước thì
chiến đấu và bảo vệ từng phần nhỏ nhất của đất nước. xung phong tài hàng ra mặt trận trên mọi phương tiện với mong muốn đóng
Đoạn thơ với thể thơ lục bát, nghệ thuật nhân hóa, liệt kê, điệp từ, câu hỏi tu góp sức mình cho tổ quốc.. Dù cho có khó khăn, họ vẫn không quản ngày
từ, tiểu đối, nhịp điệu, thơ vừa mượt mà, sâu lắng, vừa hồ hởi, phấn khởi đã đêm mà tiếp tục công việc, dưới ảnh lửa bập bùng của ngọn đuốc đỏ hỏn họ
làm sống dậy những ngày đầu oanh liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp ở say mê hoà mình vào với niềm vui lao động như cái cách họ hoà mình vào
chiến khu Việt Bắc. không khí nhộn nhịp của những đêm liên hoan. Vào thời khắc đó, Cách mạng
Trong hoài niệm của người ra đi Việt Bắc trong kháng chiến hiện lên là bức dường như đã trở thành ngày hội của quần chúng nhân dân.
tranh với những con đường hành quân sôi động. Bằng ngòi bút tài năng của Tố Hữu đã tái hiện lại khí thế mạnh mẽ, quyết liệt của đoàn quân ta qua cách
mình Tố Hữu đã đưa người đọc trở lại khung cảnh đoàn quân ra trận với khí nói ngoa dụ "bước chân nát đá” đã diễn tả sức mạnh của tinh thần đoàn kết,
của lòng yêu nước căm thủ giặc sâu sắc, cả nước cùng xuông đường ra trận, nắng, rực rỡ màu cờ đỏ sao vàng để họp bàn về việc vừa đánh giặc " Điều
dưới sức mạnh đây khiến đá cũng phải nất, đất cũng phải rung. Những con quân chiến dịch Thu -Đông", vừa đảm bảo cuộc sống nhân dân. Một loạt các
người tuy nhỏ bé nhưng lại ẩn chứa một sức mạnh phi thường, luôn có thể sự kiện được nêu ra thông qua phép liệt kê: “Nông thôn phát động, giao thông
vượt lên trên mọi gian khổ, thử thách. mở đường" phát động phong trào giảm nộp tô thuế cho địa chủ và mở thêm
Câu thơ “Nghìn đêm thăm thăm sương dày” mang hàm ý ẩn dụ, nói về những đường xá, cầu cống để người dân tiện đi lại giao lưu sinh hoạt. Giữ đê ,
năm tháng cả dân tọc chìm trong đêm đen nô lệ của chế độ thực dân phong phòng hạn, thu lương” đắp đê cho vững chắc, dự trữ lương thực để đề phòng
kiến. Và nó đối lâp với câu thơ dưới “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” hạn hán, lũ lụt còn có mà cứu trợ cho dân. “Gửi dao miền ngược, thêm
thực tế đèn pha xe cơ giới bật sáng, xé toang màn đêm của núi rừng dày đặc. trường các khu...” gửi các dụng cụ sản xuất như dao, cuốc, xẻng,... lên miền
Thế nhưng trong cái nhìn lãng mạn, lạc quan của tác giả thì lại như ánh sáng núi để nhân dân trên đấy có cái mà lao động và mở thêm các trường học ở
của mặt trời, ánh sang của bình minh, ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến khu để dạy chữ cho đồng bào dân tộc. Có làm tốt những công việc ấy
chiến thắng đang rực sáng lên. thì mới thực hiện được trường kì kháng chiến.
Những câu thơ còn lại của đoạn thơ chính là cảm xúc hân hoan, niềm vui “Ở đâu u ám quân thù
ngập tràn của nhà thơ trước những chiến thắng oanh liệt của đoàn quân : Nhìn lên Việt Bắc : Cụ Hồ sáng soi
"Tin vui thắng trận trăm miền Ở đâu đau đớn giống nòi
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Vui từ Đồng Tháp, An Khê Mười lăm năm ấy, ai quên
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng." Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa.
Những địa danh được liệt kê liên tiếp từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi đến miền Mình về mình lại nhớ ta
ngược và điệp từ "vui" cùng với nhịp thơ nhanh, gấp gáp đã tô đậm, làm nổi Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
bật chiến thắng vang dội, không khí hồ hởi, đầy tự hào của toàn quân, trăm Ngoài ra, Việt Bắc còn là nơi đặt niềm tin và hi vọng của con người Việt Nam
dân. Giọng thơ đầy sôi nổi, trong câu thơ có sự kết hợp giữa khuynh hướng khắp mọi miền tổ quốc. Đặc biệt là những nơi “u ám quân thù”, “đau đớn
sử thi và cảm hứng lãng mạn, với từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm đoạn thơ đã giống nòi” cách nói ần dụ, tượng trưng, nhấn mạnh những vùng đang nằm
trở thành một khúc khải hoàn ca chiến thắng đầy hào hùng, làm nổi bật âm trong khu vực địch tạm chiến, bị giặc áp bức, giày xéo,... thì hãy trông về Việt
hưởng của quân dân Việt Bắc trong những ngày cuối của cuộc kháng chiến. Bắc bởi ở đấy có Đảng, có Bác “Cụ Hồ sáng soi”, có những người dân anh
Đoạn thơ với thể thơ lục bát, phép liệt kê, so sánh, điệp từ, từ láy, cách nói hùng, gan dạ, quyết liệt chống kẻ thủ, sắc son với cách mạng và đấy cũng là
ngoa dụ, hình ảnh tượng trưng, cùng giọng thơ mang âm hưởng sử thi, tái “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa” để được tiếp thêm sức mạnh
hiện khung cảnh Việt Bắc trong những ngày đầu kháng chiến. Khí thế hào của niềm tin và hy vọng vào tương lai ngày mai tươi sáng.
hùng của toàn quân và toàn dân đã giáng cho thực dân Pháp những đòn chí Với một Việt Bắc kháng chiến anh hùng, thủy chung son sắc như thế, người
mạng. ra đi làm sao có thể quên được, cho nên khép lại đoạn thơ, tác giả một lần
Đoạn thơ là lời của người ra đi nhớ về cảnh và con người Việt Bắc cùng các nữa láy lại điệp khúc “mình – ta”, “ta – mình” để khẳng định tình cảm trước
kỉ niệm kháng chiến sau như một, dạt dào, bến chặt.
“ Ai về ai có nhớ không ? Đoạn thơ với thể thơ lục bát,nghệ thuật liệt kê, câu hỏi tu từ, hình ảnh ấn dụ
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.. tượng trưng, cùng giọng thơ mượt mà, sâu lắng, trang trọng đã thể hiện được
Nắng trưa rực rỡ sao vàng niềm tin của nhà thơ đối với Trung ương, chính phủ và đặc biệt đối với Bác Hồ
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công và với nhân dân Việt Bắc. Niềm tin của tác giả cũng là niềm tin của cả dân tộc
Điều quân chiến dịch Thu-Đông Việt Nam.
Nông thôn phát động, giao thông mở đường Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về
Giữ đê, phòng hạn, thu lương cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu.... cấu đối đáp và ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian - tất cả đã góp phần
- Câu thơ: “Ai về gi có nhớ không?” là câu hỏi tu từ tác giả hỏi ai hay tự hỏi khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền
chính mình để bọc lộ cảm xúc đối với Việt Bắc.Việt Bắc là chiến khu vững thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng,
chắc, là nơi đóng quân của các cơ quan đầu não Trung ương, chính phủ. của con người Việt Nam.
Cuộc họp của Trung ương, chính phủ diễn ra trong hang núi, chan hoà ánh

You might also like