You are on page 1of 7

26.

Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Với di sản của ông Lưu thì bà Thẩm sẽ được hưởng như sau:
Ta có giả định: Di sản ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng, hàng thừa kế thứ nhất
theo thừa kế pháp luật dựa vào Điều 676 BLDS 2005 của ông Lưu bao gồm bà Thẩm
và chị Hương. Vậy là suất người thừa kế theo pháp luật sẽ là 300 triệu đồng.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 669 BLDS 2005:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Vì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu nên bà sẽ được hưởng phần di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, tức là 200 triệu
đồng.
27. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có
được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì thì yêu cầu của bà
Thẩm không được chấp nhận. Vì hiện nay nước ta chưa có quy định cụ thể về việc
chia di sản bằng hiện vật mà chỉ nêu những người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc (Điều 644 BLDS 2015). Nên khi xét xử thì Tòa án sẽ căn cứ vào
từng trường hợp mà Tòa án sẽ chấp nhận hay không chấp nhận. Trong trường hợp này,
Tòa án sẽ theo hướng tôn trọng ý chí cá nhân của người để lại di chúc là ông Lưu
muốn để lại nguyên căn nhà cho bà Xê. Vì vậy, bà Thẩm sẽ chỉ được nhận thừa kế là
phần tiền đã được trị giá phần tài sản bà được hưởng.
28. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho thấy
bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Trong Bản án số 2493, bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh
được thể hiện ở đoạn:
"Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lâm (chết năm 1938) có 2 con là bà
Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932. Cụ Khánh và cụ
Nguyễn Tài Ngọt (chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930.
Năm 2000 cụ Khánh chết. Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh
một cách đầy đủ nhưng đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót,
ông Tâm, ông Nhật và không có tranh chấp gì về hàng thừa kế đồng thời cũng xác
nhận cha mẹ của cụ Khánh chết trước cụ Khánh đã lâu."
29. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Trong vụ việc trên, ông Nhật là người duy nhất được cụ Khánh di chúc cho
hưởng trọn căn nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, thành phố Hồ Chí Minh.
30. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ
Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên. Trong
đoạn của phần Xét thấy, Hội đồng xét xử nhận định:
"Xét yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả năng lao động vì tại thời điểm mở
thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi... Các nguyên đơn cũng không xuất trình
được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở thừa kế học là những người không có
khả năng lao động."
31. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Bà Khót và ông Tâm không được Toà án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong đoạn của phần Xét thấy:
"... Hơn nữa, từ trước đến nay ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập,
không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà
hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo diện người có công
với cách mạng khoảng 400.000 đồng; còn ông Tâm tuy là thương binh 2/4, theo quy
định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng
chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000 đồng nên Hội
đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về
người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể mỗi người
được hưởng là 400.000.000 đồng."
Vì vậy, Hội đồng xét xử đã ra Quyết định: “Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của bà Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm về việc được hưởng di sản của cụ Khánh
mỗi người là 400.000.000 đồng theo diện những người được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc”.
32. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án khi quyết định không cho ông Tâm, bà
Khót nhận di sản không theo nội dung di chúc là hợp lý. Vì:
Theo Tòa án:
Xét yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả năng lao
động vì tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi
lại là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 146 của Bộ luật lao động năm
1994 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60
tuổi đối với nam và từ 16 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ. Bên cạnh đó, tại
chương lao động là người cao tuổi của Bộ luật lao động còn có các quy
định về chế độ đối với người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ
61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn
tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc tham gia quan
hệ lao động tuỳ thuộc vào thể lực, trí lực và tinh thần của từng người.
Do đó, độ tuổi lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để
được hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định
một người không còn khả năng lao động. Các nguyên đơn cũng không
xuất trình được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là
những người không có khả năng lao động.
Vì chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng trực tiếp quy phạm “con đã thành niên
mà không có khả năng lao động” nên chúng ta có thể áp dụng tương tự pháp luật, cụ
thể tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì:
Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng
lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại
không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai
chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81%
trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị
thiệt hại.
Và khoản 1 Điều 644 BLDS 2005 quy định:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần
ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo
pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng
di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi
họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc
họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản
1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Căn cứ vào hai quy định trên thì bà Khót và ông Tâm không thuộc trường hợp
mất khả năng lao động nên không được hưởng thừa kế theo diện những người thừa kế
không phụ thuộc vào di chúc. Ngoài ra, bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, sống tự
lập, được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo diện người có công với cách
mạng và việc ông Khót được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng. Tuy
nhiên, việc Tòa án căn cứ vào việc người có gia đình, có tài sản riêng, được hưởng
chính sách đãi ngộ của nhà nước sẽ không được nhận di sản không phụ thuộc vào nội
dung di chúc là không cần thiết, bất hợp lý. Tòa án cần chỉ ra bà Khót và ông Tâm
không mất khả năng lao động để bác bỏ luận điểm tuổi cao và bị thương tật. Do đó,
quyết định của Tòa án là thỏa đáng nhưng căn cứ xác lập có phần bất hợp lý.
33. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động?
Vì sao?
Hướng giải quyết sẽ khác khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động. Bởi
vì, theo tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP, có nội dung
hướng dẫn như sau:
Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng
lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường
hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao
động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc
người bị thiệt hại.
Từ quy định trên ta có thể thấy, người bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn
từ 81% trở lên là người mất khả năng lao động vĩnh viễn. Ông Tâm là thương binh
mất 85% sức lao động nên ông là người mất khả năng lao động. Nên theo khoản 2
Điều 669 BLDS 2005 thì người có thể nhận di sản không phụ thuộc vào nội dung di
chúc là “Con thành niên mà không có khả năng lao động”. Vậy yêu cầu nhận di sản
không phụ thuộc nội dung di chúc của ông Tâm là hoàn toàn hợp lý và sẽ được chấp
nhận.
34. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
CSPL: Điều 457, 458, 459, 462, 624, 625, 631, 643, 644 BLDS 2015.
Giống nhau: Mục 3 Chương XVI của BLDS 2015.
– Đều là hình thức chuyển quyền sở hữu tài sản của bản thân cho chủ thể khác
trên tinh thần tự nguyện giữa các bên.
– Đều có đối tượng chung là tài sản.
Khác nhau:

Tiêu chí Di chúc Tặng cho tài sản


1. Căn Chương XXII BLDS năm 2015. Mục 3 Chương XVI của BLDS
cứ pháp 2015.

Là sự thể hiện ý chí của cá nhân Là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
nhằm chuyển tài sản của mình cho đó bên tặng cho giao tài sản của
2. Khái người khác sau khi chết. ý chí đơn mình và chuyển quyền sở hữu cho
niệm phương của một người định đoạt tài bên được tặng cho mà không yêu
sản của cá nhân người đó. cầu đền bù, bên được tặng cho
đồng ý nhận.
– Đây là một giao dịch dân sự thể – Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí
hiện ý chí đơn phương của một song phương giữa người cho và
người định đoạt tài sản của cá nhân người được tặng và họ phải còn
người đó cho những người thừa kế; sống tại thời điểm cho – nhận tài
– Người thừa kế thường là người sản;
thân của người lập di chúc như: cha, – Người được tặng cho có thể là
3. Đặc
mẹ, con cái…; người thân thích hoặc bất kỳ ai;
điểm
– Khi người lập di chúc không để – Khi tặng cho tài sản thì người
lại di sản cho những người được tặng và những người thừa kế
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào không phụ thuộc vào nội dung của
nội dung của di chúc thì họ vẫn di chúc không được phép đòi chia
được hưởng 2/3 suất của một người di sản đã được tặng cho.
thừa kế theo pháp luật.
4. Đối – Tài sản. – Tài sản (phải là tài sản đang có,
đang tồn tại chứ không phải tài sản
tượng
hình thành trong tương lai).
– Người để lại di sản phải là người – Đáp ứng đủ điều kiện được thực
thành niên, minh mẫn, sáng suốt hiện giao dịch dân sự theo quy
trong khi lập di chúc; không bị lừa định.
dối, đe doạ, cưỡng ép. Với người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được
lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc
người giám hộ đồng ý.
– Người được hưởng thừa kế theo
di chúc:
5. Chủ
+ Nếu là cá nhân phải còn sống vào
thể
thời điểm mở thừa kế. Bên cạnh đó
người được nhận di sản phải được
sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế nhưng đã thành thai
trước khi người để lại di sản chết.
+ Trường hợp người hưởng thừa kế
theo di chúc không là cá nhân thì
phải phải tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế.
– Phải được thể hiện rõ trong di – Nếu hợp đồng tặng cho là động
chúc; sản: Có hiệu lực kể từ thời điểm
6. Thời – Người thừa kế chỉ được nhận di bên được tặng cho nhận được tài
điểm sản sau khi người lập di chúc chết. sản;
nhận – Đối tượng của hợp đồng là bất
được tài động sản: Phải lập thành văn bản
sản có công chứng, chứng thực hoặc
phải đăng ký và có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký.
Người thừa kế được quyền nhưng Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp
7. Thực
đồng thời phải có trách nhiệm thực đồng không có đền bù. Do đó,
hiện
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết người được tặng cho không phải
nghĩa vụ
để lại. hoàn trả một lợi ích hay thực hiện
tài sản
một nghĩa vụ tài sản nào.
8. Điều Chưa có Điều luật về di chúc có – Điều 462 BLDS năm 2015 quy
kiện điều kiện. định về tặng cho tài sản có điều
kiện, cụ thể:
1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên
được tặng cho thực hiện một hoặc
nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi
tặng cho. Điều kiện tặng cho
không được vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp phải thực hiện
nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu
bên được tặng cho đã hoàn thành
nghĩa vụ mà bên tặng cho không
giao tài sản thì bên tặng cho phải
thanh toán nghĩa vụ mà bên được
tặng cho đã thực hiện.
3. Trường hợp phải thực hiện
nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên
được tặng cho không thực hiện thì
bên tặng cho có quyền đòi lại tài
sản và yêu cầu bồi thường thiệt
hại.

You might also like