You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI


VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG

MÔN: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI


NGOÀI HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: ThS. NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI
NHÓM 05 - LỚP DS45.1
Danh sách thành viên:
STT HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
1 Hoàng Thị Đào 2053801012047
2 Đỗ Nguyễn Hoàng Anh 2053801012009
3 Tạ Minh Anh 2053801012023
4 Trần Tuyết Anh 2053801012026
5 Bùi Công Dân 2053801012044
6 Phan Thành Đạt 2053801012051
7 Nguyễn Phương Đông 2053801012060
8 Đỗ Thị Hương Giang 2053801012069
9 Đỗ Mỹ Hằng 2053801012083

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 1 tháng 10 năm 2021

Mục lục
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG..................................1
Câu 1.1: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.. .1
VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG......2
Câu 2.1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?.........................................................................................................2
Câu 2.2: Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?.......................................3
VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC. .5
Câu 3.1: Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015
và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu...........................................................5
Câu 3.2: Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?......................................................6
Câu 3.3: Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực
hiện được có thuyết phục không? Vì sao?......................................................................7
VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI SẢN
........................................................................................................................................... 8
Câu 4.1: Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?......................................................9
Câu 4.2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?........................................9
Câu 4.3: Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu.............................................................................................................................. 10
Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu...........................................................................................................10
Câu 4.5: Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?..............................11
Câu 4.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)?.................................................................................................................... 11
Câu 4.7: Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.......................................................................................................11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG


Câu 1.1: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
(1) D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình nhưng D
không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C. Vì vậy, bên
đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400
BLDS 2015.
(2) Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân); B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi cho D một đề
nghị giao kết hợp đồng. Tháng 1/2020 và tháng 2/2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận
đề nghị. Vì vậy, chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của
Điều 394 BLDS 2015.
(3) D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình nhưng D
không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C (C không
thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D). Vì vậy, chấp nhận trên của D
là đề nghị giao kết mới theo Điều 386 đề nghị giao kết hợp đồng.

Theo tôi, hướng giải quyết như trên của tòa án là hoàn toàn hợp lý. Tòa án đã xét
rằng: (1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định
của Điều 400 BLDS 2015; (2) chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo
quy định của Điều 394 BLDS 2015; (3) chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.
Trong tình huống trên D không chấp nhận hoàn toàn lời đề nghị của A, B, C do chỉ gửi
cho A, B chấp nhận đề nghị mà không gửi cho C (C không thừa nhận đã nhận được chấp
nhận đề nghị giao kết của D). Nếu chấp nhận thì phải chấp nhận hoàn toàn lời đề nghị
còn không chấp nhận hoàn toàn thì được xem như một lời đề nghị mới. Do đó hướng giải
quyết của tòa án là hợp lý.
2

VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP


ĐỒNG
Tóm tắt nội dung Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn: bà Kiều Thị Tý ông Chu Văn Tiến.
- Bị đơn: ông Lê Văn Ngự.
- Nội dung vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996. Sau khi mua nhà đất, ông Tiến bà
Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi
đó gia đình ông Ngự bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại liền kề với nhà ông Tiến bà
Tý. Theo lời khai của các người con ông Ngự bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ
chồng bà Tý ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi
chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến bà Tý thì ngày 26/4/1996, ông Ngự còn viết
“giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng nhà
trên phần đất còn lại. Trong thực tế vợ chồng bà Phấn ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất
của bà Tý ông Tiến khi xây dựng nhà. Cuối năm 2006, ông Ngự tự ý phá cửa vào ở và
xây một bức tường ngăn giữa phần mái hiên của căn nhà cấp 4 giáp mặt đường Xuân La.
Nay bà Tý kiện đề nghị Tòa án buộc gia đình ông Ngự phải thực hiện đúng hợp đồng đã
ký kết và buộc gia đình ông Ngự trả nhà đất (phần diện tích mặt đường Xuân La). Tại
Bản dân sự sơ thẩm, Tòa án đã quyết định buộc gia đình ông Ngự trả lại toàn bộ diện tích
đất đường Xuân La cho gia đình bà Tý. Bà Tý thanh toán cho gia đình ông Ngự số tiền là
13.759.000đ giá trị xây dựng, cải tạo tại diện tích 23,4m 2. Tại Bản án dân sự phúc thẩm
sửa một phần về giá trị xây dựng cải tạo tại diện tích 23,4m 2 là 13.759.000đ, vợ chồng
ông Lê Văn Ngự bà Trần Thị Phấn phải tự chịu.
Câu 2.1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?
Theo khoản 2, Điều 404 BLDS 2005 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự
“Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được
3

đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”. Như
vậy BLDS 2005 coi im lặng trong giao kết là một sự trả lời chấp nhận giao kết.
Theo khoản 2, Điều 393 BLDS 2015 quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các
bên.”. Như vậy, BLDS 2015 đã bổ sung chế định về im lặng trong quá trình giao kết hợp
đồng tại quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, xem sự im lặng của bên được
đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc
theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Thực tế, trong thời gian qua, nhiều tranh chấp phát sinh từ việc im lặng trong khi
nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, BLDS 2015 quy định cụ thể vấn đề này nhằm hạn
chế những trường hợp phát sinh tranh chấp không đáng có từ việc im lặng này. Hơn nữa
việc điều chỉnh này giúp mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh phù hợp với thói quen,
tập quán giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa.
Câu 2.2: Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?

Việc toà án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống trên là chưa thực sự thuyết phục: Vì khi áp dụng Án lệ để giải quyết, thì
cần xét đến điều kiện “áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau” (khoản 2
Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao).

Như vậy, nếu so sánh giữa vụ việc trong Án lệ số 04/2016/AL với vụ việc trong tình
huống này, chúng ta nhận thấy có sự khác biệt:
+ Thứ nhất, tình tiết trong Án lệ liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, còn tình tiết
trong tình huống đề cho liên quan đến tài sản của hộ (tức bao gồm tài sản chung của vợ
chồng và cả của 5 người con).
4

+ Thứ hai, Án lệ số 04/2016/AL chỉ dừng lại ở việc giải quyết khi người còn lại (vợ
hoặc chồng) không ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhưng có đủ các căn cứ được nêu ra
ở Án lệ thì phải khẳng định rằng người đó đồng ý với hợp đồng chuyển nhượng.
Nếu áp dụng Án lệ số 04/2016/AL đối với tình huống này thì hệ quả là:

Khẳng định được: ông Bùi đồng ý với việc chuyển nhượng đất vì tình huống có nêu
rõ: bà Chu, ông Bùi đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Văn (tức đã có căn cứ
để chứng minh ông Bùi có biết và tham gia chuyển nhượng đất). Năm 2004, ông Văn xây
dựng chuồng trại trên đất chuyển nhượng mà các bên đã làm thủ tục chuyển nhượng, ông
Văn đã được cấp giấy chứng nhận và gia đình ông không có ý kiến gì, tức có thể ngầm
hiểu rằng ông Bùi biết và không phản đối.

Tuy nhiên, lại không giải quyết được cho trường hợp các con bà Chu ông Bùi yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng vô hiệu vì lý do chưa có sự đồng ý của họ. Giả
thiết rằng, trong 5 người con này, vào năm 2001 có người con chưa đủ tuổi nhận thức về
việc chuyển nhượng đất giữa cha mẹ họ và ông Văn và đến năm 2004 vẫn chưa đủ tuổi
nhận thức về việc ông Văn xây dựng chuồng trại và làm thủ tục chuyển nhượng thì “gia
đình bà Chu ông Bùi không ai có ý kiến gì” cũng không đủ căn cứ để khẳng định người
con này đồng ý hay không đồng ý. “NAY” vì đề bài không nêu rõ thời gian, giả sử là
năm 2018 người con này đã có đầy đủ năm lực hành vi dân sự mới yêu cầu Toà án tuyên
bố giao dịch chuyển nhượng này là vô hiệu thì cũng chưa thể giải quyết được thoả đáng.

Do đó, Án lệ số 04 chưa giải quyết được triệt để vụ việc trong tình huống đề cho nên
nếu chỉ áp dụng Án lệ 04/2016/AL để công nhận hợp đồng trong tình huống trên là không
hoàn toàn thuyết phục.
5

VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN
ĐƯỢC
Câu 3.1: Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015
và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.

- Điều 408 BLDS 2015: Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

1.   Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì
hợp đồng này bị vô hiệu.

2.   Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thể thông báo cho bên kia biết
nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được.

3.   Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại
của hợp đồng vẫn có hiệu lực. 

- Điều 411 BLDS 2005: Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được.

1.   Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2.   Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
dồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết
6

nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được.

3.   Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có
một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp
đồng vẫn có giá trị pháp lý.

Trong BLDS 2005: Các nhà lập pháp xác định nguyên nhân không thể thực hiện
được hợp đồng là do đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan. Vì vậy nếu
không thể thực hiện được vì lí do chủ quan thì không thể áp dụng được. Trong thực tiễn
có những hợp đồng được Toà án tuyên bố vô hiệu vì lí do chủ quan. Như vậy BLDS 2015
bỏ đi cụm từ “vì lý do khách quan” sẽ giúp cho đối tượng rộng hơn.

Trong BLDS 2005: Các nhà lập pháp dùng từ “ký kết” thì chỉ áp dụng cho những
trường hợp hợp đồng được lập bằng văn bản. Vậy những hợp đồng không được lập bằng
văn bản như lời nói sẽ không được áp dụng. BLDS 2015 thay bằng từ “giao kết” sẽ được
áp dụng rộng hơn.
Câu 3.2: Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
CSPL: Điều 408 BLDS 2015 quy định về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không
thể thực hiện được:
1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì
hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia
đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết
hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của
hợp đồng vẫn có hiệu lực.
7

Theo lý thuyết, vô hiệu là chế tài được áp dụng khi hợp đồng không đáp ứng được
các điều kiện có hiệu lực tại thời điểm giao kết. Nếu tại thời điểm giao kết, đối tượng của
hợp đồng có thể thực hiện được nhưng trong thời gian thực hiện hợp đồng, đối tượng trở
nên không thể thực hiện được thì hợp đồng sẽ không thể bị vô hiệu mà sẽ bị chấm
dứt. Quy định này được thể hiện rõ tại khoản 5 Điều 422 BLDS 2015. Theo đó, hợp đồng
chấm dứt nếu hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng không còn. Đối tượng của
hợp đồng là một bộ phận quan trọng của nội dung hợp đồng. Nếu đối tượng của hợp đồng
không tồn tại, hợp đồng không thể thực hiện được và có thể bị tuyên bố vô hiệu. Theo đó,
đối tượng của hợp đồng không tồn tại đồng nhất với việc đối tượng không thể thực hiện
được và thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 408 BLDS 2015.
Câu 3.3: Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể thực
hiện được có thuyết phục không? Vì sao?
Tuyên bố của Tòa án là chưa thuyết phục do:
- Thứ nhất, ông A không có vi phạm trường hợp nào trong các trường hợp giao dịch
dân sự được coi là vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128, 129 BLDS 2015.
- Thứ hai, mảnh đất đó là thuộc quyền sử hữu của ông A dù trên đó có căn nhà thuộc sở
hữu người khác nhưng không có nghĩa mảnh đất đó cũng là thuộc quyền sở hữu của
người cất nhà đó.
Cho nên khi xảy ra tranh chấp thì về phía ông A và Ngân hàng thì hợp đồng thế chấp
vẫn có hiệu lực.
Trường hợp 1: Việc giải quyết giữa ông A và người có căn nhà trên mảnh đất đó theo
pháp luật quy định tại Điều 16 Luật Đất đai năm 2013, thì ông A có quyền sử dụng được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận đối với mảnh đất này, do đó ông A có quyền
đề nghị chủ căn nhà dời đi chỗ khác. Vì thế ông A có thể thỏa thuận với chủ căn nhà bồi
thường và hỗ trợ người đó chuyển đi sang chỗ khác sống, không được sống trên mảnh đất
của ông A nữa. Trong trường hợp chủ sở hữu căn nhà không chấp nhận thì đây cũng là vụ
việc khác giữa ông A và chủ sở hữu căn nhà.
Trường hợp 2: Việc giải quyết giữa ngân hàng và chủ sở hữu căn nhà. Bên phía ngân
hàng có thể bán căn nhà đó đi và trả lại số tiền tương ứng cho người sở hữu căn nhà đó,
người sở hữu căn nhà chỉ là bên có nghĩa vụ liên quan.
8

VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI
SẢN
Tóm tắt: Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP. Thủ
Dầu Một tỉnh Bình Dương.
- Nguyên đơn: bà Trần Thị Diệp Thủy.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang.
Ngày 23/11/2013 để đảm bảo cho việc vay mượn bà Thủy và bà Trang thiết lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giá chuyển nhượng 200.000.000đ, đây là giao
dịch giả tạo để che dấu cho việc bà Thủy cho bà Trang vay số tiền 100.000.000đ. Bà
Trang hứa là trong 6 tháng sẽ thanh toán cho bà Thủy hết số tiền đã vay, nhưng đến hạn
trả nợ bà Trang chỉ trả 5.000.000đ số còn lại không trả. Vì vậy, bà Thủy khởi kiện yêu
cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên là vô hiệu vì đây
là giao dịch giả tạo nhằm che dấu cho việc vay mượn và bà Trang có nghĩa vụ trả bà số
tiền là 95.000.000đ. Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương quyết
định tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn vô
hiệu, yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn số tiền số tiền là 95.000.000đ.
Tóm tắt: Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
9

Bà Võ Thị Thu (nguyên đơn) cho bà Đặng Thị Kim Anh (bị đơn) vay số tiền tổng
cộng là 3,7 tỷ đồng. Tháng 11/2009, bà Thu có đơn tố cáo vợ chồng bà Anh lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là 3,7 tỷ đồng. Ngày 14/02/2010, bà Anh trả bà Thu 600 triệu đồng,
thừa nhận còn nợ 3,1 tỷ đồng, đồng thời cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh
chấp) để trả nợ cho bà Thu. Nhưng bà Anh lại làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên
cho ông Vượng bà Nga. Thỏa thuận chuyển nhượng nhà đất của vợ chồng bà Anh và vợ
chồng ông Vượng là 680 triệu đồng (giá trị thực tế là gần 5,6 tỷ đồng). Tòa án xác định
hợp đồng trên là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ, buộc vợ chồng bà Anh trả nợ
cả gốc lẫn lãi cho bà Thu, giao dịch giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là vô
hiệu. Do đó, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy toàn bộ bản án dân sự
phúc thẩm, giao hồ sơ lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm
lại theo quy định của pháp luật.
Câu 4.1: Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch? 
Điều 124 BLDS 2015 có quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có
hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc
luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Như vậy có thể hiểu giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý
chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia vào
giao dịch. Giao dịch giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che dấu việc thực hiện một
giai dịch khác mà các bên thật sự mong muốn thực hiện. Giao dịch giả tạo mà các
bên “tự nguyện” tham gia nhưng mục đích giao dịch được thể hiện không phù hợp với
mục đích các bên thực sự mong muốn đạt được.
Câu 4.2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Ở phần NHẬN THẤY thể hiện qua đoạn: “Để đảm bảo cho việc vay mượn, hai bên
thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2013... đây là giao dịch
10

giả tạo che dấu cho việc vay mượn…”. “Để đảm bảo cho việc vay mượn, hai bên lập hợp
đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức đặt cọc 100.000.000
đồng…”
Ở phần XÉT THẤY thể hiện qua đoạn: “Nguyên đơn và bị đơn thống nhất ngày
23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất số AP 154638, số
vào sổ H53166 do UBND thị xã (nay là thành phố Thủ Dầu Một) cấp ngày 30/7/2009, tọa
lạc tại phường Chánh Nghĩa thành phố Thủ Dầu Một với giá chuyển nhượng 200.000.000
đồng. Hai bên đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để che dấu cho việc nguyên đơn cho
bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng”.
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích che dấu việc vay mượn giữa bà
Thúy và bà Trang. Áp dụng BLDS 2015 về lãi suất cho vay, số tiền bà Trang phải trả cho
bà Thúy đã vượt mức pháp luật cho phép và có thể cấu thành tội cho vay nặng lãi, vì vậy
hai bên phải xác lập giao dịch giả tạo để che giấu.

Câu 4.3: Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu

Tòa án áp dụng Điều 124, Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015: tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa Trần Thị Diệp Thúy và bà Nguyễn Thị Thanh
Trang theo hình thức “giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày
23/11/2013 vô hiệu. Bà Nguyễn Thị Thanh Trang có nghĩa vụ trả lại cho bà Trần Thị
Diệp Thúy số tiền đã nhận là 95.000.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyễn đơn bà
Trần Thị Diệp Thúy về việc không yêu cầu tính lãi suất 95.000.000 đồng đối với bị đơn
bà Nguyễn Thị Thanh Trang.
Tòa án vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tức vô hiệu hợp đồng
giả tạo. Đồng thời Tòa án yêu cầu bà Trang phải hoàn tiền đã mượn cho bà Thúy, yêu cầu
hoàn tiền thể hiện Tòa án công nhận hợp đồng vay giữa bà Trang và bà Thúy có giá trị
pháp lý, tức Tòa án vẫn công nhận hợp đồng bị che giấu.
11

Câu 4.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.
Theo quan điểm của nhóm: hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng
bị che giấy là phù hợp theo quy định của pháp luật. Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 có quy
định rõ “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này
hoặc luật khác có liên quan.”
Cả hai bên nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
là giao dịch giả tạo để che dấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000
đồng.
Đối chiếu quy định trên với trường hợp giữa nguyên đơn và bị đơn thì hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị
đơn là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay số tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực.
Câu 4.5: Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng được xác định là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu do:
Vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ bà Thu 3,1 tỷ. Đồng thời vợ chồng bà Anh cam
kết chuyển nhượng nhà đất đang có tranh chấp để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà
Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho
vợ chồng ông Vượng.
Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng không
phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển
nhượng chỉ với giá 680.000.000đ và các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
Câu 4.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)?
Theo quan điểm của nhóm: Hướng xử lý trên của Tòa án là phù hợp với quy định của
pháp luật. Vì theo bản án thì hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất giữa vợ chồng bà Anh và
với chồng ông Vượng là hợp đồng giả tạo khi chuyển nhượng nhà, đất trên với giá
12

680.000.000đ trong khi giá thực tế là 5,6 tỷ. Hợp đồng này của vợ chồng bà Anh cho thấy
tính không thực tế của việc chuyển nhượng và theo lẽ thông thường không ai đồng ý chịu
thiệt về tiền bạc và tài sản, đặt biệt vợ chồng bà Anh đang nợ bà Thu số tiền 3,1 tỷ.
Câu 4.7: Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.
Hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa
vụ: Hợp đồng sẽ bị vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015, tức là hợp đồng chuyển
nhà đất giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng được xác định là giao dịch giả tạo
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba (nghĩa vụ trả nợ cho à Thu) sẽ bị vô hiệu để đảm
bảo quyền lợi của bên có quyền.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội.
2. Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.
3. Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao.
B. Tài liệu tham khảo
1. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
2. Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư).
3. Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
4. Nguyễn Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt h
ại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.

You might also like