Professional Documents
Culture Documents
Hsds44 Csds3 Lao Đ NG
Hsds44 Csds3 Lao Đ NG
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG
(Dùng cho các lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư)
44
LS.DS
B4.TH1.DSCS3
- Hồ sơ chỉ dùng để giảng dạy và học tập trong các lớp đào tạo
nguồn Luật sư của Học viện Tư pháp;
- Người nào sử dụng vào mục đích khác phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội- 2014
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
1
phòng chống cháy nổ, ngăn chặn không cho xăng tràn ra hệ thống thoát nước và hút,
vét thu hồi lượng xăng tràn ra bằng tất cả các phương tiện hiện có.
Kết quả xác định như sau:
- Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bể số 19 về bể số 01 khi xảy ra sự cố
là: 58.203 lít.
- Số lượng xăng được thu gom là: 54.904 lít.
- Lượng xăng bị thất thoát là: 3.299 lít (do bay hơi trong quá trình tràn ra
rãnh thoát nước).
Ngày 13/09/2013 Tổng công ty đã tổ chức buổi họp và lập Biên bản số 134/BB-
DVN về việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong vụ tràn xăng tại PV OIl Vũng Tàu
ngày 17/08/2013. Hội đồng kỷ luật đã quyết định:
“Ông Phạm Xuân Phương, nhân viên giao nhận thuộc Phòng quản lý Hàng hóa-
PV OIl Vũng Tàu vi phạm kỷ luật lao động (tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị bơm
xăng dầu đang hoạt động) để xảy ra nguy cơ mất an toàn cao cho Tổng kho PV OIL
Vũng Tàu. Vi phạm của ông Phạm Xuân Phương là tái vi phạm mang tính hệ thống.
Căn cứ: khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động; điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động Tổng
Công ty Dầu Việt Nam, Hội đồng quyết định hình thức xử lý kỷ luật: “ Sa thải”.
Ngày 27/10/2013, Tổng Giám đốc công ty đã ban hành Quyết định số 1650/QĐ-
DVN về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với tôi. Lý do: Bị xử lý kỷ luật với hình
thức sa thải do tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị bơm xăng đang hoạt động để xảy
ra nguy cơ mất an toàn cao cho Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu, vi phạm khoản 1 Điều
126 Bộ luật Lao động và điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động của Tổng Công ty Dầu
Việt Nam.
Qua sự việc nêu trên, tôi cho rằng: Việc hội đồng kỷ luật quyết định xử lý kỷ luật
tôi bằng hình thức sa thải vì cho rằng:
(i) Tôi tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị bơm xăng dầu đang hoạt động
dẫn đến để xảy ra nguy cơ mất an toàn cao cho toàn Tổng kho PV OIL
Vũng Tàu.
(ii) Tái vi phạm, mang tính hệ thống là không có cơ sở vì:
Thứ nhất: Theo quy định của Xí nghiệp, nhiệm vụ của đội giao nhận là đóng,
mở các van trên đường ống dẫn và kiểm tra thông tuyến trước khi bơm. Các bể trước
khi bơm xăng đều được kiểm tra vệ sinh, công việc kiểm tra và vệ sinh được Xí
nghiệp thuê đơn vị khác vào thực hiện. Sau khi hoàn thành công việc thì bên đơn vị vệ
sinh phải có biên bản bàn giao bể cho Xí nghiệp và đảm bảo bể an toàn, các van gắn
với bể không bị hư hỏng. Căn cứ vào biên bản được giao, Trưởng phòng quản lý hàng
hoá mới ra lệnh cho bơm xăng chuyển về.
Bể số 01 trước khi bơm, Xí nghiệp chưa nhận bàn giao từ đơn vị vệ sinh, chưa
kiểm tra độ an toàn mà lãnh đạo Xí nghiệp vẫn cho chuyển vào bể dẫn đến xăng chảy
ra ngoài theo van xả. Do vậy việc xăng chảy ra ngoài van xả không phải là hành vi cố
ý của tôi. Do vậy Tổng công ty áp dụng khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động để sa thải
tôi là hoàn toàn trái luật.
Thứ hai: Ngày 14/03/2010, tôi vi phạm kỷ luật lao động và bị xử lý bằng hình
thức kéo dài thời hạn nâng lương 06 tháng (từ ngày 14/03/2010 – 13/09/2010). Đến
ngày 18/08/2013 thì thời gian đã hơn 1 năm 5 tháng mà Hội đồng kỷ luật Tổng công ty
cho là tái vi phạm, mang tính hệ thống để quyết định hình thức xử lý vi phạm cho lần
này là không đúng. Điều này thể hiện tại Biên bản số 134/BB-DVN ngày 13/09/2013
và Công văn số 2493/DVN- TCNS ngày 11/10/2013 của Tổng Công ty Dầu Việt Nam.
2
Thứ ba: Quyết định 1560/QĐ- DVN ban hành ngày 27/09/2013 nhưng lại có
hiệu lực kể từ ngày 15/09/2013 là trái với quy định của pháp luật về ngày có hiệu lực
được quy định trong luật ban hành văn bản.
Từ những nội dung phân tích ở trên, việc Tổng công ty căn cứ vào khoản 1 Điều
126 Bộ luật Lao động và điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động của Tổng công ty để ra
quyết định sa thải tôi hoàn toàn trái quy định của pháp luật.
Từ những lý do nêu trên, tôi làm đơn kính đề nghị Tòa án Nhân dân Thành phố
Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thụ lý, giải quyết vụ việc với yêu cầu như sau:
- Hủy bỏ Quyết định số 1560/QĐ - DVN ngày 27/09/2013 của Tổng Công ty
Dầu Việt Nam.
- Yêu cầu Tổng Công ty Dầu Việt Nam bồi thường toàn bộ tiền lương
(6.000.000 đồng/tháng) và phụ cấp cho tôi trong thời gian chấm dứt hợp đồng
lao động trái luật và nhận tôi trở lại làm việc.
Những tài liệu, chứng kèm theo đơn khỏi kiện gồm có:
1. CMND, Sổ hộ khẩu (Bản sao).
2. Hợp đồng lao động ngày 22/09/2012 (Bản sao).
3. Biên bản họp số 134/BB- DVN ngày 13/09/2013 (Bản sao).
4. Quyết định số 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 (Bản sao).
5. Đơn yêu cầu về việc chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02/10/2013 (Bản gốc).
6. Công văn số 2493/ DVN- TCNS ngày 11/10/2013 (Bản sao).
7. Quyết định số 419/QĐ- CBKDD ngày 21/05/2010 (Bản sao).
3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
4
BẢN SAO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
SỔ HỘ KHẨU
GIA ĐÌNH
SỐ: 12345xxx
5
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------------
6
- Được trang bị bảo hộ lao động gồm: theo quy định của Nhà nước và Tổng công
ty
- Chế độ nghỉ ngơi: theo quy định của Nhà nước và Tổng công ty
- Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế: theo quy định của pháp luật hiện hành
- Chế độ đào tạo: Theo quy chế của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng công ty
- Những thỏa thuận khác: theo Thoả ước lao động tập thể của Tổng công ty
2. Nghĩa vụ:
- Hoàn thành những công việc đã cam kết trong hợp đồng lao động.
- Chấp hành lệnh điều hành sản xuất - kinh doanh, nội quy kỷ luật lao động, an
toàn lao động....
- Bồi thường vi phạm và vật chất: theo Nội quy lao động Tổng công ty Dầu Việt
Nam
Điều 4: Nghĩa vụ và quyền hạn của người sử dụng lao động
1. Nghĩa vụ:
- Bảo đảm việc làm và thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết trong hợp đồng
lao động.
- Thanh toán đầy đủ, đúng thời hạn các chế độ và quyền lợi cho người lao động
theo hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể (nếu có).
2. Quyền hạn:
- Điều hành người lao động hoàn thành công việc theo hợp đồng (bố trí, điều
chuyển, tạm ngừng việc…)
- Tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật người lao động theo quy định
của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể (nếu có) và nội quy lao động của doanh
nghiệp.
Điều 5: Điều khoản thi hành
- Những vấn đề về lao động không ghi trong hợp đồng lao động này thì áp dụng
qui định của thỏa ước tập thể, trường hợp chưa có thỏa ước tập thể thì áp dụng quy
định của pháp luật lao động.
- Hợp đồng lao động được làm thành 02 bản có giá trị ngang nhau, mỗi bên giữ
một bản và có hiệu lực từ ngày 22 tháng 09 năm 2012. Khi hai bên ký kết phụ lục hợp
đồng lao động thì nội dung của phụ lục hợp đồng lao động cũng có giá trị như các nội
dung của bản hợp đồng lao động này.
Hợp đồng này làm tại Tổng công ty Dầu Việt Nam, ngày 21 tháng 09 năm 2012.
7
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------- -------------------
Số: 1560/QĐ-DVN TP Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 09 năm 2013
QUYẾT ĐỊNH
Về việc chấm dứt hợp đồng lao động
8
TỔNG CTY DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
(PV OIL) -------------------
--------------- TP Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 10 năm 2013
Số: 2493/ DVN-TCNS
V/v Giải quyết khiếu nại
Quyết định chấm dứt HĐLĐ
Ngày 07/10/2013, Tổng công ty Dầu Việt Nam (TCT) có nhận được Đơn khiếu
nại của Ông về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Trong đơn này, Ông có yêu cầu
TCT hai việc:
- Thu hồi, hủy bỏ Quyết định 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 của Tổng
Giám đốc Tổng công ty Dầu Việt Nam đã ban hành.
- Xem xét toàn bộ vụ việc đã xảy ra để có mức xử lý kỷ luật nhẹ hơn.
Không áp dụng mức kỷ luật sa thải để chấm dứt hợp đồng lao động đối
với Ông.
Sau khi xem xét đơn và toàn bộ hồ sơ vụ việc, TCT có ý kiến với ông như sau:
Tại cuộc họp 13/09/2013, Hội đồng kỷ luật đã phân tích hành vi, mức độ vi phạm
và quyết định hình thức kỷ luật đối với Ông, đó là:
Hành vi và mức độ vi phạm của ông Phạm Xuân Phương là nghiêm trọng vì đã
tự ý bỏ vị trí công việc khi các thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt động dẫn đến tràn
xăng dầu với khối lượng lớn trong thời gian dài gây nguy cơ mất an toàn cao cho Tổng
kho xăng dầu. Về mặt vật chất Tổng kho đã bị thất thoát 3.229 lít xăng A92 (tương
đương với số tiền là 45.000.000 đồng), chưa tính các chi phí để bơm vét 60m3 xăng bị
tràn.
Vi phạm kỷ luật lao động của Ông mang tính chất hệ thống vì đây là lần vi phạm
thứ 3 kể từ khi làm việc ở Công ty.
+ Lần vi phạm thứ 1, khi làm bảo vệ tại Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu, Ông đã
có hành vi trộm cắp tài sản và bằng Quyết định số 81/QĐ/PDC-VT ngày 08/06/2008,
Giám đốc Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu đã quyết định kỷ luật khiển trách bằng văn bản
lần thứ nhất đối với Ông.
+ Lần vi phạm thứ 2, Ông đã có hành vi bỏ vị trí trực trong ca trực và bằng
Quyết định số 419/QĐ- CBKDD ngày 21/05/2010, Tổng Giám đốc Công ty TNHH 1
TV Chế biến và Kinh doanh Sản Phẩm Dầu mỏ (PDC) đã quyết định kỷ luật với hình
thức: kéo dài thời hạn thi nâng bậc lương 6 tháng kể từ ngày 14/03/2010 đối với Ông.
Do đó, Căn cứ: khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động; điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao
động Tổng công ty Dầu Việt Nam, Hội đồng quyết định hình thức xử lý kỷ luật Sa
thải đối với Ông.
Tại cuộc họp kỷ luật này, Ông đã thừa nhận hành vi vi phạm, chấp nhận quyết
định của Hội đồng. Tuy nhiên, sau khi có ý kiến của Ông và ý kiến của đại diện BCH
Công đoàn đề nghị Hội đồng để ông tự nguyện viết đơn xin thôi việc, Hội đồng đồng
ý xem xét nguyện vọng này của Ông và yêu cầu Ông có đơn sớm để TCT giải quyết
chế độ nghỉ việc. Phiên họp kết thúc và ông đã ký nhận biên bản họp của Hội đồng kỷ
luật.
9
Trong khoảng thời gian từ ngày 13/09/2013 đến ngày 26/09/2013, TCT chưa ban
hành quyết định kỷ luật đối với Ông.
Ngày 16/09/2013, TCT nhận được Đơn yêu cầu xem xét việc xử lý kỷ luật sa thải
đối với Ông, trong đó Ông yêu cầu 02 nội dung:
- Không ban hành quyết định sa thải khi sự việc không nghiêm trọng như
các vi phạm đã xảy ra tại Xí nghiệp;
- Xem xét toàn bộ vụ việc đã xảy ra tại Tổng công ty để có mức kỷ luật nhẹ
hơn.
Ngày 23/09/2013, Hội đồng kỷ luật TCT đã mời Ông đến họp để giải quyết các
khiếu nại và yêu cầu của Ông. Hội đồng kỷ luật một lần nữa đã phân tích và giải thích
cho Ông rõ các căn cứ để xét các hình thức kỷ luật, cụ thể là:
Việc sai phạm của Ông đã làm tổn thất hàng hóa là 3.299 m3 xăng A92, trị giá
tương đương 45.000.000 đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 130 Bộ luật lao động 2012 thì
mức thiệt hại được coi là không nghiêm trọng là mức thiệt hại không quá 10 tháng
lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm
việc. Vậy với mức thiệt hại như trên, Hội đồng xét thấy là nghiêm trọng, hơn nữa một
vấn đề đặc biệt nguy hiểm là việc để gần 60m3 xăng A92 (một chất dễ cháy nổ) tràn
ra ngoài bồn trong thời gian dài gây ra nguy cơ mất an toàn hết sức nghiêm trọng đối
với công tác Phòng chống cháy nổ của Tổng kho. Do đó sai phạm của Ông là “hành
vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của Tổng công ty và đơn vị”.
Hội đồng kỷ luật đã không áp dụng hay cộng dồn việc vi phạm lần trước vào với
việc vi phạm lần này để xem xét hình thức kỷ luật sa thải đối với Ông, như Ông đã
trình bày trong đơn. Hội đồng kỷ luật chỉ xét thấy hành vi vi phạm lần này có tính hệ
thống.
Hơn nữa, trong cuộc họp ngày 21/08/2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu về
việc làm rõ trách nhiệm liên quan đến vụ việc là tràn xăng trong quá trình chuyển từ
bể số 19 sang bể số 01, bản thân Ông đã thừa nhận việc tự ý bỏ vị trí trực, đó là:
“Trước đó khoảng lúc 2 giờ ông Phương ăn cơm xong và quay lại vị trí được
phân công và có đi kiểm tra một lượt hệ thống không thấy hiện tượng gì lạ nên đã
về trạm bơm FO và ngủ quên” “…đã không làm tròn trách nhiệm được giao, có
kiểm tra nhưng đóng van xả nước bồn số 01 không kín để xăng tràn ra ngoài.
Không phát hiện sự cố kịp thời do ngủ gật tại trạm bơm FO trong khi làm nhiệm
vụ”, tiếp theo đó vào ngày 09/09/2013, trong Đơn xin giảm nhẹ kỷ luật, Ông một lần
nữa thừa nhận hành vi:“không khóa kín hết van xả nước của bể trước khi bơm
xăng để chảy một lượng xăng theo đường ống xả nước ra ngoài khu vực hệ thống
thoát nước ở khu vực kho”. Do đó việc Ông trình bày trong Đơn yêu cầu ngày
16/09/2013 và Đơn khiếu nại này là “bị bệnh nên sức khỏe không tốt (có báo cho
đồng chí Kim trưởng ca biết là tôi đang bị bệnh). Để xảy ra sự cố do sơ suất,
ngoài ý muốn là không khóa van xả nước của bể…” là không đúng với việc làm
thực tế của Ông tại ca trực này. Ngoài ra TCT xin nhắc lại với Ông là trong Bản cam
kết ngày 16/03/2010 (đối với vi phạm kỷ luật lần thứ hai) Ông đã cam kết: “nếu sau
này tôi vi phạm một lần nữa với bất kì hình thức kỷ luật nào thì tôi tự nguyện
viết đơn xin thôi việc”.
Trên cơ sở đó Hội đồng kỷ luật vẫn bảo lưu quyết định hình thức kỷ luật Sa thải
đối với Ông.
Do đó, liên quan đến các yêu cầu trong Đơn khiếu nại nêu trên của Ông, TCT trả
lời Ông như sau: TCT giữ nguyên Quyết định 1560/QĐ - DVN ngày 27/09/2013 về
việc chấm dứt Hợp đồng lao động đối với ông với lý do đã ghi trong quyết định này.
10
TCT báo cáo toàn bộ sự việc kỷ luật này với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam và thông báo cho Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh và tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. TCT không xem xét lại vụ việc để có mức kỷ luật nhẹ hơn như
Ông yêu cầu.
Vậy TCT thông báo cho Ông được biết và thực hiện.
Đính kèm:
11
TỔNG CÔNG TY XĂNG DẦU VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG KHO XĂNG DẦU VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------- -------------------
Số: 74/BB- TKVT Vũng Tàu, ngày 14 tháng 10 năm 2013
12
- Quyết định số 1560/QĐ-DVN ngày 27/09/2013 của Tổng công ty Dầu
Việt Nam về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông Phạm Xuân
Phương (bản sao);
- Biên bản họp về xem xét làm rõ trách nhiệm liên quan đến việc tràn xăng
trong quá trình chuyển bể 19 sang bể 01 (bản sao);
- Đơn xin giảm nhẹ kỷ luật (bản sao);
- Quyết định số 81/QĐ-PDC- VT ngày 03/06/2008 của Giám đốc Xí nghiệp
xăng dầu Vũng Tàu về việc thi hành kỷ luật người lao động (bản sao);
- Quyết định số 78/PDC- VT ngày 01/06/2005 của Giám đốc Xí nghiệp
xăng dầu Dầu khí Vũng Tàu về việc điều động Người lao động (bản sao);
- Biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 01/06/2008 (bản sao);
- Bản kiểm điểm của Ông Phạm Xuân Phương ngày 25/05/2008 (bản sao);
- Quyết định 419/QĐ- CBKDD ngày 21/05/2010 của Tổng Giám đốc công
ty PDC về việc thi hành kỷ luật lao động (bản sao);
- Biên bản họp xử lý kỷ luật lao động ngày 14/03/2010 (bản sao);
- Bản kiểm điểm của ông Phạm Xuân Phương ngày 09/03/2010 (bản sao);
- Bản cam kết của ông Phạm Xuân Phương ngày 16/03/2010 (bản sao).
Kết thúc cuộc họp vào lúc 09 giờ 20 phút ngày 14 tháng 10 năm 2013, Biên bản
họp đã đọc cho tất cả mọi người cùng nghe và nhất trí kí tên dưới đây. Biên bản họp
này được lập thành 03 bản.
(đã ký)
Bùi Quốc Huy
(đã ký)
Nguyễn Thanh Nam
(đã ký)
Nguyễn Viết Huân
(đã ký)
Đỗ Thị Lê Tuyết
13
TÒA ÁN ND TỈNH BR- VT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN ND TP. VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------- ---------------------
Vũng Tàu, ngày 13 tháng 5 năm 2014
14
TÒA ÁN ND TỈNH BR- VT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- --------
Số: 06/2014/TB-TTVA Vũng Tàu, ngày 19 tháng 05 năm 2014
THÔNG BÁO
Về việc thụ lý vụ án
15
TÒA ÁN ND TỈNH BR - VT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
Vũng Tàu, ngày 20 tháng 5 năm 2014
16
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------- -------
Số: 5321/UQ- DVN
V/v Ý kiến của PV OIL đối với Đơn
khởi kiện của ông Phạm Xuân Phương Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 06 năm 2014
Ngày 10/06/2014 Tổng công ty Dầu Việt Nam nhận được Thông báo về việc thụ
lý vụ án số 06/2014/TB-TLVA của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu về việc ông
Phạm Xuân Phương “khởi kiện Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 1560/QĐ-
DVN ngày 27/09/2013”. Liên quan đến vụ việc này, Tổng công ty Dầu Việt Nam có ý
kiện như sau:
1. Tóm tắt vụ việc
Ngày 17/08/2013, PV OIL Vũng Tàu có kế hoạch chuyển xăng M92 (có màu)
từ bể số 19 sang bể số 01 để tạo sức chứa nhận lô hàng xăng M92 (không màu) từ nhà
máy lọc dầu Dung Quất từ tàu PVT Eagle vào ngày 22/08/2013.
Công việc chuyển bể được tiến hành vào lúc 23 giờ ngày 17/08/2013 (ca 3 từ
22 giờ ngày 17/08/2013 đến 06 giờ sáng ngày 18/08/2013. Ca trực này do ông Phạm
Văn Kim – Đội phó Đội giao nhận phụ trách và ông Phạm Xuân Phương – Nhân viên
được phân công trực tiếp theo dõi, giám sát việc bơm chuyển xăng từ Bể số 19 sang
Bể số 01.
Khi giao ca và thực hiện nhiệm vụ, ông Phạm Xuân Phương có đi kiểm tra 2
bể, kiểm tra tuyến ống và báo cáo cho ông Phạm Văn Kim và ông Nguyễn Mạnh
Thắng – Nhân viên giao nhận trực trạm bơm công nghệ số 1 để chuyển xăng từ bồn số
19 về bồn số 01. Công việc được triển khai thực hiện đúng kế hoạch.
Đến khoảng 1 giờ sáng ngày 18/08/2013 ông Phạm Xuân Phương xin phép
ông Phạm Văn Kim nghỉ để ăn cơm. Khoảng 2 giờ sáng, sau khi ăn cơm xong, ông
Phạm Xuân Phương quay lại vị trí được phân công và đi kiểm tra một lượt hệ thống
bồn bể, đường ống một lần nữa, không thấy hiện tượng gì lạ nên ông Phạm Xuân
Phương đã tự động về trạm bơm FO và ngủ. Đến khoảng 3 giờ sáng 18/08/2013 Ông
Hoàng Minh Tùng – Nhân viên giao nhận (được phân công trực tiếp chuyển DO từ
bể số 12 sang bể số 03) phát hiện sự cố tràn xăng từ van xả nước của bể số 01 ra rãnh
thoát nước trong khu vực bể và đã kịp thời đóng chặt van này lại.
Ngay sau khi phát hiện sự cố, toàn thể ban lãnh đạo của PV OIL Vũng Tàu đã
có mặt ngay tại hiện trường để chỉ đạo huy động toàn bộ lực lượng ca 3 và tăng cường
toàn bộ lực lượng của ca tiếp theo để khắc phục sự cố, triển khai các phương án bảo vệ
phòng chống cháy nổ, ngăn chặn không cho xăng tràn ra hệ thống thoát nước và hút
vét, thu hồi lượng xăng tràn bằng tất cả những phương tiện hiện có.
Kết quả xác minh số lượng xăng thất thoát:
- Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bể số 19 về bể số 01 khi xảy ra sự cố là
58.203 lít.
- Số lượng xăng thu gom được là 54.904 lít
- Số lượng xăng bị thất thoát là: 58.203 – 54.904 = 3.299 lít. Lượng xăng bị thất
thoát này là do bay hơi trong quá trình tràn ra rãnh thoát nước.
17
2. Xử lý kỷ luật
Ngày 13/09/2013, Hội đồng kỷ luật đã họp để xử lý vụ việc này. Hội đồng
có mời đầy đủ: đại diện Ban chấp hành Công đoàn TCT và đơn vị, các đương sự
(người lao động vi phạm kỷ luật) là các ông Phạm Xuân Phương và ông Phạm Văn
Kim.
Tại cuộc họp này, Hội đồng đã phân tích hành vi, mức độ vi phạm và quyết
định hình thức kỷ luật đối với hai ông Phạm Xuân Phương, ông Phạm Văn Kim và
những cá nhân có liên quan.
* Đối với trường hợp của ông Phạm Xuân Phương, Hội đồng nhận thấy:
Hành vi và mức độ vi phạm của ông Phạm Xuân Phương là nghiêm trọng vì đã
tự ý bỏ vị trí công việc khi các thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt động dẫn đến tràn
xăng dầu với khối lượng lớn trong thời gian dài gây nguy cơ mất an toàn cao cho
Tổng kho xăng dầu. Về mặt vật chất Tổng kho đã bị thất thoát 3.299 lít xăng A92
tương đương với số tiền là 45.000.000 đồng. Đây là một thiệt hại nghiêm trọng về tài
sản cho Tổng công ty và đơn vị.
Xét về nhân thân của ông Phạm Xuân Phương để giảm nhẹ hình thức kỷ
luật nhưng không có cơ sở, vì đây là lần vi phạm thứ 3 của ông Phương kể từ khi làm
việc tại Tổng kho:
+ Lần vi phạm thứ 1, khi làm bảo vệ tại Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu, ông
Phạm Xuân Phương đã có hành vi trộm cắp tài sản và bằng Quyết định số
81/QĐ/PDC-VT ngày 08/06/2008, Giám đốc Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu đã quyết
định kỷ luật khiển trách bằng văn bản lần thứ nhất đối với ông Phạm Xuân Phương.
+ Lần vi phạm thứ 2, ông Phạm Xuân Phương đã có hành vi bỏ vị trí trực
trong ca trực và bằng Quyết định số 419/QĐ- CBKDD ngày 21/05/2010, Tổng Giám
đốc Công ty TNHH 1 TV Chế biến và Kinh doanh Sản Phẩm Dầu mỏ (PDC) đã quyết
định kỷ luật với hình thức: kéo dài thời hạn nâng bậc lương 6 tháng kể từ ngày
14/03/2010 đối với ông Phạm Xuân Phương.
Căn cứ: khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động; điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động
Tổng công ty Dầu Việt Nam quy định “Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô,
tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm
trọng về tài sản, lợi ích của Tổng công ty và đơn vị”, Hội đồng quyết định hình thức
xử lý kỷ luật: Sa thải
Tại cuộc họp kỷ luật này, ông Phạm Xuân Phương đã thừa nhận hành vi vi
phạm, chấp nhận quyết định của Hội đồng. Tuy nhiên, sau khi có ý kiến của ông
Phạm Xuân Phương và ý kiến của đại diện BCH Công đoàn đề nghị Hội đồng để
đương sự tự nguyện viết đơn xin thôi việc, Hội đồng đồng ý xem xét nguyện vọng
này của ông Phạm Xuân Phương và yêu cầu đương sự có đơn sớm để TCT giải quyết
chế độ nghỉ việc. Đây cũng là một chính sách nhân đạo của Tổng công ty để tạo điều
kiện cho người lao động có cơ hội làm lại từ đầu (không bị ảnh hưởng trong hồ sơ lao
động) và có điều kiện để nhận trợ cấp thôi việc, có điều kiện cho người lao động giảm
bớt khó khăn trong thời gian tìm việc mới. Phiên họp kết thúc và ông Phạm Xuân
Phương đã ký xác nhận vào biên bản họp của Hội đồng kỷ luật.
Trong khoảng thời gian này, do chờ ông Phạm Xuân Phương tự nguyện viết đơn
xin thôi việc nên TCT chưa ban hành quyết định kỷ luật đối với ông Phạm Xuân
Phương (mặc dù đã có đủ cơ sở pháp lý để ban hành quyết định sa thải).
Tuy nhiên trái với những gì ông Phương đề nghị nêu trên, ngày 16/09/2013, Tổng
công ty lại nhận được Đơn xin yêu cầu của ông Phạm Xuân Phương khiếu nại về
hình thức kỷ luật, trong đó yêu cầu 02 nội dung:
18
+ Không ban hành quyết định sa thải khi sự việc không nghiêm trọng như các vi
phạm đã xảy ra tại Xí nghiệp;
+ Xem xét toàn bộ vụ việc đã xảy ra tại Tổng công ty để có mức kỷ luật nhẹ hơn.
Ngày 23/09/2013, Hội đồng kỷ luật Tổng công ty đã mời ông Phạm Xuân
Phương đến họp để giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của đương sự. Hội đồng đã
phân tích và giải thích cho ông Phạm Xuân Phương rõ các căn cứ để xét các hình
thức kỷ luật, cụ thể là:
Việc sai phạm của ông Phạm Xuân Phương đã làm tổn thất hàng hóa trị giá trên
45.000.000 đồng. Vậy với mức thiệt hại như trên, Hội đồng xét thấy là rất nghiêm
trọng, hơn nữa một vấn đề đặc biệt nguy hiểm là để gần 60m3 xăng A92 một chất dễ
cháy nổ) tràn ra ngoài bồn trong thời gian dài gây ra nguy cơ mất an toàn hết sức
nghiêm trọng đối với công tác Phòng chống cháy nổ của Tổng kho. Do đó sai phạm
của ông Phạm Xuân Phương là “hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi
ích của Tổng công ty và đơn vị”.
Hội đồng kỷ luật đã không áp dụng hay cộng dồn việc vi phạm lần trước vào với
việc vi phạm lần này để xem xét hình thức kỷ luật sa thải đối với ông Phạm Xuân
Phương, như đương sự đã trình bày trong đơn. Hội đồng kỷ luật chỉ xét nhân thân của
đương sự để có thể xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật nhưng không có cơ sở vì hành
vi vi phạm của đương sự không phải lần đầu. Do nhân thân ông Phạm Xuân Phương là
xấu (đã có hai lần vi phạm kỷ luật lao động nghiêm trọng) nên hành vi vi phạm lần thứ
ba với tính chất rất nghiêm trọng này của ông Phương cần phải được xử lý đúng phát
luật để đảm bảo tính nghiêm minh trong kỷ luật lao động, nhằm không để những hành
vi nguy hiểm tương tự tái diễn có thể gây những hậu quả cực kì nghiêm trọng về tính
mạng người và tài sản của Tổng kho xăng dầu.
Trong cuộc họp ngày 21/08/2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu về việc làm
rõ trách nhiệm liên quan đến vụ việc là tràn xăng trong quá trình chuyển từ bể số 19
sang bể số 01, Ông Phạm Xuân Phương đã thừa nhận việc tự ý bỏ vị trí trực, đó là:
“Trước đó khoảng lúc 2 giờ ông Phương ăn cơm xong và quay lại vị trí được
phân công và có đi kiểm tra một lượt hệ thống không thấy hiện tượng gì lạ nên đã
về trạm bơm FO và ngủ quên” “…đã không làm tròn trách nhiệm được giao, có
kiểm tra nhưng đóng van xả nước bồn số 01 không kín để xăng tràn ra ngoài.
Không phát hiện sự cố kịp thời do ngủ gật tại trạm bơm FO trong khi làm nhiệm
vụ”, tiếp theo đó vào ngày 09/09/2013, trong Đơn xin giảm nhẹ kỷ luật, ông Phạm
Xuân Phương đã thừa nhận hành vi: “không khóa kín hết van xả nước của bể
trước khi bơm xăng để chảy một lượng xăng theo đường ống xả nước ra ngoài
khu vực hệ thống thoát nước ở khu vực kho”. Hơn nữa trong Bản cam kết ngày
16/03/2010 (đối với vi phạm kỷ luật lao động lần thứ hai) ông Phạm Xuân Phương
đã cam kết: “nếu sau này tôi vi phạm một lần nữa với bất cứ hình thức kỷ luật nào
thì tôi tự nguyện viết đơn xin nghỉ việc”
Trên cơ sở đó Hội đồng kỷ luật vẫn bảo lưu quyết định hình thức kỷ luật sa thải
đối với Ông Phạm Xuân Phương. Bản thân ông Phạm Xuân Phương cũng đã thừa
nhận và ký vào biên bản họp.
- Trong đơn khởi kiện của mình ông Phạm Xuân Phương cho rằng “Bể số 01
trước khi bơm, Xí nghiệp chưa nhận bàn giao từ đơn vị vệ sinh, chưa kiểm tra độ an
toàn mà lãnh đạo Xí nghiệp vẫn cho chuyển vào bể dẫn đến xăng chảy ra ngoài theo
van xả” là không có cơ sở vì:
+ Ngày 14/08/2013 đại diện Phòng Kỹ thuật đầu tư, Phòng quản lý hàng hóa
Tổng kho và đại diện đơn vị xúc rửa đã ký biên bản nghiệm thu.
19
+ Ngày 15/08/2013 Tổng kho Vũng Tàu và công ty Hà Lộc (đơn vị xúc rửa) đã
ký biên bản bàn giao đã khẳng định “Bồn số 01 đã được kiểm tra đảm bảo khô, sạch
và đủ điều kiện đưa vào sử dụng”.
(Các biên bản liên quan đã được PV OIL cung cấp cho Toà án Nhân dân TP
Vũng Tàu ngày 10/6/2014).
- Việc ông Phạm Xuân Phương cho rằng “Quyết định 1560/QĐ- DVN ban hành
ngày 27/09/2013 nhưng lại có hiệu lực kể từ ngày 15/09/2013 là trái với quy định của
pháp luật về ngày có hiệu lực được quy định trong Luật ban hành văn bản” là không
có cơ sở pháp lý. Văn bản PV OIL là văn bản của tổ chức kinh tế chứ không phải là
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền nhà nước ban hành nên không
chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (theo Điều 1 và
Điều 2 Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật). Sở dĩ ngày 13/09/2013 PV
OIL mới ban hành Quyết định xử lý kỷ luật là do ông Phạm Xuân Phương xin hưởng
chính sách khoan hồng của Tổng công ty như đã phân tích ở trên (xin tự nguyện viết
đơn xin nghỉ việc để hưởng trợ cấp thôi việc và không ảnh hưởng đến hồ sơ lao động).
Tuy nhiên, sau đó ông Phạm Xuân Phương không có đơn xin nghỉ việc (như đề nghị
của đương sự tại phiên họp xử lý kỷ luật lao động) mà ngày 26/09/2013 đương sự lại
có Đơn xin cứu xét gửi Tổng công ty Dầu Việt Nam. Sau khi xem xét đơn của đương
sự, Tổng công ty Dầu Việt Nam xét thấy không có căn cứ để thay đổi hình thức xử lý
kỷ luật lao động như đã kết luận tại phiên họp xử lý kỷ luật ngày 13/09/2013.
Ngày 27/09/2013 Tổng công ty ra Quyết định số 1560/QĐ - DVN về việc chấm
dứt hợp đồng lao động ông Phạm Xuân Phương với lý do xử lý kỷ luật sa thải. Quyết
định này được ban hành với đầy đủ các cơ sở pháp lý theo đúng quy định của pháp
luật.
3. Từ những phân tích trên, Tổng công ty Dầu Việt Nam:
+ Giữ nguyên Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động số 1560/QĐ - DVN
ngày 27/09/2013 của Tổng công ty Dầu Việt Nam đối với ông Phạm Xuân Phương.
+ Không chấp nhận việc đề nghị của ông Phạm Xuân Phương được trở lại làm
việc và yêu cầu bồi thường toàn bộ số lương (mức lương là 6.000.000đ/tháng) và phụ
cấp trong thời gian chấm dứt hợp đồng lao động.
Trên đây là ý kiến của Tổng công ty Dầu Việt Nam về nội dung đơn khởi kiện
của ông Phạm Xuân Phương. Tổng công ty Dầu Việt Nam tin tưởng rằng Tòa án nhân
dân thành phố Vũng Tàu xem xét giải quyết vụ việc một cách thấu tình đạt lý.
Trân trọng./.
20
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------
Số: 26/BB/TKVT
Hôm nay, vào lúc 03 giờ 20 phút ngày 18 tháng 08 năm 2013 tại Xí nghiệp
Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu chúng tôi gồm:
• Ông (bà) Nguyễn Văn Viên Chức vụ: Đội phó dự bị đội bảo vệ HH
• Ông (bà) Phạm Văn Kim Chức vụ: Đội phó giao nhận HH
• Ông (bà) Phạm Xuân Phương Chức vụ: NV giao nhận HH
• Ông (bà) Đỗ Xuân Chiến Chức vụ: Lái xe cứu hỏa
- Mô tả tóm tắt sự cố, sự vụ:
Vào lúc 03h10’ ngày 18/08/2013, trong khi tuần tra nhân viên Bảo vệ cùng giao
nhận phát hiện xăng từ bồn 01 bị chảy qua đường xả nước, sau đó chảy tràn qua rãnh
thoát nước.
- Nguyên nhân xảy ra:
Trong khi bơm chuyển bể từ bể 19 sang bể 01 do sơ suất kiểm tra không kỹ hệ
thống van trước khi bơm chuyển bồn (van xả nước đóng không kín).
- Hậu quả:
Dẫn đến xăng dầu tràn ra hệ thống nước thải, gây mất an toàn PCCC và vệ sinh
môi trường.
- Biện pháp khắc phục tạm thời:
Đã đóng các van chặn tuyến để ra môi trường (đảm bảo không cho nhiên liệu
thoát ra hệ thống thoát nước công cộng) đồng thời cắt cử người trực và triển khai việc
phòng cháy, thu gom nhiên liệu thất thoát, khắc phục sự cố.
- Biện pháp xử lý
Đã tiến hành thu gom số lượng xăng bị rò rỉ bằng tất cả các phương tiện hiện có.
Vì vậy, chúng tôi lập biên bản này để thông báo cho Ban lãnh đạo xí nghiệp biết.
Biên bản được lập kết thúc vào hồi 06g30 cùng ngày. Đọc cho mọi người cùng
nghe và cùng đồng ý ký tên.
Biên bản này được lập thành 03 bản lưu tại Phòng bảo vệ hàng hoá.
21
CTY TNHHMTV CHẾ BIẾN & KINH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
DOANH SẢN PHẨM DẦU MỎ (PDC) Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỔNG KHO XĂNG DẦU VŨNG TÀU -------------------
--------------- Vũng Tàu, ngày 02 tháng 07 năm 2011
Số: 37/QĐ- TKVT
QUYẾT ĐỊNH
Về việc điều động ông Phạm Xuân Phương
- Căn cứ Quyết định số 2700/QĐ- HĐQT ngày 30/09/2005 của Hội đồng quản
trị Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam về việc thành lập Tổng kho Xăng dầu
Vũng Tàu trực thuộc Công ty Chế biến và Kinh doanh Sản phẩm Dầu mỏ;
- Căn cứ Quyết định số 2826/QĐ- TCNSĐT ngày 18/10/2005 của Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của
Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu;
- Căn cứ vào nhu cầu công việc và khả năng của người lao động;
- Xét đề nghị của ông Phó phòng phụ trách Phòng Tổng hợp, ông Phó Quản
đốc.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Điều động ông Phạm Xuân Phương, Nhân viên Đội Bảo vệ PCCC Tổng
kho Xăng dầu Vũng Tàu đến Đội Giao nhận Tổng kho Xăng dầu Vũng
Tàu nhận nhiệm vụ Nhân viên giao nhận.
Điều 2. Công việc cụ thể của ông Phạm Xuân Phương do ông Phó Quản đốc
phân công.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Các ông Phó Giám đốc, Phó
Quản đốc, Đội trưởng Đội Bảo vệ PCCC, Trưởng các Phòng, Đội, Tổ
liên quan và ông Phạm Xuân Phương chịu trách nhiệm thi hành quyết
định này.
22
XÍ NGHIỆP TỔNG KHO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM
XĂNG DẦU VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHÒNG KỸ THUẬT ĐẦU TƯ ---------
Vũng Tàu, ngày 16 tháng 08 năm 2013
Căn cứ vào Giấy đề nghị của Phòng Quản lý Hàng hóa về việc lắp đặt đường
ống từ đường 12 sang đường bồn số 9 ngày 10 tháng 8 năm 2013 đã được Giám đốc
Xí nghiệp Tổng kho Vũng Tàu phê duyệt.
Chúng tôi gồm có:
* Đại diện Phòng Kỹ thuật Đầu tư:
1. Ông: Nguyễn Trung Hân - Chức vụ
2. Ông:……………………. – Chức vụ
* Đại diện Phòng Quản lý Hàng hóa:
1. Ông: Đoàn Danh Thừa
2. Ông:………………
* Nội dung:
Tên thiết bị: Lắp đặt đương ống Đường kính: 8’’
Vị trí: đường 12 sang đường 4
Cụ thể như sau:
Tổ Kỹ thuật sản xuất đã thực hiện lắp đặt xong và bàn giao lại cho Phòng Quản lý
Hàng hóa.
Chúng tôi lập biên bản bàn giao và Báo cáo Ban lãnh đạo Xí nghiệp được biết và
thông báo cho các Phòng ban liên quan để làm căn cứ giải quyết công việc này.
Biên bản lập làm 02 bản lưu tại phòng KTĐT và phòng QLHH
23
XÍ NGHIỆP TỔNG KHO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XĂNG DẦU VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHÒNG QUẢN LÝ HÀNG HÓA ---------
---------
Số: 148/BBNT- QLHH Vũng Tàu, ngày 14 tháng 08 năm 2013
Hôm nay ngày 14 tháng 8 năm 2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng
Tàu số 54B đường 30/4 phường Thắng Nhất, chúng tôi gồm:
1. Ông Nguyễn Trung Hân - Đại diện Phòng KTĐT
2. Ông Đoàn Danh Thừa - Đại diện Phòng KTĐT
3. Ông Nguyễn Văn Lợi - Đại diện đơn vị xúc rửa – Công ty TNHH Hà Lộc
Tiến hành lập biên bản về việc nghiệm thu bể số 01 sau khi Công ty TNHH Hà
Lộc đã thực hiện vệ sinh xúc rửa theo Hợp đồng số 24/TKVT Từ Hà Lộc/06-13 ngày
16/6/2013.
Chúng tôi thống nhất đi đến kết luận như sau:
- Toàn bộ thành bồn và đáy bồn đã được cạo và dùng nước cứu hỏa rửa sạch
theo hợp đồng.
- Dụng cụ xúc rửa đã được thu gom ra khỏi bể 01, khu vực xung quanh bể xúc
rửa chưa được làm vệ sinh sạch sẽ (Sau khi đưa bể vào sử dụng Công ty TNHH Hà
Lộc sẽ vệ sinh ngay, có biên bản xác nhận bổ sung).
- Bể số 01 đủ tiêu chuẩn để chứa các loại xăng, dầu.
Chúng tôi lập biên bản nghiệm thu để Phòng KTĐT cho tiến hành đầu nối công
nghệ. Phòng QLHH cho đóng nắp ánh sáng, lỗ người chui để chuẩn bị tiếp nhận xăng.
Biên bản được lập thành 03 bản đã đọc lại cho mọi người cùng nghe và ký tên.
24
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kính gửi: Ban Giám đốc Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu
Tôi tên là: Phạm Văn Kim. Đội phó đội giao nhận thuộc Phòng QLHH Xí
nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu.
Vào ca trực ca 3 ngày 18/08/2013 do tôi làm Trưởng ca trong khi chuyển bể 19
về bể 01 do nhân viên trong ca trực làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm để xăng tràn
ra đường xả nước, khi phát hiện sự cố lúc 3 giờ sáng ngày 18/8/2013, chúng tôi kết
hợp cùng bảo vệ đóng chặn tất cả các van thoát nước một cách kịp thời không để
lượng xăng tràn ra khỏi bờ đê và báo cho lãnh đạo trực, Ban Giám đốc và các phòng
ban biết, sau khoảng 20 phút các đồng chí trong Ban giám đốc cùng các phòng ban có
mặt kiểm tra và chỉ đạo dùng bơm và các dụng cụ khác như phy để hút hết lượng xăng
tràn ra về bồn 19 và về các tụ thu gom. Sau khi kiểm tra nhận thấy lượng xăng tràn ra
đã được khống chế, chỉ chảy ra hố thứ nhất của hố 3 ngăn là khoảng 02 phy xăng,
ngăn thứ 2 và thứ 3 kiểm tra không có váng xăng dầu, kiểm tra lại hố xăng không có
mùi xăng và váng dầu. Sau khi công việc chuẩn bị được hoàn tất, đến khoảng 05h30’
chúng tôi tiến hành cho hút tất cả lượng xăng tràn ra tại khu vực hố 3 ngăn về bể 19,
các khu vực khác ở các hố ga về các phy sau đó đổ vào các tẹc chứa xăng, đến khoảng
06h 30’ chúng tôi đã hoàn toàn thu gom số lượng xăng bị tràn về bể 19 và các tẹc chứa
xăng dầu. Sau đó chúng tôi đã cho vệ sinh khu vực bị xăng tràn, đến khoảng 07h30’
công việc đã được hoàn tất, kiểm tra lại tất cả các hố ga và các rãnh không còn váng
xăng dầu, công tác hút vét và vệ sinh được tiến hành một cách nhanh chóng và an
toàn, không để xảy ra sự cố đáng tiếc.
Trên đây tôi nhận thấy dù đã xử lý kịp thời và không để ảnh hưởng sản xuất
kinh doanh của Xí nghiệp, nhưng trong ca trực của mình, sự thiếu tinh thần trách
nhiệm của nhân viên trực và thiếu sâu sát của mình đã gây ra sự cố trên. Tôi xin nhận
hoàn toàn trách nhiệm của mình đối với lượng hao hụt do xăng tràn và chịu mọi hình
thức kỷ luật của Ban Giám đốc.
Trên đây cũng là bài học của bản thân và là kinh nghiệm quý báu cho công
việc sau này để tôi phấn đấu không để các sự việc đáng tiếc khác xảy ra trong công
việc hàng ngày.
Kính mong Ban Giám đốc xem xét.
25
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------
Kính gửi: BGĐ Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu
Tôi tên là: Phạm Xuân Phương hiện đang công tác tại Đội giao nhận thuộc
Phòng Quản lý hàng hoá.
Vào ngày 17 và ngày 18/08/2013 tôi tới Xí nghiệp nhận ca trực vào lúc 22h00’
hôm đó do Đội phó Phạm Văn Kim làm trưởng ca, đồng chí Kim có giao cho tôi làm
công việc là chuyển bể 19 về bể 01, theo như quy trình chuyển bể, trước tiên tôi phải
lấy số liệu + nhiệt độ xong và tôi kiểm tra hệ thống đường dẫn, các van nào cần mở thì
tôi mở, van nào cần đóng thì tôi đóng lại, trong khi công việc hoàn tất thì tôi mới báo
bộ đàm cho đồng chí trực TBCN 01 cho bơm chuyển, trong quá trình bơm chuyển tôi
cũng có đi kiểm tra lại đường ống và bồn bể và các mặt bể xem có bị rò rỉ không,
nhưng tôi đi kiểm tra thì mọi đường ống, bồn bể đều tốt và đến khi đồng chí Tùng B
phát hiện ra đường xả nước bị chảy xăng ra ngoài thì tới lúc này tôi cũng mới biết và
tôi đi ra bể 01 và lúc này đồng chí Kim cũng đã có mặt ở bể 01. Để khắc phục sự cố đã
xảy ra chúng tôi đã đi đóng chặn các van của các đường thoát nước ở trong kho và
không cho chảy xăng ra ngoài và sau này thu gom xăng về bể 19 và múc vào phy bơm
và tẹc. Sự việc xảy ra ngoài ý muốn và điều đó là một sai sót trong công việc của tôi.
Mà điều đó tôi cũng không muốn xảy ra. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên nên tôi cũng
mong BGĐ Xí nghiệp xem xét sai sót đó và tôi xin chịu hình thức của BGĐ. Và tôi
xin hứa từ nay trở đi tôi sẽ làm tốt hơn trong công việc mình được giao và hoàn thành
nhiệm vụ.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn BGĐ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi.
Kính đơn
26
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kính gửi: Hội đồng kỷ luật Tổng công ty Dầu Việt Nam
Tên tôi là: Nguyễn Viết Huân
Chức vụ: Phó phụ trách phòng Quản lý hàng hóa
Ngày 17 tháng 8 năm 2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu xảy ra sự
cố tràn xăng từ van xả nước bể số 1 ra ngoài. Tôi xin tường trình lại sự việc cụ thể như
sau: Sau khi công việc xúc rửa vệ sinh bể số 1 hoàn tất và ban giao cho Phòng Quản lý
hàng hóa sử dụng ngày 15/08/2013. Căn cứ kế hoạch điều động hàng của Tổng công
ty về Tổng kho Vũng Tàu, căn cứ lượng xăng còn tồn tại các bể của Tổng kho vào thời
điểm ấy. Bể số 19 chứa mặt hàng xăng M92 đã pha màu số lượng 5.650 m3, sức chứa
bể 19 là 16.000 m3. Để tiếp nhận được lượng xăng M92 không màu của Nhà máy lọc
dầu Dung Quất chở từ tàu PV Trans Eagle ngày 22/08/2013, tôi báo cáo Giám đốc Xí
nghiệp và Phòng điều độ hàng hóa Tổng công ty về tình hình sức chứa hiện tại và đưa
ra phương án giải phóng bể 19 để nhập xăng M92 không màu Dung Quất vào bể 19.
Lấy bể số 1 để chứa xăng có màu vì bể số 1 có sức chứa là 10.000 m3 trong khi bể 19
là 16.000m3 lại đang chứa xăng M92 đã pha màu, lượng xăng đã tồn tại rất lâu chất
lượng màu nhạt hơn theo quy định của Bộ Thương mại và cần phải pha trộn lại theo
tinh thần cuộc họp với Ban nhiên liệu sinh học Công ty xăng dầu dầu khí Miền Đông.
Việc chuyển bể 19 về bể 1 đã được đồng chí Giám đốc Xí nghiệp và Phòng điều độ
hàng hóa Tổng công ty nhất trí. Tôi đã lập kế hoạch chuyển bể 19 về bể 1 giao cho
đồng chí Đoàn Danh Thừa – Đội trưởng Đội giao nhận và các đồng chí đội phó thực
hiện kế hoạch này. Trước khi lập kế hoạch tôi đã hỏi kĩ đồng chí Thừa là bể số 1 đã đủ
điều kiện nhập hàng chưa, việc cải tạo công nghệ, đặt giăng lê cách ly giữa đường
xăng với các đường ống chứa các loại hàng khác đã hoàn tất chưa, đồng chí Thừa đã
khẳng định là đã hoàn tất nhập hàng an toàn. Vì bể số 1 mới xúc rửa xong, tuyến ống
mới đấu nối thêm tránh tình trạng rò rỉ, xì gioăng khi nhập hàng, tôi đã nhắc nhở các
đồng chí Thừa và các đồng chí đội phó phải hết sức chú ý theo dõi khi chuyển bể. Thật
ra công việc này đối với Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu không phải là mới mà làm
thường xuyên mấy chục năm nay mọi người đều hiểu rõ tính chất quan trọng như vậy.
Trước khi sự việc xảy ra khoảng một tuần khi họp chỉ huy đội giao nhận gồm đồng chí
Đội trưởng và các đồng chí đội phó, tôi đã nhấn mạnh lại trong khi xả nước bể, nhập
hàng, chuyển bể yêu cầu phải cử người giám sát thường xuyên không được để tràn
xăng, dầu ra ngoài. Người canh gác không được bỏ vị trí đi chỗ khác nếu muốn đi
uống nước, ăn cơm… phải báo Đội phó cử người thay thế mới được đi. Để xảy ra tràn
xăng dầu đồng chí Đội phó trong ca phải chịu trách nhiệm. Do đó các đồng chí đội phó
phải thường xuyên giám sát công việc của công nhân. Mặt bằng Tổng kho rộng, các
đồng chí đội phó đã được trang bị xe đạp để đi lại và tất cả mọi vị trí đều có thể liên
lạc với nhau bằng bộ đàm. Khi lập kế hoạch chuyển bể tôi đã nhắc nhở kĩ đồng chí
Đội trưởng và các đồng chí đội phó hết sức chú ý kiểm tra vì bể số 1 mới xúc rửa
xong, lỗ người chui mới tháo ra và lắp lại, tuyến ống mới đầu nối thêm đề phòng rò rỉ
khi nhập hàng. Tuy nhiên điều đáng tiếc đã xảy ra là khi chuyển bể 19 về bể số 1 vào
đêm 17/08/2013, ngay khi nhận được điện báo là xảy ra sự cố ở bể số 1 tôi đã có mặt ở
hiện trường chỉ đạo công nhân giao nhận thực hiện khẩn trương trong việc cách ly
27
không cho xăng dầu tràn ra ngoài và tiến hành thu gom. Tôi đề nghị với đồng chí
Giám đốc Xí nghiệp của Bộ phận an toàn kiểm tra các rãnh thoát nước bên ngoài Xí
nghiệp, bên Vietsovpetro coi có hơi xăng dầu không, nếu có thì báo cho họ biết để họ
có phương án xử lý tránh gây cháy nổ như đợt tràn xăng mấy năm trước. Lúc này
Tổng kho chỉ có một chiếc máy bơm xăng nhỏ, bơm được khoảng 15m3/ giờ. Anh em
vừa bơm vừa chia nhau ra đi múc xăng từ các hố ga vào phy, cắt rồi chở về đổ vào các
tẹc thu gom. Tôi thấy anh em rất cực nhọc vì tay chân phải tiếp xúc trực tiếp với xăng
và hít phải hơi xăng nên yêu cầu đồng chí đội trưởng điều động thêm nhân lực của ca
1 và ca 2 ngày hôm sau ra tăng cường. Lượng xăng ở các rãnh thoát nước rất nhiều,
khi đi đến bể số 2 tôi thấy có một chiếc máy bơm của đơn vị xúc rửa bể còn để đó đã
hỏi đồng chí Sáu là máy bơm này có bơm được xăng không vì đồng chí Sáu là người
có kinh nghiệm, đồng chí Sáu nói là máy bơm này bơm được cả xăng vì nó là chiếc
máy bơm nắp trên tàu chở xăng. Tôi đã gặp đồng chí Giám đốc Xí nghiệp xin ý kiến
để lấy chiếc máy bơm đó bơm hút xăng từ hố ga đấy vào bể 19. Tuy nhiên công việc
đầu nối điện để đảm bảo an toàn khi vận hành bơm diễn ra lâu đến 5h sáng mới bắt
đầu bơm được, trong khi đó anh em công nhân vẫn tích cực múc xăng từ các hố ga và
dùng chiếc máy bơm nhỏ của Tổng kho để thu gom. Đến 6h thì toàn bộ lượng xăng đã
được thu gom hết. Chúng tôi tiến hành phun nước để vệ sinh và đến 7h thì hoàn tất
công việc vệ sinh đảm bảo an toàn, công việc xuất nhập vẫn tiếp tục bình thường.
Sự việc đáng tiếc xảy ra nguyên nhân là do thiếu tinh thần trách nhiệm đối với
công việc được giao của đồng chí Phạm Xuân Phương đã tự ý bỏ vị trí, sự thiếu kiểm
tra đôn đốc của Trưởng ca là đồng chí Phạm Văn Kim mặc dù tôi đã nhắc nhở tại cuộc
họp chỉ huy đội giao nhận trước một tuần. Tuy nhiên xảy ra sự cố cũng là một phần do
lỗi kỹ thuật là chiếc van xả nước của bể số 1 là chiếc van chìm khi mở nó không lòi ti
van lên trên nên không phân biệt được van đang mở hay đang đóng, trên van có ghi
close, open của 2 trạng thái đóng mở, tuy nhiên công nhân vận hành không phải ai
cũng biết tiếng Anh, họ đóng mở theo quy luật là muốn đóng thì vặn theo chiều kim
đồng hồ, mở thì ngược lại. Loại van này khi ta đóng hết cỡ thì cảm giác tay thấy chặt
và khi mở hết cỡ cảm giác tay cũng chặt cho nên rất dễ bị nhầm lẫn khi vận hành. Tôi
đã biết Tổng kho có một số van loại này để tránh bị nhầm lẫn khi vận hành, tôi đã
nhiều lần đề nghị Ban Giám đốc cử bộ phận kỹ thuật để khảo sát, kiểm tra, bảo dưỡng
và thay thế, nếu bộ phận kỹ thuật nhiều việc quá thì thuê đơn vị ngoài có chức năng để
họ khảo sát và bảo dưỡng cho. Trong các cuộc họp Đội giao nhận, những lúc gặp các
đồng chí đội phó tôi vẫn nhắc nhở là không được đứng nhìn để biết là van đang đóng
hay đang mở mà phải trực tiếp đến vặn van để kiểm tra xem nó đang đóng hay đang
mở.
Để xảy ra sự cố tràn xăng nói trên với tinh thần cấp dưới làm sai, cấp trên chịu
trách nhiệm, tôi là ngươi đứng đầu Phòng Quản lý hàng hóa tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về việc này. Tôi sẵn sàng nhận hình thức kỷ luật cao nhất của Hội đồng kỷ
luật. Tôi xin hứa từ nay tôi sẽ có những biện pháp xử lý tích cực hơn, có những chế tài
nghiêm khắc hơn để không xảy ra những trường hợp tương tự.
28
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
--------
Kính gửi: BGĐ Xí nghiệp Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
Tên tôi là: Phạm Xuân Phương là nhân viên Phòng QLHH
Sau đây tôi xin trình bày lại toàn bộ sự việc trong ca trực của ngày 17 và ngày
18/08/2013.
Vào 22h00 ngày 17/08/2013 tôi tới xí nghiệp nhận ca trực hôm đó do đội phó
Phạm Văn Kim làm trưởng ca, trong khi phân ca thì đồng chí Kim phân công cho tôi
làm công việc là chuyển bể 19 về bể 01. Như công việc mọi ngày trước, trước tiên tôi
đi dò bể và do nhiệt độ bể 19 xong, tôi đi kiểm tra hệ thống tuyến ống xem đã thông
chưa và khi tuyến ống đã thông và tôi mở hai bể, sau đó tôi mới báo bộ đàm cho đồng
chí Thắng, ca trực TBCN 01 cho bơm từ bể 19 về bể 01. Lúc bắt đầu bơm chuyển là
khoảng 11h00, trong lúc bơm chuyển tôi lại đi kiểm tra hệ thống đường ống và bồn bể
đều tốt, đến khoảng 12h20 tôi và đồng chí Thắng D và đồng chí Hoàn lấy 02 can màu
để đi đổ vào bể 01 và đồng thời kiểm tra quanh khu vực bể 01 và còn ra nhìn đồng hồ
điện tử của bể 01 và báo cho đồng chí Kim biết. Khoảng 01h00 tôi còn đi ăn khuya,
xong sau đó khoảng 02h00 tôi lại đi kiểm tra hệ thống đường ống và 02 bồn. Sau đó
tôi đi vào trạm bơm FO khu vực ở bể 01, tôi ngồi ở ghế đá một thời gian và tôi đã
thiếp đi lúc nào không biết, cho đến khoảng 03h10 thì đồng chí Tùng B đi đóng bể 12
thì phát hiện ra đường xả nước cửa bể 01 bị chảy xăng ra ngoài, thì lúc này tôi cũng
giật mình tỉnh dậy và đi ra ngoài bể 01 và đồng chí Kim cũng đã có mặt ở bể 01 và lúc
này xăng ở bể 01 đã chảy ra ngoài. Khi chúng tôi phát hiện xăng chảy ra từ van xả
nước và chúng tôi ra kiểm tra và khắc phục thì thấy là van bị kênh lên vật gì đó nằm ở
trong và khi ta đóng lại thì cánh van không xuống khí được, theo chúng tôi nghĩ có thể
vừa qua do chúng ta xúc rửa bể 01 do các cặn bẩn còn nằm ở trong đó. Sau khi sự việc
xảy ra bên giao nhận đã báo cho bên bảo vệ kết hợp đóng các van chặn của hệ thống
thoát nước ở trong kho, khống chế không cho chảy ra ngoài và báo cáo cho Xí nghiệp
biết để có biện pháp cho khắc phục. Ban lãnh đạo Xí nghiệp đã cho bơm hút toàn bộ
nhiên liệu xăng chảy ra ngoài về lại bể 19 một cách an toàn.
Những lời tường trình của tôi trên đây là đúng sự thật. Nếu có sự sai sót tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Kính đơn
29
CÔNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------
BẢN KIỂM ĐIỂM
Kính gửi: - Ban Thanh Tra Pháp Chế Tổng Công ty;
- Ban Kỹ thuật An Toàn;
- Ông Giám đốc PV OIL Vũng Tàu
Tên tôi: Đoàn Danh Thừa
Sinh ngày 03 tháng 06 năm 1962
Chức vụ: Đội trưởng đội Giao nhận thuộc Phòng Quản lý HH PV OIL Vũng Tàu.
Tôi xin tường trình kiểm điểm sự việc xăng trong bể số 01 chảy ra rãnh thoát
nước trong đêm ngày 17 rạng sáng ngày 18 tháng 8 năm 2013 như sau: Thực hiện chỉ
đạo của Tổng công ty về việc thu xếp bồn bể để chuẩn bị tiếp nhận xăng M92 từ nhà
máy lọc dầu Dung Quất chuyển về. Chúng tôi đã chuyển dồn dầu FO từ bể 01 sang bể
số 17 để tận dụng sức chứa, sau đó chúng tôi tiến hành xúc rửa bể 01 theo quy định.
Đến ngày 15/08/2013 Công ty TNHH Hà Lộc đã hoàn thành công việc xúc rửa bể và
ban giao cho PV OIL Vũng Tàu. Từ ngày 16 đến ngày 17 tháng 8 năm 2013 Phòng Kỹ
thuật đầu tư tiến hành đầu nối đường ống công nghệ. Phòng Quản lý hàng hóa triển
khai công việc tới các ông đội phó cho đóng nắp ánh sáng, lỗ người chui và kiểm tra
toàn bộ hệ thống công nghệ để chuẩn bị tiếp nhận xăng M92. Là đội trưởng Đội giao
nhận tôi thường xuyên nhắc nhở các ông đội phó phải cắt cử những nhân viên có kinh
nghiệm trực tại bồn để theo dõi trong quá trình chuyển bể vì bể mới xúc rửa. Các ông
đội phó đã nhận được kế hoạch và ghi rất rõ ràng, chi tiết trong sổ bàn giao cho các ca
sau. Đến ca 3 ngày 17 tháng 8 năm 2013 (thời gian từ 22 giờ ngày 17 đến 6 giờ ngày
18). Ông Phạm Văn Kim nhận bàn giao ca trực và thực hiện kế hoạch chuyển bể số
01/KH- CB ngày 17/08/2013 với số lượng 4,947 M3 từ B19 về B01 để kịp đưa B19 và
tiếp nhận M92 từ tàu PVT Eagle. Do biết B01 vừa mới xúc rửa đưa vào sử dụng nên
ông Phạm Văn Kim đã cử ông Phạm Xuân Phương trực tiếp theo dõi, đồng thời ông
Kim còn cử một vài nhân viên đi kiểm tra lại theo bản tường trình của Ông Kim. Do
chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm ông Phạm Xuân Phương đã bỏ vị trí làm việc ra
trạm bơm số 2 và ngủ gật ở đó. Ông Phạm Văn Kim giao việc nhưng không thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc dẫn đến sự việc chảy xăng ra rãnh thoát nước cho đến khi ông
Hoàng Minh Tùng phát hiện ra. Sau khi nhận được thông tin tôi đã chạy xe đến Xí
nghiệp cùng ban lãnh đạo PV OIL Vũng Tàu và anh em công nhân xử lý kịp thời. Tuy
nhiên qua sự cố trên bản thân tôi cũng có một phần trách nhiệm vì chưa báo cáo, đề
xuất kịp thời với Giám đốc Xí nghiệp để thay thế các van ti chìm tránh nhầm lẫn đáng
tiếc xảy ra. Tôi tự kiểm điểm bản thân nghiêm khắc và cần rút ra bài học qua sự cố
này, cần sát sao hơn nữa trong việc đôn đốc nhắc nhở các ông đội phó giám sát nhân
viên trong ca trực của mình không để tình trạng tương tự tái diễn xảy ra.
Tôi cam đoan những gì tôi viết trong bản kiểm điểm này là hoàn toàn đúng sự
thật nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng kỷ luật. Tôi xin chịu mọi hình
thức kỷ luật.
Vũng Tàu, ngày 27 tháng 8 năm 2013
NGƯỜI VIẾT KIỂM ĐIỂM
(đã ký)
Đoàn Danh Thừa
30
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------
BẢN TƯỜNG TRÌNH
Kính gửi: Ban Giám đốc Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu
Tôi tên: Phạm Văn Kim. Đội phó đội giao nhận thuộc Phòng Quản lý hàng hóa Xí
nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu.
Tôi xin tường trình toàn bộ sự việc trong ca trực ca 3 từ 22h00 ngày 17/08/2013
đến 6h00 ngày 18/08/2013 như sau:
Vào lúc 22h00’ ngày 17/08/2013 tôi đến nhận ca và nhận lại các kế hoạch công
việc của ca 2 giao lại, nhận xong tôi xuống phân công công việc cụ thể cho từng người
gồm kế hoạch chuyển bể 12 về bể 03 giao cho đồng chí Phạm Văn Sướng phụ trách;
kế hoạch chuyển bể 19 về bể 01 giao cho đồng chí Phạm Xuân Phương phụ trách. Khi
bắt đầu vào công việc tôi đi kiểm tra toàn bộ các bồn và báo cáo cho đồng chí Nguyễn
Mạnh Thắng trực tại trạm bơm công nghệ số 1 biết để điều hành chuyển bồn: Khi đó
đồng chí Sướng báo đã đo và mở xong bể 12 và bể 03 và tôi đã cho chuyển bể 12 về
bể 03 trước, khi chuyển bể 12 về bể 03 còn đồng chí Phúc báo đã đo và mở bể 19 và
bể 01 xong và tôi đã tiến hành cho bơm chuyển bể 19 về bể 01, vì bể 01 mới được xúc
rửa và đưa vào sử dụng để chứa xăng cộng với tuyến ống mới được đấu nối, nên tôi đi
kiểm tra lại tuyến ống chuyển về bể 01, đến khoảng 00h 50’ ngày 18/08/2013 đồng chí
Phúc có báo cho tôi bể số 01 đã lên trên công tắc theo số điện tử hiển thị 75mm, và tốc
độ bơm chuyển 250m3/h, tôi đã cho lấy màu pha 0,2 lít/1000m3 vào bể 01 theo kế
hoạch, đến khoảng 02h tôi cho đồng chí Nguyễn Hải Hoàn đi kiểm tra tuyến ống và
bồn xem thế nào. Sau khi đi kiểm tra đồng chí Hoàn về báo cáo có hiện tượng rò rỉ,
đến 02h10’ đồng chí Nguyễn Hải Hoàn và đồng chí Nguyễn Đức Thắng đi kiểm tra lại
và báo về các tuyến ống và bồn vẫn an toàn, đến khoảng 03h00 khi đồng chí Sướng
báo về là chuyển bể 12 về bể 03 gần xong tôi cho đồng chí Hoàng Minh Tùng ra để
phụ đóng van chuyển bồn, khi đồng chí Tùng đi ra đã phát hiện xăng chảy từ đường xả
nước ra, đồng chí Tùng chạy sang đóng chặt van lại và báo cho tôi biết để xử lý, luc đó
tôi đang đi ra trạm bơm công nghệ số 1 và tôi đã lệnh cho đồng chí Thắng trực bơm
cho dừng bơm chuyển và đóng tuyến với bồn lại, sau đó tôi báo cho đồng chí Đội phó
đội Bảo vệ là Nguyễn Văn Viễn cho đóng tất cả các van đường thoát nước để xăng
không bị rò ra ngoài, tôi đã điện thoại và báo cho đồng chí Phó giám đốc Nguyễn
Xuân Nhâm là người trực lãnh đạo về vụ việc trên. Khoảng 20 phút sau các đồng chí
trong Ban giám đốc và các Phòng ban ra kiểm tra, đóng van kịp thời nên lượng xăng ra
khỏi bờ đê (hố ga 3 ngăn). Ngăn đầu tiên có khoảng 2 phy, 2 ngăn sau không có váng
xăng dầu, và kiểm tra hố lắng hoàn toàn không có váng xăng dầu. Được sự chỉ đạo của
Ban giám đốc chúng tôi đã tổ chức thu gom toàn bộ lượng xăng dầu ở các rãnh thoát
nước và ở ngăn đầu tiên của hố ga 3 ngăn về bể 19 một cách nhanh chóng và an toàn.
Do công tác chuẩn bị máy móc và dụng cụ lâu, nên khoảng 2h30’ thì chúng tôi mới
bắt đầu cho hút và đến khoảng 6h30’ thì đã hút xong lượng xăng dầu và kiểm tra
không còn mùi xăng dầu quanh khu vực tràn.
Tôi xin cam đoan những lời khai trên là đúng sự thật và chịu trách nhiệm về lời
khai của mình.
Vũng Tàu, ngày 19/08/21010
Người viết bản tường trình
(đã ký)
31
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
32
đạo các phòng ban tiến hành kiểm tra công tác kỹ thuật và làm các biên bản nghiệm
thu. Tôi xin chịu mọi hình thức kỷ luật của Ban Giám đốc Tổng công ty, Ban Giám
đốc Xí nghiệp về sự cố xảy ra trong ca trực của mình. Đây cũng là một bài học cho
bản thân tôi trong công việc điều hành các hoạt động tại Tổng kho xăng dầu.
33
XÍ NGHIỆP TỔNG KHO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XĂNG DẦU VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHÒNG BẢO VỆ AN TOÀN --------
Vũng Tàu, ngày 18 tháng 08 năm 2013
PHÒNG BV - AT
34
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tôi tên là: Nguyễn Mạnh Thắng là công nhân đội giao nhận trực thuộc Phòng
quản lý hàng hóa.
Vào hồi 22h00 ngày 17/08/2013 tôi đến nhận ca 03 và được anh Phạm Văn
Kim phân công công việc tại TBCN I. Sau khi nhận bàn giao công việc từ ca 02 tôi
kiểm tra công nghệ nhận thấy không có điều gì bất thường, tôi đã cho vận hành máy
bơm số 03 xuất hàng DO ra thượng lưu. Máy bơm số 07 chuyển hàng từ bể 12 sang Bể
03, máy bơm số 06 chuyển hàng từ Bể 19 về Bể 01 theo như kế hoạch của lãnh đạo
Phòng quản lý hàng hóa. Trong quá trình vận hành bơm không có điều gì bất thường
tại khu vực TBCN I.
Lúc 03h10’ ngày 18/10/2013 tôi nhận được lệnh của anh Kim dừng vận hành
máy 06 đóng chặn các van vào và ra của máy, đóng van Đ12 Bể 19. Sau đó cùng với
mọi người trong ca trực khắc phục sự cố.
Tôi xin cam đoan những gì nêu trên là đúng sự thật. Tôi xin chịu trách nhiệm
với những gì tường trình trên.
35
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
Kính gửi: Ban Giám đốc XN Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu
Đồng kính gửi Ban lãnh đạo phòng Bảo Vệ - An Toàn.
Tôi tên là: Nguyễn Văn Viễn, hiện là đội phó đội Bảo Vệ - An Toàn XN Tổng
kho XD Vũng Tàu.
Ngày 17 tháng 08 năm 2013 tôi trực ca 18 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau,
trong ca trực (ca 3) vị trí khu vực gồm Công xe bồn – A. Điệp, Trạm bơm cứu hỏa –
A. Hùng, Thượng lưu – A. Duy + Hiếu và xe cứu hỏa A. Chiêm trực tuần tra khu vực
vành đai kho, vào khoảng 22h30 tôi có nghe thông tin trên bộ đàm là có kế hoạch
chuyển bể, bắt đầu lúc 22 giờ 30 chuyển bể 12 về bể 03 và lúc 22 giờ 45 bể 19 về bể
01 cùng thời điểm đó tại Thượng lưu đang xuất hàng cho tàu Nam Bình 01 theo phiếu
là 450m3. Do 0,05 từ bể số 18 nhưng tàu chỉ nhận 330m3 do barem tàu, đến 01 giờ 30
phút thì việc xuất hàng kết thúc và khoảng 01 giờ 40 thì tàu rời cảng. Vào khoảng 02
giờ 10 phút tôi có đi kiểm tra khu vực trong kho khi đến bồn số 01 biết rằng đang
chuyển bồn 19 về bồn 01 nên tôi có đi vào kiểm tra nghĩ rằng bồn này có xúc rửa và
có mở lỗ người chui nên tôi kiểm tra lối người chui xong thấy an toàn nên trở ra và đi
về phòng trực, đến khoảng 03 giờ 10 khi đang đi tuần đến khu vực nhà để xe cứu hỏa
thì nhận được tin báo từ anh Kim và sau đó anh Chiêm từ bồn 01 xăng bị chảy tràn
qua đường xả nước, qua kiểm tra phát hiện: Xăng đã ngập các rãnh thoát nước, ngay
lập tức tôi cùng anh Kim đóng van chặn tuyến bờ đê khu vực bồn số 19 đồng thời yêu
cầu anh em đóng tất cả các van chặn rãnh thoát nước, không cho nhiên liệu thoát ra
ngoài, sau đó cùng anh em triển khai phòng cháy đồng thời rút một số vị trí tăng
cường về khu vực tràn xăng, trực PCCN và cùng tham gia thu gom nhiên liệu. Sau đó
tôi điện thoại báo Trưởng phòng BV – AT và các phó phòng.
36
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
37
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: Ban Giám đốc xí nghiệp Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
Tên tôi là: Nguyễn Hải Hoàn
Bộ phận công tác: Nhân viên Phòng Quản lý hàng hóa
Vào hồi 22h00’ ngày 18/08/2013, tôi đến công ty nhận ca như thường lệ, nhận ca
xong, được đội phó Phòng Quản lý hàng hóa là đồng chí Phạm Văn Kim giao nhiệm
vụ đi đo bồn 18, 10, 9 vào lúc 22h30’. Khi đo bồn xong được đội phó giao nhiệm vụ đi
kiểm tra tuyến ống vào lúc 01h00’ sáng. Qua kiểm tra không có sự rò rỉ. Đến 2h00’
sáng đội phó giao nhiệm vụ đi kiểm tra tuyến ống lại lần nữa. Qua kiểm tra cũng
không có sự rò rỉ. Vào khoảng 4h00’ sáng, anh em trong ca phát hiện ra sự rò rỉ ở bồn
01 và đã nhanh chóng đóng các van tuyến, van chặn, van thoát nước ở bồn 19 và tiến
hành xử lý sự việc trên.
Tôi xin cam đoan những lời nói trên là hoàn toàn đúng sự thật. Nếu sai tôi xin
chịu mọi trách nhiệm trước xí nghiệp.
Người viết
(đã ký)
Nguyễn Hải Hoàn
38
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: Ban Giám đốc xí nghiệp Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
Tên tôi là: Nguyễn Đức Thắng Công nhân đội giao nhận Phòng Quản lý hàng hóa,
xí nghiệp Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu.
Tôi xin tường trình về công việc của mình được giao vào ca 3 ngày 17 tháng 08
năm 2013 như sau:
Sau khi vào nhiệm vụ tôi được đội phó ca trực là đồng chí Phạm Văn Kim giao
nhiệm vụ là đi xả bồn phụ để chuyển bồn, sau đó được phân công đo các bồn để kiểm
tra số 00h00’ hàng ngày gồm bồn 11, 13, 14, 15, 16.
Sau khi ghi sổ sách xong đến khoảng 2h00’ tôi có đi cùng với đồng chí Nguyễn
Hải Hoàn để kiểm tra tuyến ống chuyển từ bể 19 về bể 01 thì không phát hiện thấy sự
cố rò rỉ gì. Sau đó tôi về trạm bơm để học công nghệ tiếp.
Đến khoảng 3h10’ thì thấy đồng chí Kim hô dừng bơm và huy động mọi người
ra bể số 01 để đóng cô lập các van thoát nước để xăng không chảy ra ngoài bồn đó.
Sau đó được sự chỉ đạo của Ban Giám đốc chúng tôi đã cho hút hết số lượng xăng bị
tràn ra về bồn số 19 một cách nhanh chóng và an toàn.
Trên đây là toàn bộ sự việc và sự cố mà chúng tôi đã làm và khắc phục an toàn.
Tôi xin cam đoan những lời khai trên là đúng sự thật và chịu trách nhiệm về lỗi trên.
39
TỔNG CÔNG TY DẦU VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨ VIỆT NAM
XÍ NGHIỆP TỔNG KHO XĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
DẦU VŨNG TÀU --------
------
Số: 25/BBH-TKVT Vũng Tàu, ngày 21 tháng 08 năm 2013
40
17/08/2013 (ca 3 từ 22 giờ ngày 17/08/2013 đến 06 giờ sáng ngày 18/08/2013) do ông
Phạm Văn Kim - đội phó giao nhận phụ trách, ông Phạm Xuân Phương là nhân viên
giao nhận được ông Phạm Văn Kim phân công trực tiếp thực hiện theo dõi, giám sát
việc bơm chuyển xăng từ bể số 19 đến bể số 01 (phải thường xuyên có mặt tại bể này).
Khi nhận giao ca thực hiện nhiệm vụ, ông Phạm Xuân Phương có đi kiểm tra 2 bể,
kiểm tra tuyến ống, kiểm tra van xả đảm bảo an toàn xong và báo cáo cho ông Kim
cùng ông Nguyễn Mạnh Thắng là nhân viên giao nhận trực trạm bơm công nghệ số 1
để tiến hành bơm chuyển xăng từ bồn số 19 về bồn số 1. Công việc được triển khai
đúng kế hoạch. Đến khoảng 1 giờ sáng ngày 18/08/2013 ông Phương có xin phép ông
Kim nghỉ để ăn cơm, lúc này ông Kim cử ông Nguyễn Hải Hoàn và Nguyễn Đức
Thắng cùng là nhân viên giao nhận trong ca trực đi kiểm tra hệ thống bồn số 01, bồn
số 19 và không phát hiện có hiện tượng rò rỉ gì, đến khoảng 2 giờ 10’ ông Hoàn và
ông Thắng tiếp tục đi kiểm tra lần nữa và báo cáo ông Kim công việc chuyển bể vẫn
bình thường. Trước đó, khoảng 2 giờ ông Phương ăn cơm xong và quay lại vị trí được
phân công và có đi kiểm tra một lượt hệ thống không thấy có gì lạ nên đã về trạm bơm
FO và ngủ quên. Đến khoảng 3 giờ anh Hoàng Minh Tùng là nhân viên giao nhận
(được phân công trực chuyển bể từ bể số 12 sang số 03) phát hiện sự cố xăng bị chảy
từ van xả nước của bể số 01 ra rãnh thoát nước trong khu vực và đã kịp thời đóng chặt
van này lại.
Ngay sau khi phát hiện sự cố toàn thể ban lãnh đạo Xí nghiệp đã có mặt tại hiện
trường, Giám đốc Xí nghiệp đã trực tiếp chỉ đạo, huy động toàn bộ lực lượng trong ca
3 và tăng cường quân số của ca tiếp theo để khắc phục sự cố, triển khai phương án bảo
vệ phòng chống cháy nổ, ngăn chặn không cho xăng tràn ra hệ thống thoát nước chung
của Xí nghiệp, triển khai thực hiện việc hút vét toàn bộ lượng xăng đã tràn ra rãnh
thoát nước tại tất cả các vị trí có thể (hút vào phi, hút vào các tẹc thu gom, hút về bể)
bằng các phương tiện hiện có, đo lại chiều cao và nhiệt độ các bể liên quan (bể 19
chuyển đi, bể 01 tiếp nhận). Kết quả đến 7 giờ 30 phút sáng cùng ngày, toàn bộ số
xăng bị tràn ra ngoài đã được thu gom hết, hiện trường đã được thu dọn và vệ sinh
sạch sẽ, không xảy ra bất cứ hỏa hoạn nào, không có hiện tượng ô nhiễm môi trường
và không ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động. Sau 7 giờ 30 phút các hoạt
động xuất/nhập hàng hóa của kho được tiến hành bình thường. Đồng thời Xí nghiệp đã
yêu cầu các cá nhân có liên quan trong ca trực để xảy ra sự cố tràn xăng làm bản tường
trình và yêu cầu phòng QLHH lập tức làm các công việc sau: tính toán lượng xăng có
bị thất thoát không; bao nhiêu xăng đã bị tràn ra; bao nhiêu xăng đã hút vét vào bồn
19; bao nhiêu xăng đã hút vét vào các phi và các tẹc thu gom; bao nhiêu xăng đã
chuyển về bồn số 01; kiểm tra lại các van kể cả van thông át liên quan sang các bồn,
tuyến ống khác có được đóng kín trước khi chuyển xăng không. Sau khi có kết quả
xác minh sẽ tiến hành xem xét trách nhiệm cá nhân.
- Kết quả kiểm tra xác minh:
1- Sau khi kiểm tra, đo tính và tính toán cho thấy lượng xăng đã chuyển từ bể số 19
về bể số 01, lượng xăng tràn rãnh thoát nước qua van xả nước bồn số 01 và lượng
xăng được hút từ hố ga 3 ngăn về bồn 19; lượng xăng thu gom lại ở các vị trí khác
nhau được đựng trong phi, trong tẹc thu gom được bơm về bể số 19 ngày 20/08/2013
(do ngày 18,19 và 20 phải xuất xăng cho tàu Haduco, Bạch Đằng và về bồn nên không
có đường để bơm toàn bộ lượng xăng đã gom được còn chứa trong các phi, trong các
tẹc thu gom, đến tối ngày 20/08/2013 mới có thùng nên mới có thể bơm về bể 19 được
để xác định khối lượng thu gom còn lại). Cụ thể như sau:
41
• Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bể 19 về bể số 01 đến khi phát hiện ra sự
cố tràn xăng vào lúc 3 giờ 10’ là 58.203 lít (có biên bản đo tính hàng chuyển bể
kèm theo) bao gồm cả số lượng xăng tràn ra rãnh thoát nước, qua van xả nước
bồn số 01.
• Số lượng xăng thu gom sau sự cố tràn xăng:
+ Số lượng xăng hút vét từ hố ga 3 ngăn gần bồn 19 bơm về bồn 19 là: 25.166 lít
(có biên bản tính hàng nhập kém theo).
+ Số lượng xăng hút vét từ rãnh thoát nước vào các phi, các tẹc thu gom được bơm
về bể 19 là: 29.738 lít (có biên bản đo tính hàng nhập kèm theo).
+ Tổng lượng xăng thu gom là: 54.904 lít
+ Số lượng xăng thất thoát là: 58.203 lít- 54.904 lít = 3.299 lít, lượng thất thoát
này là do quá trình bay hơi tràn ra rãnh thoát nước.
2. Sau khi kiểm tra thì trên thực tế xăng mới chảy đến hố đầu tiên tại khu vực hố 3
ngăn gần chân bồn số 19 và chưa sang hố ngăn thứ 2 và thứ 3 nên không thể thoát ra
ngoài được theo hệ thống thoát nước qua cảng Vietsovpetro (anh Nguyễn Kế Trí phó
phòng BVAT đã trực tiếp sang cảng Việt Xô để kiểm tra theo lệnh của Giám đốc, có
báo cáo kèm theo).
Qua xem xét tình tiết sự việc, nhận xét quá trình công tác và thái độ thành khẩn
và tích cực khắc phục sự cố của các cá nhân, ban đầu có thể xác định sự vụ không có
động cơ tiêu cực hay phá hoại tài sản của Xí nghiệp mà do thiếu trách nhiệm của nhân
viên Phạm Xuân Phương và sự chủ quan tin tưởng vào cấp dưới của đội phó Phạm
Văn Kim đã để xảy ra sự cố làm ảnh hưởng đến uy tín và tổn thất tài sản của Xí nghiệp
(mặc dù tổn thất với giá trị không lớn).
- Ý kiến của Ban chấp hành Công đoàn Xí nghiệp:
Qua nghiên cứu hồ sơ gồm: Bản tường trình của những người liên quan được
lãnh đạo Xí nghiệp mời tham dự và các biên bản báo cáo kiểm tra xác minh sự vụ.
Qua ý kiến của các đồng chí là cán bộ chủ chốt của Xí nghiệp, Công đoàn có ý
kiến như sau:
+ Vụ việc đã được xác minh không có động cơ tiêu cực, tuy nhiên qua đó đã bộc lộ
rõ sự thiếu tinh thần trách nhiệm của nhân viên Phạm Xuân Phương và sự chủ quan
của đội phó Phạm Văn Kim.
+ Căn cứ Bộ luật lao động, căn cứ Nội quy lao động của Tổng công ty, đề nghị Xí
nghiệp có những hình thức kỷ luật đúng với mức độ vi phạm của từng cá nhân đảm
bảo thực hiện nghiêm kỷ luật lao động tại Xí nghiệp, đồng thời để làm gương cho
nhân viên, tuy nhiên cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ như các cá nhân đã rất khẩn
trương, nghiêm túc trong việc khắc phục sự cố, kiểm điểm nhận trách nhiệm.
- Tổng hợp ý kiến:
Cuộc họp đã nhất trí kết luận và báo cáo Tổng công ty mức độ vi phạm của các ông
Phạm Văn Kim, Phạm Xuân Phương trong vụ việc để tràn xăng trong quá trình chuyển
từ bể số 19 sang bể số 01 và đề nghị Tổng công ty xem xét quyết định hình thức kỷ
luật tương xứng với mức vi phạm của ông Kim và ông Phương như sau:
Ông Phạm Văn Kim, đội phó giao nhận phụ trách ca chưa hoàn thành nhiện vụ
được giao, tin tưởng cấp dưới nên chưa kiểm tra, phát hiện kịp thời sự cố, tuy nhiên
khi phát hiện ra sự cố đã rất tích cực trong công việc khắc phục sự cố, thiệt hại vật
chất không lớn, ông Kim tự nhận trách nhiệm về số xăng bị hao hụt bay hơi trong quá
trình bơm, hút.
42
TỔNG CÔNG TY DẦU VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XN TỔNG KHO XĂNG DẦU Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
VŨNG TÀU
Số: 1165/TKVT-TCHC
V/v sự cố van xả nước tại bồn 01
không đóng kín làm tràn xăng ra rãnh Vũng Tàu, ngày 21 tháng 08 năm 2013
thoát nước khi chuyển xăng từ bồn 19
sang bồn 01 ngày 18/08/2013
Triển khai văn bản số 1788/DVN - KDSPD ngày 06/08/2013 của Tổng Công ty
về việc thu xếp bồn tiếp nhận thêm xăng M92 điều chuyển từ NMLD Dung Quất và
trước mắt tạo sức chứa nhập tàu PVT Eagle ngày 22/08/2013, Xí nghiệp Tổng kho
xăng dầu Vũng Tàu triển khai chuyển xăng (có màu) từ bồn 19 về bồn 01 (để lấy bể 19
nhập xăng Dung Quất không màu). Tuy nhiên, trong quá trình chuyển bể đã xảy ra sự
cố van xả nước bồn 01 không đóng kín làm tràn xăng ra rãnh thoát nước vào rạng sáng
ngày 18/08/2013. Xí nghiệp xin được báo cáo Tổng Công ty cụ thể như sau:
Sau khi hoàn tất việc xúc rửa FO để chuyển sang chứa xăng vào ngày
15/08/2013 và hoàn tất việc chuyển đổi hệ thống công nghệ từ nhập FO sang nhập
xăng bằng việc lắp đặt thêm đường ống 8” từ đường 12 sang đường 4 qua bồn số 09
ngày 16/08/2013, theo kế hoạch đổi bồn số 01/KH-CB ngày 17/08/2013 thì ca 3 ngày
17/08/2013 (22h đêm đến 06h sáng) tiến hành chuyển xăng M92 (có mầu) từ bồn số
19 về bồn số 01, giải phóng bồn 19 để nhập xăng (không mầu) Dung Quất (sẽ nhập
vào ngày 22/08/2013) và đồng thời tiến hành chuyển sản phẩm đáy từ bồn số 12 về
bồn số 3 để pha DO.
Việc triển khai thực hiện chuyển xăng M92 từ bồn số 19 về bồn số 01 bắt đầu
từ sau 11h đêm và cho đến 02h10 sáng ngày 18/08/2013 vẫn diễn ra bình thường (theo
bản tường trình của đồng chí đội phó giao nhận Phạm Văn Kim, của nhân viên giao
nhận Phạm Xuân Phương, Nguyễn Hải Hoàn và Nguyễn Đức Thắng, của đội phó dự
bị phòng BVAT Nguyễn Văn Viễn); Đến 3h10 sáng ngày 18/08/2013 thì nhân viên
giao nhận Hoàng Minh Tùng phát hiện sự cố xăng chảy ra từ van xả nước tại bồn số
01 ra rãnh thoát nước và đã kịp thời đóng chặn van này lại.
Ngay sau khi xảy ra sự cố, toàn thể ban lãnh đạo Xí nghiệp đã có mặt kịp thời
cùng toàn thể nhân viên bảo vệ và giao nhận trực ca 3 khẩn trương khắc phục sự cố.
Giám đốc Xí nghiệp trực tiếp chỉ đạo triển khai các phương án bảo vệ PCCC, ngăn
chặn xăng tràn ra ngoài khu vực hệ thống thoát nước chung của Xí nghiệp, đo chiều
cao, nhiệt độ ở các bồn liên quan (bồn 19 chuyển đi và bồn 01 tiếp nhận) và nhanh
chóng tập trung tối đa quân số trong ca và tăng cường quân số của ca tiếp theo để triển
khai thực hiện hút vét toàn bộ số lượng xăng đã tràn ra ngoài rãnh thoát nước tại tất cả
các vị trí có thể (hút vào phi hút vào các téc thu gom, hút về bồn) bằng các phương
tiện hiện có.
43
Sau khi kiểm tra thì trên thực tế xăng mới chảy đến hố đầu tiên tại khu vực hố 3
ngăn gần chân bồn số 19 và chân bồn hố ngăn thứ 2 và thứ 3 nên không thể thoát ra
ngoài theo hệ thống thoát nước qua cảng Vietsovpetro (anh Nguyễn Kế Trí phó phòng
BVAT đã trực tiếp sang cảng Vietsovpetro để kiểm tra theo lệnh của Giám đốc, có báo
cáo kèm theo). Công việc hút vét được triển khai từ 03g10 đến 05h30 (thời gian này
chủ yếu là hút vét vào các phi ở các vị trí khác nhau và hút vào téc thu gom), sau khi
đấu nối được máy bơm (mượn của đơn vị đang thi công xúc rửa bồn số 2), ống mềm
4” với bồn số 19 đảm bảo an toàn PCCN, vào lúc 05h30 bắt đầu tiến hành bơm hút
lượng xăng tại hố ga 3 ngăn gần chân bồn số 19 và đến 06h30 thì hút sạch. Sau đó từ
06h30 đến 07h30 tiến hành xả nước bồn số 19 và vệ sinh toàn bộ khu vực có xăng tràn
ra. Sau 07h30 hoạt động xuất nhập của kho trở lại bình thường
Cùng ngày, ngay sau khi hoàn tất việc khắc phục sự cố, Giám đốc Xí nghiệp đã
yêu cầu các cá nhân liên quan trong ca trực để xảy ra sự cố tràn xăng làm bản tường
trình và yêu cầu Phòng QLHH lập tức làm các công việc sau: tính toán lượng xăng có
bị thất thoát không, bao nhiêu xăng bị tràn ra, bao nhiêu xăng đã hút vét vào bồn 19,
bao nhiêu xăng đã hút vét vào các phi, vào téc thu gom, bao nhiêu xăng đã chuyển về
bồn số 01; kiểm tra lại các van kể cả các van thông át liên quan sang các bồn, tuyến
ống khác có được đóng kín trước khi chuyển xăng không.
Sau khi kiểm tra, đo tính và tính toán cho thấy lượng xăng đã chuyển từ bồn số
19 về bồn số 01, lượng xăng tràn ra rãnh thoát nước qua van xả nước bồn số 01 và
lượng xăng được hút từ hố ga số 03 ngăn về bồn số 19, lượng xăng thu gom lại ở các
vị trí khác nhau được đựng trong phi, trong téc thu gom được bơm về bồn số 19 ngày
20/08/2013 (do ngày 18, 19, 20/08/2013 phải xuất xăng cho tàu Haduco, Bạch Đằng
và xe bồn nên không có đường để bơm toàn bộ lượng xăng thu gom được còn chứa
trong các phi, trong téc thu gom, đến tối ngày 20/08/2013 mới có đường nên mới có
thể bơm về bồn số 19 được để xác định khối lượng thu gom còn lại). Cụ thể là:
- Số lượng xăng bơm chuyển từ bồn số 19 để điền đầy đường ống (đường ống
làm thêm 8” nối từ bồn số 01, đường số 12 sang đường số 4 qua bồn số 09 trước khi
bơm chuyển là trống) là 17.158 lít (có biên bản đo tính hàng chuyển bồn kèm theo).
- Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bồn số 19 về bồn số 01 đến khi phát hiện
ra sự cố tràn xăng lúc 03h10 là 58.203 lít (có biên bản đo tính hàng chuyển bồn kèm
theo) bao gồm cả lượng xăng tràn ra rãnh thoát nước qua van xả nước bồn số 01.
- Số lượng xăng thu gom sau sự cố tràn xăng:
+ Số lượng xăng hút vét từ hố ga 03 ngăn gần bồn số 19 bơm về bồn 19 là:
25.166 lít (có biên bản đo tính hàng chuyển bồn kèm theo).
+ Số lượng xăng hút vét từ rãnh thoát nước vào các phi, vào téc thu gom
được bơm về bồn số 19 là: 29.738 lít (có biên bản đo tính hàng chuyển bồn kèm
theo).
+ Tổng lượng xăng thu gom là: 54.904 lít
- Số lượng xăng bị thất thoát là 58.203 lít – 54.904 = 3.299 lít, lượng thất thoát
này do bay hơi trong quá trình tràn xăng ra rãnh thoát nước.
Như vậy lượng xăng thất thoát do sự cố tràn từ bồn số 01 qua van xả nước ra
rãnh thoát nước không lớn (khoảng 3,3m3 do bay hơi); việc tràn xăng cũng chưa ảnh
hưởng lớn đến môi trường vì xăng không tràn ra hệ thống thoát nước chung qua cảng
Vietsovpetro để ra hệ thống thoát nước của thành phố; chưa xảy ra cháy nổ, không có
hiện tượng ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động. Tuy nhiên, ngày 20/08/2013
Xí nghiệp cũng đã họp kiểm điểm trách nhiệm và xem xét mức độ vi phạm của từng cá
44
nhân trong ca trực (biên bản họp kèm theo) và đề xuất Tổng Công ty hình thức kỷ luật
đối với cá nhân sai phạm như sau:
1. Ông Phạm Văn Kim, đội phó giao nhận phụ trách ca chưa hoàn thành nhiệm
vụ được giao, tin tưởng cấp dưới nên chưa kiểm tra phát hiện kịp thời sự cố. Tuy nhiên
khi phát hiện ra sự cố đã rất tích cực trong công việc khắc phục sự cố, thiệt hại vật
chất không lớn, tự nhận trách nhiệm với số thiệt hại này. Xí nghiệp kiến nghị hình
thức kỷ luật khiển trách bằng văn bản.
2. Ông Phạm Xuân Phương, nhân viên giao nhận - người trực tiếp được giao
nhiệm vụ theo dõi việc chuyển xăng từ bồn số 19 về bồn số 01 đã không làm tròn trách
nhiệm được giao, có kiểm tra nhưng đóng van xả nước bồn số 01 không kín để xăng
tràn ra ngoài, không phát hiện sự cố kịp thời do ngủ gật tại trạm bơm FO trong khi làm
nhiệm vụ, tuy nhiên rất tích cực tham gia khắc phục sự cố. Xí nghiệp kiến nghị hình
thức kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương trong thời gian 6 tháng.
Trên đây là báo cáo về sự cố van xả nước bồn số 01 không được đóng kín là
tràn xăng ra rãnh thoát nước trong lúc chuyển xăng từ bồn số 19 về bồn số 01 và các
kiến nghị hình thức kỷ luật đối với các cá nhân vi phạm. Xí nghiệp Tổng kho xăng dầu
Vũng Tàu xin được báo cáo Tổng Công ty xem xét và chỉ đạo.
Trân trọng kính chào!
45
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨ VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
(PV OIL) ------
--------
Số: 118/ UQ - DVN TP. Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 9 năm 2013
GIẤY ỦY QUYỀN
- Căn cứ Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2006 và các văn
bản hướng dẫn liên quan hiện hành;
- Căn cứ Bộ luật Lao động có hiệu lực ngày 01/05/2013 và các văn bản hướng
dẫn liên quan hiện hành;
- Căn cứ vào Quyết định số 1251/QĐ- DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng
Quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc phê duyệt và ban hành Điều lệ tổ
chức và hoạt động của Tổng công ty Dầu Việt Nam và các văn bản, sửa đổi bổ
sung;
- Xét đề nghị của Giám đốc Ban Tổ chức Nhân sự Tổng công ty,
Người ủy quyền:
- Họ và tên: NGUYỄN XUÂN SƠN
- Sinh ngày: 22/04/1959
- Hộ chiếu số: 273435xxx; cấp ngày: 09/01/2011; Tại CA tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu
- Chức vụ: Tổng Giám đốc Tổng công ty.
Người được ủy quyền:
- Họ và tên: TRỊNH KIM NHẠC
- Sinh ngày: 17/10/1955
- CMND số: 010424xxx; cấp ngày: 14/06/1999; Tại: CA.TP. Hà Nội
- Chức vụ: Phó Tổng Giám Đốc Tổng công ty
Nội dung ủy quyền:
Người ủy quyền đồng ý giao và Người được ủy quyền đồng ý nhận thay mặt người
ủy quyền xem xét và tiến hành xử lý kỷ luật đối với các cá nhân, tập thể vi phạm trong
vụ việc tràn xăng khi chuyển xăng từ bồn số 19 về bồn số 01 vào sáng ngày
18/08/2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu, bao gồm:
- Ông Phạm Văn Kim – Đội phó Giao nhận thuộc phòng Quản lý hàng hóa;
- Ông Phạm Xuân Phương – Nhân viên Giao nhận thuộc phòng Quản lý hàng
hóa;
- Các cá nhân và tập thể khác có liên quan đến vụ việc.
Người được ủy quyền được áp dụng một trong các hình thức kỷ luật như nêu trong
Nội quy lao động Tổng công ty Dầu Việt Nam và Điều 125 Bộ luật lao động của Nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Thời hạn ủy quyền:
Ủy quyền này có hiệu lực thi hành kể từ ngày kí và kết thúc khi hoàn thành việc xử
lý kỷ luật.
Trách nhiệm của người được ủy quyền:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Người ủy quyền về việc thực hiện công
việc trong phạm vi được ủy quyền;
46
- Trong quá trình thực hiện công việc được ủy quyền phải tuân thủ các quy định
của pháp luật; các quy chế, quy định của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng
công ty;
- Báo cáo bằng văn bản về việc thực hiện các công việc được ủy quyền cho
Người ủy quyền ngay sau khi kết thúc công việc được ủy quyền;
- Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền,
không được ủy quyền cho người khác.
Nơi nhận:
- Ông Trịnh Kim Nhạc;
- Lưu: VT, TCNS, TTPC, NCK 4b
47
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập -Tự do –Hạnh phúc
(OV OIL)
-------
Số 134/BB-DVN/C
TP. Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 9 năm 2013
48
3. Các cá nhân vi phạm kỷ luật và các cá nhân có liên quan đến vụ việc trình bày
bảng tường trình diễn biến sự việc (các bản tường trình được kèm theo Biên bản
này)
4. Sau khi nghe các đương sự trình bày sự việc, Ông Nguyễn Lê Minh-Giám đốc
Ban Tổ chức Nhân sự Tổng công ty tóm tắt diễn biến sự việc như sau:
Ngày 17/8/2013 PV OIL Vũng Tàu có kế hoạch chuyển xăng M92 (có màu) từ
bể số 19 sang bể số 01 để tạo sức chứa để nhận lô hàng Xăng M92 (không màu) từ nhà
máy lọc dầu Dung Quất từ tàu PVT Eagle vào ngày 22/08/2013.
Công việc vận chuyển bể được tiến hành vào lúc 23h ngày 17/08/2013 (ca 3 từ
22h ngày 17/08/2013 đến - 6h sáng ngày 18/08/2013). Ca trực này do ông Phạm Văn
Kim - Đội phó đội giao nhận phụ trách và ông Phạm Xuân Phương - Nhân viên giao
nhận được phân công trực tiếp theo dõi và giám sát việc bơm chuyển xăng từ bể số 19
sang bể số 01.
Khi giao ca và thực hiện nhiệm vụ, Ông Phạm Xuân Phương có đi kiểm tra hai
bể, kiểm tra tuyến ống và báo cáo ông Phạm Văn Kim và Ông Nguyễn Mạnh Thắng
- nhân viên giao nhận trực trạm bơm công nghệ số 1 để chuyển xăng từ bồn số 19 sang
bồn số 01. Công việc được triển khai thực hiện đúng kế hoạch.
Đến khoảng 1h sáng ngày 18/08/2013 ông Phạm Xuân Phương xin phép ông
Phạm Văn Kim nghỉ ăn cơm. Lúc này ông Phạm Văn Kim cử hai ông Nguyễn Hải
Hoàn và Nguyễn Đức Thắng đều là nhân viên giao nhận trong ca trực đi kiểm tra lại
toàn bộ hệ thống bồn bể, đường ống và không phát hiện có hiện tượng rò rỉ. Đến
khoảng 2h 10 phút, hai ông Nguyễn Hải Hoàn và Nguyễn Đức Thắng lại tiếp tục
kiểm tra lần nữa vào báo cáo ông Phạm Văn Kim công việc chuyển bể vẫn diễn ra
bình thường.
Khoảng 2h sáng, sau khi ăn cơm xong ông Phạm Xuân Phương quay lại vị trí
được phân công và đi kiểm tra một lượt hệ thống bồn bể, đường ống một lần nữa,
không thấy hiện tượng gì lạ nên ông Phạm Xuân Phương đã tự động về trạm bơm FO
và ngủ.
Đến khoảng 3h sáng ngày 18/08/2013, Ông Hoàng Minh Tùng-Nhân viên giao
nhận (được phân công trực chuyển DO từ bể số 12 sang bể số 03) phát hiện sự cố tràn
xăng từ van xả nước của bể số 01 ra rãnh thoát nước trong khu vực bể và đã kịp thời
đóng chặt van này lại.
Ngay sau khi phát hiện sự cố, toàn thể Ban lãnh đạo của PV OIL Vũng Tàu đã
có mặt ngay tại hiện trường để chỉ đạo huy động toàn bộ lực lượng ca 3 và tăng cường
toàn bộ lực lượng của ca tiếp theo để khắc phục sự cố, triển khai các phương án bảo vệ
phòng chống cháy nổ, ngăn chặn không cho xăng tràn ra hệ thống thoát nước và hút
vé, thu hồi lượng xăng tràn bằng tất cả những phương tiện hiện có.
Kết quả kiểm tra xác minh số lượng xăng thất thoát:
+ Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bể số 19 sang bể 01 khi xảy ra sự cố
là 58.203 lít.
+ Số lượng xăng bị thất thoát: 58.203 lít -54.904 lít=3.299 lít. Lượng xăng bị
thất thoát này là do bay hơi trong quá trình tràn ra rãnh thoát nước.
5. Ông Trịnh Kim Nhạc - Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty chứng minh lỗi của
người lao động:
• Tất cả những người lao động vụ phạm kỷ luật trong vụ việc này đã có thời
gian làm việc lâu dài tại đơn vị (người nhiều nhất là 10 năm, ít nhất cũng 07 năm), đều
đã được tìm hiểu và nắm vững Nội quy lao động của Tổng công ty, có trình độ văn
hóa, có hiểu biết và đã được phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy trình, quy phạm
49
trong lĩnh vực làm việc của mình.
• Hành động của các ông Phạm Văn Kim, ông Phạm Xuân Phương rõ ràng là
vi phạm Nôi quy lao động cụ thể:
• Ông Phạm Văn Kim là đội phó đội giao nhận, trưởng ca 3 ngày 17/08/2013
phụ trách ca chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao đó là thường xuyên phải túc trực
đôn đốc nhân viên tại các vị trí công tác khi thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt động
dẫn đến việc không phát hiện kịp thời khi nhân viên rời bỏ vị trí làm việc, tràn xăng ra
rãnh thoát nước trong khoảng thời gian dài (trên 1 giờ)
Sau khi sự cố được phát hiện, ông Phạm Văn Kim đã rất tích cực trong công
tác khắc phục sự cố và đã nhận trách nhiệm về số lượng xăng bị hao hụt.
• Ông Phạm Xuân Phương là nhân viên giao nhận, người trực tiếp được giao
nhiệm vụ phải có mặt thường xuyên tại bể số 01 để theo dõi việc chuyển xăng từ bể số
19 sang bể này. Ông Phạm Xuân Phương đã vi phạm kỷ luật lao động, Nội quy lao
động đó là tự ý rời bỏ vị trí công tác để đi ngủ và ngủ quên tại trạm bơm FO trong khi
các thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt động nên đã không phát hiện kịp thời sự cố
xăng chảy ra khỏi van xả nước và tràn ra rãnh thoát nước trong khoảng thời gian trên 1
giờ.
Vi phạm của Ông Phạm Xuân Phương là lỗi cố ý (cố ý rời khỏi vị trí công tác
trong khi làm nhiệm vụ để ngủ). Vi phạm này dẫn đến hậu quả là đã tạo ra nguy cơ
mất an toàn rất nghiêm trọng cho toàn Tổng kho.
Sau khi sự cố được phát hiện, Ông Phạm Xuân Phương đã rất tích cực trong
công tác khắc phục sự cố và đã nhận trách nhiệm về số lượng xăng bị hao hụt.
Ông Nguyễn Quang Nhâm, Phó Giám đốc PV OIL Vũng Tàu, là người lãnh
đạo cao nhất của Tổng kho tại thời điểm xảy ra sự việc. Ông Nguyễn Quang Nhâm đã
chưa chỉ đạo, đôn đốc kịp thời cấp dưới trong toàn bộ ca trực.
Sau khi sự cố được phát hiện ông Nguyễn Quang Nhâm đã rất tích cực chỉ đạo
công tác khắc phục sự cố và đã nhận trách nhiệm về vụ việc.
- Ông Nguyễn Viết Huân, Phó phòng quản lý hàng hóa đã chưa sát sao trong
việc chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật bồn bể các van tại bồn số 01 trước khi đưa vào sử dụng.
Sau khi sự cố được phát hiện ông Nguyễn Viết Huân đã nhận trách nhiệm và
tích cực trong công tác khắc phục sự cố.
- Ông Đoàn Danh Thừa, Đội trưởng đội giao nhận, chưa đôn đốc, giáo dục
thường xuyên nhân viên cấp dưới khi làm nhiệm vụ.
Sau sự cố ông Đoàn Danh Thừa nhận trách nhiệm và tích cực trong công tác
khắc phục sự cố.
Các đương sự đều đồng ý với chứng minh lỗi của ông Trịnh Kim Nhạc.
6. Đại diện Ban chấp hành Công đoàn Tổng Công ty phát biểu:
Vụ việc và các đương sự đã rất rõ ràng, việc ông Trịnh Kim Nhạc đã chứng
minh lỗi của người lao động là hoàn toàn chính xác.
Tổng Công ty cần có hình thức xử lý kỷ luật nghiêm khắc để có tác dụng giáo
dục răn đe những hành vi tương tự có thể xảy ra trong tương lai, đảm bảo sự nghiêm
minh của nội quy lao động, kỷ luật lao động. Trong việc xét hình thức kỷ luật nên xem
xét các tình tiết như tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ như: Vi phạm lần đầu hay nhiều lần
có tính hệ thống, mức độ trung thực, thành khẩn sau khi vi phạm kỷ luật, tích cực khắc
phục hậu quả thiệt hại, hoàn cảnh gia đình.
7. Ý kiến của đại diện Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu:
- Ông Nguyễn Ngọc Liên: đơn vị PV OIL Vũng Tàu là một Tổng kho lớn của
PV OIL, áp lực công việc rất lớn, đơn vị cũng đã ban hành khá đầy đủ các quy trình,
50
quy phạm khi vận hành kho, tuy nhiên vẫn phải thường xuyên hoàn thiện, tôi xin chịu
trách nhiệm trước Tổng Công ty về công tác này.
+ Về anh Kim: là cán bộ năng nổ, khi xảy ra sự cố đã tích cực khắc phục hậu
quả.
+ Về anh Phương: trong quá trình công tác, từ năm 2003 đến nay đã có 3 lần vi
phạm kỷ luật. Anh Phương có hành vi vi phạm kỷ luật là tự ý rời khỏi vị trí công tác đi
ngủ mà không xin phép người quản lý.
- Ông Bùi Quốc Huy: công tác phong trào của ông Kim tham gia tích cực, cả
hai ông Kim và ông Phương có nhiều năm công tác đóng góp cho đơn vị.
- Ông Nguyễn Mạnh Kha: PV OIL VT là Tổng kho lớn, nhiều lao động, công
tác an toàn đòi hỏi rất cao do đó công tác bồi dưỡng kỹ thuật an toàn cần phải làm
thường xuyên hơn nữa. Đề nghị hai anh Phạm Văn Kim và Phạm Xuân Phương
nghiêm túc kiểm điểm nhận lỗi của mình (như mức độ vi phạm, hình thức xử lý), mặc
dù vi phạm nhưng hai anh đã tích cực khắc phục hậu quả. Đề nghị Hội đồng xem xét
các tình tiết giảm nhẹ, tính trung thực, mức độ đóng góp trong quá trình công tác khi
áp dụng hình thức xử lý.
Hội đồng hoàn toàn nhất trí các ý kiến của ông Trịnh Kim Nhạc về việc vi
phạm kỷ luật lao động của ông Phạm Văn Kim và ông Phạm Xuân Phương, những
người có liên quan và đề nghị xử lý nghiêm minh, đúng theo quy định của pháp luật và
các Nội quy quy định của Tổng Công ty Dầu Việt Nam.
8. Kết luận cuối cùng của Chủ tịch Hội đồng kỷ luật:
Sau khi nghe các Bản tường trình của các đương sự, ý kiến của ông Nguyễn
Ngọc Liên – Giám đốc PV OIL Vũng Tàu, ông Bùi Quốc Huy – Đại diện Ban chấp
hành công đoàn PV OIL Vũng Tàu, ông Nguyễn Mạnh Kha – chủ tịch Công đoàn
Tổng công ty và các ý kiến trình bày, trả lời chất vấn, ông Trịnh Kim Nhạc có ý kiến
kết luận như sau:
Đây là vụ việc vi phạm kỷ luật lao động, số lượng hàng hoá thất thoát tuy
không nhiều (3.299 lít xăng A92) nhưng lại đặc biệt nghiêm trọng vì nó gây ra nguy
cơ mất an toàn rất lớn trong Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu nói riêng và của Tổng công
ty nói chung.
Hành vi và mức độ vi phạm của các ông Phạm Xuân Phương và ông Phạm Văn
Kim là nghiêm trọng vì đã gây nguy cơ mất an toàn rất cao cho đơn vị. Do vậy, cần
phải có những hình thức xử lý kỷ luật thích đáng đối với từng cá nhân vi phạm. Việc
này thể hiện sự nghiêm minh của lãnh đạo Tổng công ty cũng như mong muốn của đa
số người lao động trong Tổng công ty.
Vi phạm kỷ luật lao động của ông Phạm Xuân Phương mang tính chất hệ thống
và đây là lần vi phạm thứ 3
Lần vi phạm thứ 1, khi làm bảo vệ tại Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu, ông Phương
đã có hành vi trộm cắp tài sản và bằng Quyết định số 81/QĐ/PDC – VT ngày
8/6/2008, Giám đốc Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu đã quyết định kỷ luật khiển trách
bằng văn bản lần thứ nhất đối với ông Phạm Xuân Phương.
Lần vi phạm thứ 2, ông Phạm Xuân Phương đã có hành vi bỏ vị trí trực trong ca
trực và bằng Quyết định số 419/QĐ – CBKDD ngày 21/5/2010, Tổng giám đốc Công
ty TNHH 1 thành viên chế biến và Kinh doanh sản phẩm Dầu mỏ (PDC) đã quyết định
kỷ luật với hình thức kéo dài thời hạn thi nâng bậc lương 6 tháng kể từ ngày 14/3/2010
đối với ông Phạm Xuân Phương.
51
Căn cứ quy định của Bộ luật Lao động, Thoả ước lao động tập thể và Nội quy
lao động của Tổng công ty, Hội đồng xử lý kỷ luật người lao động Tổng Công ty Dầu
Việt Nam quyết định kỷ luật đối với các cá nhân vi phạm như sau:
- Ông Phạm Xuân Phương, nhân viên giao nhận thuộc Phòng quản lý Hàng
hoá – PV OIL Vũng Tàu vi phạm kỷ luật lao động (tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết
bị bơm xăng dầu đang hoạt động) để xảy ra nguy cơ mất an toàn cao cho toàn Tổng
kho PV OIL Vũng Tàu. Vi phạm của ông Phạm Xuân Phương là tái vi phạm, mang
tính hệ thống. Căn cứ khoản 1 Điều 126 BLLĐ, điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động
Tổng Công ty Dầu Việt Nam, Hội đồng quyết định hình thức xử lý kỷ luật sa thải.
- Ông Phạm Văn Kim, Đội phó Đội giao nhận hàng hoá đã thiếu trách nhiệm
trong đôn đốc nhân viên tại các vị trí công tác khi thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt
động dẫn đến việc không phát hiện kịp thời khi nhân viên rời bỏ vị trí làm việc khi các
thiết bị bơm đang hoạt động dẫn đến tràn xăng ra ngoài bồn, sau khi sự cố xảy ra, ông
Phạm Văn Kim đã tích cực khắc phục thu hồi xăng dầu tràn và thành khẩn nhận trách
nhiệm. Căn cứ khoản 2 Điều 125 BLLĐ; điểm 8.2.8, Khoản 8.2 Điều 8 Nội quy lao
động Tổng Công ty Dầu VN quy định “vi phạm các quy chế, quy định quản lý của
Tổng công ty, đơn vị gây thiệt hại về uy tín và kinh tế cho Tổng công ty”. Hội đồng
quyết định hình thức xử lý kỷ luật: Cách chức Đội phó Đội giao nhận hàng hoá.
- Những người có liên quan là cán bộ quản lý của Tổng kho PV OIL Vũng Tàu đã
chưa làm tốt công tác chỉ đạo cán bộ nhân viên trong ca trực, chưa đôn đốc sát sao,
thường xuyên nhân viên trong khi thi hành nhiệm vụ, trong việc kiểm tra kỹ thuật bồn
bể trước khi đi vào sử dụng. Tuy nhiên, sau khi xảy ra sự cố, các ông Nguyễn Quang
Nhâm, Nguyễn Viết Huân, Đoàn Danh Thừa đã rất tích cực khắc phục hậu quả, xét vi
phạm ở mức độ nhẹ. Căn cứ: Nội quy lao động của Tổng Công ty Dầu VN, Hội đồng
quyết định kỷ luật như sau:
- Ông Nguyễn Quang Nhâm, Phó Giám đốc Tổng kho xăng dầu VT: khiển
trách bằng miệng
- Ông Nguyễn Viết Huân, phó phòng quản lý hàng hoá: khiển trách bằng miệng
- Ông Đoàn Danh Thừa, Đội trưởng Đội quản lý HH: khiển trách bằng miệng
9. Các ý kiến đề nghị:
- Ông Trịnh Kim Nhạc: đề nghị lãnh đạo đơn vị xây dựng quy trình quản lý rõ
ràng, chặt chẽ hơn, tránh sai sót khi công nhân thực hiện nhiệm vụ
- Ông Phạm Xuân Phương: tôi xin nhận lỗi vi phạm, đề nghị Hội đồng cho phép
tôi được viết Đơn xin nghỉ việc thay vì bị sa thải
- Ông Nguyễn Mạnh Kha: đề nghị Hội đồng cho người vi phạm nhận viết Đơn
xin nghỉ việc để người lao động tự nhận vi phạm và tự nguyện rời khỏi đơn vị, tạo
điều kiện cho người lao động có cơ hội tìm công việc mới. Hàng năm đơn vị cần
thường xuyên thực hiện công việc huấn luyện PCCC, an toàn vệ sinh lao động, phổ
biến nội quy, quy chế cho người lao động.
- Ông Trịnh Kim Nhạc: Về hình thức kỷ luật, khi chưa có đơn xin nghỉ việc, Hội
đồng vẫn giữ nguyên quyết định hình thức sa thải đối với ông Phạm Xuân Phương.
Sau khi ông Phạm Xuân Phương nộp đơn xin thôi việc, Hội đồng kỷ luật sẽ xem xét
- Ông Nguyễn Lê Minh: qua vi phạm này, đề nghị đơn vị hoàn thiện quy chế,
quy trình và trước khi giao ca lãnh đạo, trưởng ca cần phải có phổ biến quy trình, công
việc ngắn gọn với người lao động.
- Ông Nguyễn Quang Nhâm: xin nhận hình thức kỷ luật của Tổng Công ty, chúng
tôi xin rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, giáo dục, huấn luyện người lao động.
52
Kết thúc cuộc họp vào lúc 16 giờ 00 phút ngày 13 tháng 9 năm 2013 và Biên
bản họp này được lập thành 06 (sáu) bản. Biên bản đã đọc cho tất cả mọi người
cùng nghe và nhất trí ký tên dưới đây.
53
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------- ---------
Số: 1559/QĐ - DVN TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 09 năm 2013
QUYẾT ĐỊNH
Về việc thi hành kỷ luật lao động
- Căn cứ Bộ luật Lao động được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 18 tháng 6
năm 2012;
- Căn cứ Quyết định số 1250/QĐ- DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng Quản
trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty Dầu Việt
Nam;
- Căn cứ Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Dầu Việt Nam được ban
hành kèm theo Quyết định số 1251/QĐ- DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng Quản
trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các văn bản sửa đổi, bổ sung;
- Căn cứ biên bản họp số 134/BB- DVN ngày 13/09/2013 của Tổng công ty Dầu
Việt Nam về xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong vụ việc tràn xăng tại PV OIL Vũng
Tàu.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Thi hành kỷ luật lao động đối với ông Phạm Văn Kim – Sinh ngày
06/08/1981
Đơn vị làm việc: Chi nhánh Tổng công ty Dầu Việt Nam – Xí nghiệp Tổng kho
Xăng dầu Vũng Tàu.
Công việc đang làm: Đội phó Đội giao nhận thuộc phòng Quản lý Hàng hóa
Trình độ chuyên môn được đào tạo: Công nhân Kỹ thuật xăng dầu.
Mức độ phạm lỗi: Vi phạm các quy chế, quy định quản lý của Tổng công ty, đơn vị
gây thiệt hại về uy tín và kinh tế cho Tổng công ty, đơn vị.
Hình thức kỷ luật: Cách chức Đội phó đội giao nhận.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 15/09/2013.
Điều 3. Kế toán trưởng, Giám đốc ban Tổ chức Nhân sự, Giám đốc các ban Tổng công
ty liên quan, Giám đốc Xí Nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu, Hội đồng kỷ luật và
ông Phạm Văn Kim chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
54
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------- ---------
Số: 1571/ QĐ- DVN
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2013
QUYẾT ĐỊNH
Về việc chuyển lương CDCV đối với ông Phạm Văn Kim
- Căn cứ vào Quyết định số 1250/QĐ - DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng
Quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty
Dầu Việt Nam;
- Căn cứ Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty Dầu Việt Nam được ban hành
kèm theo Quyết định số 1251/ QĐ - DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng Quản trị
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các văn bản sửa đổi, bổ sung;
- Căn cứ Biên bản họp số 134/BB- DVN ngày 13/09/2013 của Tổng công ty Dầu
Việt Nam về việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong vụ việc tràn xăng tại PV OIL
Vũng Tàu;
- Căn cứ Quyết định số 1559/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 của Tổng giám đốc Tổng
công ty Dầu Việt Nam về việc thi hành kỷ luật lao động đối với ông Phạm Văn Kim;
- Xét đề nghị của Giám đốc Tổ chức Nhân sự Tổng công ty.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Chuyển hệ số lương chức danh công việc của ông Phạm Văn Kim phù
hợp với vị trí công tác như sau:
- Lương CDCV cũ: Bảng lương : Đội phó
Bậc : 1/3 Hệ số: 5.80
- Lương CDCV mới: Bảng lương: Công nhân Vận hành kho
Bậc : 2/7 Hệ số: 2.50
Điều 2. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 09 năm 2013.
Điều 3. Kế toán trưởng, Giám đốc ban Tổ chức Nhân sự, Giám đốc các ban Tổng
công ty liên quan, Giám đốc Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu và ông Phạm
Văn Kim chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
55
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Kính gửi: Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu Việt Nam
Đồng kính gửi: Ban lãnh đạo Tổng công ty Dầu Việt Nam
Tên tôi là: Phạm Xuân Phương – Công nhân giao nhận Xí nghiệp Tổng kho Xăng
dầu Vũng Tàu.
Ngày 8 tháng 9 năm 2013, Tôi có nhận được Thông báo số 2108/TB- DVN của
Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu Việt Nam triệu tập họp lúc 14h ngày 13/09/2013 để
xem xét xử lý kỷ luật lao động về việc tràn xăng tại PV OIL Vũng Tàu ngày
17/08/2013.
Qua quá trình sự việc xảy ra trong ca trực. bản thân đang bị bệnh nên sức khỏe
không được tốt đã để xảy ra sai phạm là không khóa kín hết van xả nước của bể trước
khi bơm xăng để chảy một lượng xăng theo đường ống xả nước ra ngoài khu vực hệ
thống thoát nước ở khu vực kho. Sau khi phát hiện sự cố xảy ra chúng tôi đã báo cáo
cho lãnh đạo xí nghiệp đồng thời đã khắc phục bơm, hút hết số xăng chảy ra vào bể số
19.
Nay bản thân đã nhận ra sai phạm của mình vì vậy tôi làm đơn này. Kính mong
Tổng Giám đốc và Ban lãnh đạo Tổng công ty. Xin được giảm nhẹ mức kỷ luật và
giúp đỡ đến hoàn cảnh gia đình, khi bản thân đang phải nuôi mẹ già, con nhỏ, vợ phải
đi làm xa. Đồng thời cho tôi được nhận những sai lầm mà bản thân đã vi phạm ở mức
kỷ luật, cảnh cáo trước toàn thể Tổng công ty và cắt thưởng trong vòng một năm.
Rất mong được Tổng Giám đốc và Ban lãnh đạo Tổng công ty Dầu Việt Nam
xem xét và tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho bản thân được sửa chữa và được làm việc tại
công ty, để có thu nhập giúp gia đình khỏi những khó khăn trong cuộc sống. Tôi xin
hứa làm tốt những công việc được giao, không vi phạm nữa.
Xin trân trọng cảm ơn Tổng Giám đốc và Ban lãnh đạo công ty.!!!.
56
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
Họ tên người khiếu nại: Phạm Xuân Phương - sinh ngày 28/09/1979.
Địa chỉ: Số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng Nhất, TP
Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
* Đơn vị bị khiếu nại: Tổng Công Ty Dầu Việt Nam
* Đối tượng khiếu nại: Quyết định số 1560/QĐ-DVN ngày 27/09/2013 của Tổng
Công Ty Dầu Việt Nam về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông Phạm Xuân
Dương
* Quá trình sự việc xảy ra:
Ngày 17/08/2013 vào lúc 22h00’ tôi nhận ca trực của mình và được phân công
chuyển xăng từ bể số 19 sang bể số 1. Sau đó tôi đã đi kiểm tra hệ thống đường ống
công nghệ xem đã được thông tuyến chưa và đóng, mở các van trên đường ống trước
khi bơm chuyển xăng. Công việc chuyển xăng được tiến hành vào lúc 23h. Khi bơm
xăng tôi đã đi kiểm tra lại toàn bộ hệ thống thì thấy đều an toàn, không có gì xảy ra.
Khoảng 1h sáng ngày 18/08/2013 tôi có xin phép đồng chí Phạm Văn Kim nghỉ
để ăn cơm, lúc này đồng chí Phạm Văn Kim cử hai đồng chí Nguyễn Hữu Hoàn và
Nguyễn Đức Thắng trực thay vị trí của tôi đến khoảng 2h. Hai đồng chí trực thay (đều
là nhân viên của giao nhận) đã nhiều lần đi kiểm tra cũng không phát hiện ra van xả
nước chưa khóa. Trong thời gian trực bơm bản thân tôi đang bị bệnh nên sức khỏe
không được tốt (có báo cáo cho đồng chí Phạm Văn Kim, trưởng ca trực là tôi đang bị
bệnh).
Đến 3h ngày 18/08/2013 xảy ra sự cố do sơ xuất, ngoài ý muốn là van xả nước
của bể số 1 không khóa (do van ty chìm ở đáy bể và do thợ thuê ngoài vào vệ sinh bể
mở ra chưa khóa) làm chảy một lượng xăng theo đường ống xả nước ra ngoài khu vực
bể lọc nước trong kho. Sau khi phát hiện sự cố xảy ra chúng tôi đã báo cáo cho lãnh
đạo xí nghiệp đồng thời đã khắc phục bơm, hút hết số xăng chảy ra vào bể số 19 an
toàn.
LÝ DO KHIẾU NẠI
Ngày 08/09/2013 tôi có nhận được Thông báo số 2108/TB-DVN của Tổng
Giám đốc Công Ty Dầu Việt Nam triệu tập họp lúc 14h ngày 13/09/2013 để xem xét
xử lý kỷ luật lao động về việc làm tràn xăng tại PV OIL Vũng Tàu vào ngày
17/08/2013. Tại cuộc họp ngày 13/09/2013 Hội đồng kỷ luật căn cứ khoản 1 Điều 126
Bộ luật lao động để quyết định sa thải tôi (Phạm Xuân Phương)
Ngày 16/09/2013 gia đình tôi có đơn yêu cầu Tổng Công Ty Dầu Việt Nam
xem xét lại việc xử lý kỷ luật sa thải.
Ngày 23/09/2013 Hội đồng kỷ luật Tổng Công Ty Dầu Việt Nam họp lần 2 để
xem xét đơn yêu cầu của gia đình tôi (nhưng không cho người bào chữa tham dự). Nội
dung phần kết luận vẫn bảo lưu áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải.
Ngày 27/09/2013 Tổng Giám đốc Tổng Công Ty Dầu Việt Nam ban hành
Quyết định số 1560/QĐ-DVN về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông Phạm
57
Xuân Phương các lý do sau: tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị bơm xăng đang hoạt
động để xảy ra nguy cơ mất an toàn cho toàn Tổng kho, vi phạm khoản 1 Điều 126 Bộ
luật Lao động và điểm 8.3, điều 8 Nội quy lao động của Tổng Công Ty Dầu Việt Nam.
NỘI DUNG KHIẾU NẠI
I/ Nội dung Quyết định số 1560/QQĐ-DVN không đúng thực tế sự việc:
Các lý do chấm dứt hợp đồng:
- Tự ý bỏ vị trí làm việc khi thiết bị bơm xăng đang hoạt động là không đúng.
Vì tôi đang trực ở trong khu vực bể số 1 (tại cuộc họp ngày 23/09/2013 tôi đã giải
thích cho Hội đồng kỷ luật và Hội đồng kỷ luật đồng ý cho bảo lưu ý kiến này).
- Xảy ra nguy cơ mất an toàn cho Tổng kho là không chính xác. Vì khu vực này
rất an toàn. Nếu mất an toàn thì mỗi lần xí nghiệp cho xả nước trong bể ra khi đó xăng,
dầu cũng chảy theo ra ngoài thì cũng có nguy cơ mất an toàn, vậy Xí nghiệp cũng như
Công ty có cho xả nước hay không? Do khu vực này có độ an toàn cao nên tháng
05/2013 tại Xí nghiệp có đồng chí trực ca xả nước ở bể ra mà không trực đã làm cho
dầu D.O chảy ra số lượng lớn mà không bị kỷ luật, chỉ hạ mức thưởng tháng 8
xuống loại C.
-Vi phạm khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động là không căn cứ, không thuyết
phục:
Khoản 1- Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
“Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích,
sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công
nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt
hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích
của người sử dụng lao động”;
Căn cứ vào sự việc xảy ra ngày 17/08/2013 thì việc áp dụng khoản 1 Điều 126
Bộ luật Lao động để xử lý kỷ luật sa thải tôi là không có cơ sở pháp lý vì theo quy
định của Công ty, khi thuê một đơn vị nào khác vào vệ sinh bể chứa xong thì bên vệ
sinh phải có biên bản bàn giao bể cho Xí nghiệp (bên thuê). Đồng thời phải kiểm tra
độ an toàn của bể và các van có bị hư hỏng không. Trước khi đưa vào xử dụng bể phải
an toàn. Nhưng Xí nghiệp chưa nhận bàn giao, chưa kiểm tra độ an toàn mà trưởng
phòng Quản lý hàng hóa đã ra lệnh cho bơm xăng vào bể để sử dụng khi chưa an toàn
là sai nguyên tắc và quy trình, dẫn đến việc xăng chảy theo đường xả nước ra ngoài
khu vực bể lọc nước trong kho. Trong trường hợp này cần xem xét mức vi phạm và xử
lý kỷ luật nghiêm với người làm sai nguyên tắc và quy trình khi chưa nhận bàn giao,
chưa kiểm tra độ an toàn của bể đã đưa vào sử dụng. Nhưng Hội đồng kỷ luật chỉ xét
vi phạm ở mức độ nhẹ và khiển trách bằng miệng. Còn các vi phạm người trực ca (tôi)
phải chịu hoàn toàn.
Đối với bản thân tôi là người nhận lệnh bơm chuyển xăng, dẫn đến sự việc xảy
ra do sơ xuất ngoài ý muốn đó là theo quy trình thao tác bơm chuyển xăng thì người
trực ca có nhiệm vụ đóng mở các van trên đường ống dẫn và kiểm tra thông tuyến
trước khi bơm (tôi làm đúng quy trình). Còn van xả nước không nằm trong quy trình
thao tác bơm chuyển xăng và chỉ được đóng mở khi xả nước ở bể ra ngoài. Trong quá
trình trực bơm tôi có đi kiểm tra không có sự có xảy ra, thời gian tôi nghỉ để ăn cơm
đồng chí Phạm Văn Kim (trưởng ca) đã cử các đồng chí Nguyễn Hải Hoàn và
Nguyễn Đức Thắng trực thay vị trí của tôi. Các đồng chí trực thay (đều là nhân
viên của giao nhận) đã nhiều lần đi kiểm tra cũng không phát hiện ra van xả
nước chưa khóa. Vì vậy việc van xả nước không được khóa không phải là hành vi mà
58
chỉ do sơ xuất, ngoài ý muốn. Do đó không thể cho sự việc xảy ra là có hành vi khác
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp.
Từ các căn cứ phân tích nêu trên thì việc Tổng Giám đốc áp dụng hình thức kỷ
luật sa thải và ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với bản thân tôi là
mức độ quá nặng và không công bằng, không đủ cơ sở pháp lý, ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của bản thân tôi.
II/ Sau đây tôi xin đưa ra các trường hợp vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp có
tính chất cố tình, nghiêm trọng và trộm cắp nhưng không bị xử lý kỷ luật sa thải,
để làm cơ sở chứng minh mức xử lý kỷ luật sa thải là quá nặng đối với tôi.
1. Năm 2012 tại Xí nghiệp Tổng kho xăng Dầu Vũng Tàu có trường hợp ăn cắp
mấy phi dầu ngoài cảng thượng lưu để bán. Khi xử lý kỷ luật chỉ bồi thường, đi làm
vệ sinh công nghiệp 6 tháng và cắt thưởng (có hành vi trộm cắp nhưng Tổng Công
ty xét kỷ luật mà không bị sa thải)
2. Tháng 05 năm 2013 xảy ra trường hợp là hôm đó đồng chí bên giao nhận xả
nước bể số 20 mà không trực để chảy một lượng lớn dầu D.O ra ngoài mà các ca trực
không biết. Về sau các đồng chí trưởng phòng, tổ trưởng phòng Quản lý hàng hóa điều
tra ra và biết rõ người trực ca đó để chảy khối lượng lớn dầu D.O ra ngoài. Sau đó huy
động toàn bộ anh em trong ca trực, đồng thời các ca tiếp theo vẫn phải hút và thu hồi
mới hết số lượng dầu chảy ra ngoài. Công việc này là công việc chủ động của người
trực ca mà còn bỏ bê như vậy. Nhưng khi xét kỷ luật đồng chí đó không bị kỷ luật
mà chỉ bị hạ mức thưởng tháng 8 xuống loại C. Trong sự việc này có tính chất
nghiêm trọng hơn so với sự việc của tôi mà không phải bị kỷ luật, còn tôi bị kỷ luật sa
thải.
3. Tháng 07 năm 2013 khi Xí nghiệp thuê xe bồn của Công ty Hà Lộc vào xúc
rửa bồn. Theo quy định của Xí nghiệp khi xe bồn vào xúc rửa, ra ngoài phải có giấy
thông báo của Xí nghiệp. “Khi đi vào bằng cổng chính. Đi ra thì phải đi qua trạm
kiểm định và báo cáo cho đội phó đội giao nhận ra kiểm tra xe có sạch không rồi báo
cáo cho Giám đốc ký vào biên bản thì khi đó mới tiến hành cho xe ra ngoài”. Trường
hợp này đã không làm đúng thủ tục mà vẫn cho xe đi thẳng ra ngoài bằng cổng chính.
Trong bồn xe có chứa đầy nhiên liệu F.O sạch của Xí nghiệp, không phải F.O bẩn theo
kế hoạch xúc rửa là vi phạm nội quy, quy định của Tổng Công ty và có hành vi trộm
cắp. Nhưng xử lý kỷ luật các đối tượng này, Tổng Công ty chỉ cắt thưởng và kỷ luật
thời gian 3 tháng.
Qua các sự việc vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp nêu trên có tính chất cố tình,
nghiêm trọng và trộm cắp. Mà Ban Giám đốc và Hội đồng kỷ luật của Tổng Công ty
chỉ kỷ luật bằng hình thức cắt thưởng và hạ bậc lương hoặc làm việc khác với mức
lương thấp hơn có thời hạn. Còn công việc của tôi xảy ra do sơ xuất, ngoài ý muốn thì
bị kỷ luật sa thải là không công bằng với người lao động.
III/ Yêu cầu Tổng Giám đốc Công ty Dầu Việt Nam xem xét, giải quyết các
việc sau:
Từ cơ sở nhận định phân tích nêu trên, đối chiếu với Bộ luật Lao động, các quy
định của pháp luật và thực tế sự việc của mình. Nhận thấy việc xử lý kỷ luật sa thải
để chấm dứt hợp đồng lao động đối với bản thân tôi ở mức độ quá nặng. Vì vậy
gia đình tôi không đồng ý với quyết định của Tổng Công ty Dầu Việt Nam, đồng thời
đề nghị Tổng Giám đốc phải xem xét lại vụ việc để xác định đúng người, đúng tội,
không làm mất quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Nay gia đình tôi kính đề
nghị Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam một số việc sau:
59
1. Thu hồi, hủy bỏ Quyết định 1560/QĐ-DVN ngày 27/09/2013 của Tổng
Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam đã ban hành.
2. Xem xét toàn bộ sự việc đã xảy ra để có mức kỷ luật nhẹ hơn. Không áp
dụng mức kỷ luật sa thải để chấm dứt hợp đồng lao động đối với bản thân
tôi.
Kính mong được Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam xem xét, giải quyết và
bảo vệ lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Xin trân trọng cảm ơn Tổng Giám đốc và Quý Công ty.
Nơi nhận:
- Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam
- Ban Thanh tra Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia
Việt Nam
- BCH Công đoàn Tập đoàn Dầu khí Quốc
Gia Việt Nam
- Tòa soạn Báo Pháp Luật, Báo Lao động,
Báo Thanh niên
60
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: Ban Lãnh đạo Thanh tra tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
61
I/ Nội dung cuộc họp xem xét xử lý kỷ luật, áp dụng Bộ luật Lao động không
chính xác:
Căn cứ vào sự việc xảy ra ngày 17/08/2013 thì việc áp dụng khoản 1 Điều 126
Bộ luật Lao động để xử lý kỷ luật sa thải tôi là không có cơ sở pháp lý vì theo quy
định của Công ty, khi thuê một đơn vị nào khác vào vệ sinh bể chứa xong thì bên vệ
sinh phải có biên bản bàn giao bể cho Xí nghiệp (bên thuê). Đồng thời phải kiểm tra
độ an toàn của bể và các van có bị hư hỏng không. Trước khi đưa vào sử dụng bể phải
an toàn. Nhưng Xí nghiệp chưa nhận bàn giao, chưa kiểm tra độ an toàn mà trưởng
phòng Quản lý hàng hóa đã ra lệnh cho bơm xăng vào bể để sử dụng khi chưa an toàn
là sai nguyên tắc và quy trình, dẫn đến việc xăng chảy theo đường xả nước ra ngoài
khu vực bể lọc nước trong kho. Trong trường hợp này cần xem xét mức vi phạm và xử
lý kỷ luật nghiêm với người làm sai nguyên tắc và quy trình khi chưa nhận bàn giao,
chưa kiểm tra độ an toàn của bể đã đưa vào sử dụng. Nhưng Hội đồng kỷ luật chỉ xét
vi phạm ở mức độ nhẹ và khiển trách bằng miệng. Còn các vi phạm người trực ca (tôi)
phải chịu hoàn toàn.
Đối với bản thân tôi là người nhận lệnh bơm chuyển xăng, dẫn đến sự việc xảy
ra do sơ xuất ngoài ý muốn đó là theo quy trình thao tác bơm chuyển xăng thì người
trực ca có nhiệm vụ đóng mở các van trên đường ống dẫn và kiểm tra thông tuyến
trước khi bơm (tôi làm đúng quy trình). Còn van xả nước không nằm trong quy trình
thao tác bơm chuyển xăng và chỉ được đóng mở khi xả nước ở bể ra ngoài. Trong quá
trình trực bơm tôi có đi kiểm tra không có sự cố xảy ra, thời gian tôi nghỉ để ăn cơm
đồng chí Phạm Văn Kim (trưởng ca) đã cử các đồng chí Nguyễn Hải Hoàn và
Nguyễn Đức Thắng trực thay vị trí của tôi. Các đồng chí trực thay (đều là nhân
viên của giao nhận) đã nhiều lần đi kiểm tra cũng không phát hiện ra van xả
nước chưa khóa. Vì vậy việc van xả nước không được khóa không phải là hành vi mà
chỉ do sơ xuất, ngoài ý muốn. Do đó không thể cho sự việc xảy ra là có hành vi khác
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp, để áp dụng hình thức
kỷ luật sa thải đối với tôi.
Nếu căn cứ vào sự việc xảy ra trước năm 2010 để làm căn cứ tăng mức kỷ luật
và quyết định xử lý kỷ luật sa thải là trái với Bộ luật Lao động. Vì tại khoản 2 Điều
123 Bộ luật Lao động có quy định “Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật
đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động” và tại khoản 1 Điều 127 cũng nêu rõ
“Người lao động bị khiển trách sau 03 tháng, hoặc bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn
nâng lương sau 06 tháng, kể từ ngày bị xử lý, nếu không tái phạm thì đương nhiên
được xoá kỷ luật”
Căn cứ vào Điều 123, 127 của Bộ luật Lao động 2012 thì cuộc họp xem xét kỷ
luật ngày 13/09/2013 của Hội đồng kỷ luật Tổng Công ty vẫn cố tình đưa sự việc trước
ra (trong khi kỷ luật trước đã được xóa). Đồng thời áp dụng sự việc trước vào để làm
căn cứ tăng mức kỷ luật đối với tôi (trong khi hai vụ việc khác nhau)
II/ Sau đây tôi xin đưa ra các trường hợp vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp có
tính chất cố tình, nghiêm trọng và trộm cắp nhưng không bị xử lý kỷ luật sa thải,
để làm cơ sở chứng minh mức xử lý kỷ luật sa thải là quá nặng đối với tôi.
1. Năm 2012 tại Xí nghiệp Tổng kho xăng Dầu Vũng Tàu có trường hợp ăn cắp
mấy phi dầu ngoài cảng thượng lưu để bán. Khi xử lý kỷ luật chỉ bồi thường, đi làm
vệ sinh công nghiệp 6 tháng và cắt thưởng (có hành vi trộm cắp nhưng Tổng Công
ty xét kỷ luật mà không bị sa thải)
2. Tháng 05 năm 2013 xảy ra trường hợp là hôm đó đồng chí bên giao nhận xả
nước bể số 20 mà không trực để chảy một lượng lớn dầu D.O ra ngoài mà các ca trực
62
không biết. Về sau các đồng chí trưởng phòng, tổ trưởng phòng Quản lý hàng hóa điều
tra ra và biết rõ người trực ca đó để chảy khối lượng lớn dầu D.O ra ngoài. Sau đó huy
động toàn bộ anh em trong ca trực, đồng thời các ca tiếp theo vẫn phải hút và thu hồi
mới hết số lượng dầu chảy ra ngoài. Công việc này là công việc chủ động của người
trực ca mà còn bỏ bê như vậy. Nhưng khi xét kỷ luật đồng chí đó không bị kỷ luật
mà chỉ bị hạ mức thưởng tháng 8 xuống loại C. Trong sự việc này có tính chất
nghiêm trọng hơn so với sự việc của tôi mà không phải bị kỷ luật, còn tôi bị kỷ luật sa
thải.
3. Tháng 07 năm 2013 khi Xí nghiệp thuê xe bồn của Công ty Hà Lộc vào xúc
rửa bồn. Theo quy định của Xí nghiệp khi xe bồn vào xúc rửa, ra ngoài phải có giấy
thông báo của Xí nghiệp. “Khi đi vào bằng cổng chính. Đi ra thì phải đi qua trạm
kiểm định và báo cáo cho đội phó đội giao nhận ra kiểm tra xe có sạch không rồi báo
cáo cho Giám đốc ký vào biên bản thì khi đó mới tiến hành cho xe ra ngoài”. Trường
hợp này đã không làm đúng thủ tục mà vẫn cho xe đi thẳng ra ngoài bằng cổng chính.
Trong bồn xe có chứa đầy nhiên liệu F.O sạch của Xí nghiệp, không phải F.O bẩn theo
kế hoạch xúc rửa là vi phạm nội quy, quy định của Tổng Công ty và có hành vi trộm
cắp. Nhưng xử lý kỷ luật các đối tượng này, Tổng Công ty chỉ cắt thưởng và kỷ luật
thời gian 3 tháng.
Qua các sự việc vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp nêu trên có tính chất cố tình,
nghiêm trọng và trộm cắp. Mà Ban Giám đốc và Hội đồng kỷ luật của Tổng Công ty
chỉ kỷ luật bằng hình thức cắt thưởng và hạ bậc lương hoặc làm việc khác với mức
lương thấp hơn có thời hạn. Còn công việc của tôi xảy ra do sơ xuất, ngoài ý muốn thì
bị kỷ luật sa thải là không công bằng với người lao động.
III/ Xin Ban lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam xem xét và
giúp đỡ gia đình tôi:
Từ cơ sở nhận định phân tích nêu trên, đối chiếu với Bộ luật Lao động, các quy
định của pháp luật và thực tế sự việc của mình. Nhận thấy việc xử lý kỷ luật sa thải
đối với bản thân tôi ở mức độ quá nặng. Vì vậy gia đình tôi không đồng ý với quyết
định của Tổng Công ty Dầu Việt Nam, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bản thân tôi. Nay gia đình tôi kính mong Ban Thanh tra Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam cứu xét, tạo điều kiện giúp đỡ một số việc sau:
1- Yêu cầu Tổng Công ty Dầu Việt Nam không áp dụng mức kỷ luật sa
thải khi sự việc xảy ra do sơ xuất, không nghiêm trọng như các hành vi
đã xảy ra tại Xí nghiệp. (Các sự việc đã nêu trên)
2- Xem xét toàn bộ sự việc đã xảy ra để có mức kỷ luật nhẹ hơn đối với
bản thân tôi.
Rất mong được Ban Thanh tra Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam xem xét để
bảo vệ lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Thanh tra Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
63
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: Tổng Giám đốc và Ban Lãnh đạo Tổng Công ty Dầu Việt Nam
Người yêu cầu: Phạm Xuân Phương - Công nhân giao nhận Xí nghiệp
Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
Sinh ngày 28/09/1979.
Địa chỉ: Số nhà X, Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng Nhất, TP
Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
* Đối tượng yêu cầu: Nội dung cuộc họp lúc 14h ngày 13/09/2013. Về việc: Xét
kỷ luật lao động về việc tràn xăng ngày 17/09/2013 tại PV OIL Vũng Tàu ngày
17/08/2013 của Tổng Giám đốc Công Ty Dầu Việt Nam.
* Quá trình sự việc xảy ra:
Ngày 17/08/2013 vào lúc 22h00’ tôi nhận ca trực của mình và được phân công
chuyển xăng từ bể số 19 sang bể số 1. Sau đó tôi đã đi kiểm tra hệ thống đường ống
công nghệ xem đã được thông tuyến chưa và đóng, mở các van trên đường ống trước
khi bơm chuyển xăng. Công việc chuyển xăng được tiến hành vào lúc 23h. Khi bơm
xăng tôi đã đi kiểm tra lại toàn bộ hệ thống thì thấy đều an toàn, không có gì xảy ra.
Trong thời gian trực bơm bản thân tôi đang bị bệnh nên sức khỏe không được tốt (có
báo cáo cho đồng chí Phạm Văn Kim, trưởng ca trực là tôi đang bị bệnh). Để xảy ra
sự cố do sơ xuất, ngoài ý muốn là van xả nước của bể số 1 không khóa (do van ty chìm
ở đáy bể và do thợ thuê ngoài vào vệ sinh bể mở ra chưa khóa) làm chảy một lượng
xăng theo đường ống xả nước ra ngoài khu vực bể lọc nước trong kho. Sau khi phát
hiện sự cố xảy ra chúng tôi đã báo cáo cho lãnh đạo xí nghiệp đồng thời đã khắc phục
bơm, hút hết số xăng chảy ra vào bể số 19 an toàn.
LÝ DO YÊU CẦU
Ngày 08/09/2013 tôi có nhận được Thông báo số 2108/TB-DVN của Tổng
Giám đốc Công Ty Dầu Việt Nam triệu tập họp lúc 14h ngày 13/09/2013 để xem xét
xử lý kỷ luật lao động về việc làm tràn xăng tại PV OIL Vũng Tàu vào ngày
17/08/2013.
Tại cuộc họp ngày 13/09/2013 Hội đồng kỷ luật căn cứ khoản 1 điều 126 Bộ
luật lao động để quyết định sa thải tôi (Phạm Xuân Phương) là không đủ cơ sở pháp
lý, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân tôi, đó là:
Điều 126: Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
Khoản 1:
“Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng
ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại
nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của
người sử dụng lao động”
NỘI DUNG YÊU CẦU
I/ Nội dung cuộc họp xem xét xử lý kỷ luật, áp dụng Bộ luật Lao động không
chính xác:
64
Căn cứ vào sự việc xảy ra ngày 17/08/2013 thì việc áp dụng khoản 1 Điều 126
Bộ luật Lao động để xử lý kỷ luật sa thải tôi là không có cơ sở pháp lý. Vì theo quy
định của Công ty, khi thuê một đơn vị nào khác vào vệ sinh bể chứa xong thì bên vệ
sinh phải có biên bản bàn giao bể cho Xí nghiệp (bên thuê). Đồng thời phải kiểm tra
độ an toàn của bể và các van có bị hư hỏng không. Trước khi đưa vào sử dụng bể phải
an toàn. Nhưng Xí nghiệp chưa nhận bàn giao, chưa kiểm tra độ an toàn mà trưởng
phòng Quản lý hàng hóa đã ra lệnh cho bơm xăng vào bể để sử dụng khi chưa an toàn
là sai nguyên tắc và quy trình, dẫn đến việc xăng chảy theo đường xả nước ra ngoài
khu vực bể lọc nước trong kho. Trong trường hợp này cần xem xét mức vi phạm và xử
lý kỷ luật nghiêm với người làm sai nguyên tắc và quy trình khi chưa nhận bàn giao,
chưa kiểm tra độ an toàn của bể đã đưa vào sử dụng. Nhưng Hội đồng kỷ luật chỉ xét
vi phạm ở mức độ nhẹ và khiển trách bằng miệng. Còn các vi phạm người trực ca (tôi)
phải chịu hoàn toàn.
Đối với bản thân tôi là người nhận lệnh bơm chuyển xăng, dẫn đến sự việc xảy
ra do sơ xuất ngoài ý muốn đó là theo quy trình thao tác bơm chuyển xăng thì người
trực ca có nhiệm vụ đóng mở các van trên đường ống dẫn và kiểm tra thông tuyến
trước khi bơm (tôi làm đúng quy trình). Còn van xả nước không nằm trong quy trình
thao tác bơm chuyển xăng và chỉ được đóng mở khi xả nước ở bể ra ngoài. Trong quá
trình trực bơm tôi có đi kiểm tra không có sự cố xảy ra, thời gian tôi nghỉ để ăn cơm
đồng chí Phạm Văn Kim (trưởng ca) đã cử các đồng chí Nguyễn Hải Hoàn và
Nguyễn Đức Thắng trực thay vị trí của tôi. Các đồng chí trực thay (đều là nhân
viên của giao nhận) đã nhiều lần đi kiểm tra cũng không phát hiện ra van xả
nước chưa khóa. Vì vậy việc van xả nước không được khóa không phải là hành vi mà
chỉ do sơ xuất, ngoài ý muốn. Do đó không thể cho sự việc xảy ra là có hành vi khác
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp, để áp dụng hình thức
kỷ luật sa thải đối với tôi.
Nếu căn cứ vào sự việc xảy ra trước năm 2010 để làm căn cứ tăng mức kỷ luật
và quyết định xử lý kỷ luật sa thải là trái với Bộ luật Lao động. Vì tại khoản 2 điều 123
Bộ luật Lao động có quy định “Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật đối
với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động” và tại khoản 1 Điều 127 cũng nêu rõ:
“Người lao động bị khiển trách sau 03 tháng, hoặc bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn
nâng lương sau 06 tháng, kể từ ngày bị xử lý, nếu không tái phạm thì đương nhiên
được xoá kỷ luật”
Căn cứ vào Điều 123, 127 của Bộ luật Lao động 2012 thì cuộc họp xem xét kỷ
luật ngày 13/09/2013 của Hội đồng kỷ luật Tổng Công ty vẫn cố tình đưa sự việc trước
ra (trong khi kỷ luật trước đã được xóa). Đồng thời áp dụng sự việc trước vào để làm
căn cứ tăng mức kỷ luật đối với tôi (trong khi hai vụ việc khác nhau)
II/ Sau đây tôi xin đưa ra các trường hợp vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp có
tính chất cố tình, nghiêm trọng và trộm cắp nhưng không bị xử lý kỷ luật sa thải,
để làm cơ sở chứng minh mức xử lý kỷ luật sa thải là quá nặng đối với tôi.
1. Năm 2012 tại Xí nghiệp Tổng kho xăng Dầu Vũng Tàu có trường hợp ăn cắp
mấy phi dầu ngoài cảng thượng lưu để bán. Khi xử lý kỷ luật chỉ bồi thường, đi làm
vệ sinh công nghiệp 6 tháng và cắt thưởng (có hành vi trộm cắp nhưng Tổng Công
ty xét kỷ luật mà không bị sa thải)
2. Tháng 05 năm 2013 xảy ra trường hợp là hôm đó đồng chí bên giao nhận xả
nước bể số 20 mà không trực để chảy một lượng lớn dầu D.O ra ngoài mà các ca trực
không biết. Về sau các đồng chí trưởng phòng, tổ trưởng phòng Quản lý hàng hóa điều
tra ra và biết rõ người trực ca đó để chảy khối lượng lớn dầu D.O ra ngoài. Sau đó huy
65
động toàn bộ anh em trong ca trực, đồng thời các ca tiếp theo vẫn phải hút và thu hồi
mới hết số lượng dầu chảy ra ngoài. Công việc này là công việc chủ động của người
trực ca mà còn bỏ bê như vậy. Nhưng khi xét kỷ luật đồng chí đó không bị kỷ luật
mà chỉ bị hạ mức thưởng tháng 8 xuống loại C. Trong sự việc này có tính chất
nghiêm trọng hơn so với sự việc của tôi mà không phải bị kỷ luật, còn tôi bị kỷ luật sa
thải.
3. Tháng 07 năm 2013 khi Xí nghiệp thuê xe bồn của Công ty Hà Lộc vào xúc
rửa bồn. Theo quy định của Xí nghiệp khi xe bồn vào xúc rửa, ra ngoài phải có giấy
thông báo của Xí nghiệp. “Khi đi vào bằng cổng chính. Đi ra thì phai đi qua trạm
kiểm định và báo cáo cho đội phó đội giao nhận ra kiểm tra xe có sạch không rồi báo
cáo cho Giám đốc ký vào biên bản thì khi đó mới tiến hành cho xe ra ngoài”. Trường
hợp này đã không làm đúng thủ tục mà vẫn cho xe đi thẳng ra ngoài bằng cổng chính.
Trong bồn xe có chứa đầy nhiên liệu F.O sạch của Xí nghiệp, không phải F.O bẩn theo
kế hoạch xúc rửa là vi phạm nội quy, quy định của Tổng Công ty và có hành vi trộm
cắp. Nhưng xử lý kỷ luật các đối tượng này, Tổng Công ty chỉ cắt thưởng và kỷ luật
thời gian 3 tháng.
Qua các sự việc vi phạm xảy ra tại Xí nghiệp nêu trên có tính chất cố tình,
nghiêm trọng và trộm cắp. Mà Ban Giám đốc và Hội đồng kỷ luật của Tổng Công ty
chỉ kỷ luật bằng hình thức cắt thưởng và hạ bậc lương hoặc làm việc khác với mức
lương thấp hơn có thời hạn. Còn công việc của tôi xảy ra do sơ xuất, ngoài ý muốn thì
bị kỷ luật sa thải là không công bằng với người lao động.
III/ Yêu cầu Ban Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt nam giải quyết các việc sau:
Từ cơ sở nhận định phân tích nêu trên, đối chiếu với Bộ luật Lao động, các quy
định của pháp luật và thực tế sự việc của mình. Nhận thấy việc xử lý kỷ luật sa thải
đối với bản thân tôi ở mức độ quá nặng. Vì vậy gia đình tôi không đồng ý với quyết
định của Tổng Công ty Dầu Việt Nam, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bản thân tôi. Nay gia đình tôi kính mong Ban Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt
Nam xem xét, tạo điều kiện giúp đỡ một số việc sau:
- Yêu cầu Tổng Công ty Dầu Việt Nam không áp dụng mức kỷ luật sa thải
khi sự việc xảy ra do sơ xuất, không nghiêm trọng như các hành vi đã xảy ra tại
Xí nghiệp. (Các sự việc đã nêu trên)
- Xem xét toàn bộ sự việc đã xảy ra để có mức kỷ luật nhẹ hơn đối với bản
thân tôi.
Kính mong được Ban Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam xem xét, giải
quyết và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam.
66
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----
Hôm nay vào lúc 9h ngày 23/9/2013 tại Phòng làm việc 15b của Tổng công ty
Dầu Việt Nam.
I. Thành phần tham gia
- Đại diện công ty Dầu Việt Nam
• Ông Trịnh Kim Nhạc – Phó Tổng giám đốc
• Ông Nguyễn Lê Minh – Giám đốc ban TCNS
• Ông Đặng Minh Sơn – Chánh văn phòng- Phó chủ tịch công đoàn
• Bà Trần Thị Mộng Truyền – Chuyên viên ban TTTC - Thư ký
- Đại diện Xí nghiệp tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
• Ông Nguyễn Ngọc Liên – Giám đốc PV OIL Vũng Tàu
• Ông Bùi Quốc Huy – CBCNV PV OIL Vũng Tàu- Chủ tịch công đoàn PV OIL
Vũng Tàu
- Người lao động: Phạm Xuân Phương – Công nhân giao nhận PV OIL Vũng
Tàu.
II. Nội dung công việc:
Xem xét đơn yêu cầu của ông Phương – nhân viên giao nhận PV OIL Vũng
Tàu về việc tràn xăng tại PV OIL Vũng Tàu ngày 17/08/2013 của Tổng công ty Dầu
Việt Nam.
- Yêu cầu của người lao động (ông Phương)
• Xem xét hành vi làm tràn xăng của ông Phương tại PV OIL Vũng Tàu ngày
17/08/2013 của Tổng công ty Dầu Việt Nam có thể đến mức độ nghiêm trọng
để quyết định hình thức xử lý kỷ luật lao động là sa thải.
• Không áp dụng các hành vi vi phạm trước để cộng dồn cho việc xử lý lần này.
• Đề nghị lãnh đạo PV OIL xem xét áp dụng hình thức kỷ luật lao động nhẹ hơn
cho tôi về hành vi làm tràn xăng tại PV OIL ngày 17/08/2013 của tôi.
- Ý kiến của đại diện PV OIL Vũng Tàu
Từng sự việc xảy ra tại PV OIL đều có biên bản họp và xử lý vụ việc cụ thể.
Những sự việc xảy ra tại PV OIL Vũng Tàu nếu có yêu cầu và chỉ đạo tập đoàn sẽ làm
việc riêng từng vụ việc. Ngày hôm nay Hội đồng kỷ luật chỉ xem xét đơn yêu cầu của
ông Phương.
- Ý kiến của đại diện PV OIL – Hội đồng kỷ luật PV OIL
Hội đồng kỷ luật không áp dụng việc vi phạm lần trước để làm căn cứ xét kỷ luật
lao động theo hình thức sa thải đối với ông Phương cho lần vi phạm lần này. Hội đồng
kỷ luật xét thấy hành vi vi phạm lần này có tính hệ thống và là tái phạm vì hành vi vi
phạm của ông Phương lần này (ngày 17/08/2013) là hành vi bỏ ca trực như hành vi bỏ
ca trực đã bị xử lý vào năm 2010.
III. Kết luận
• Sau khi Hội đồng kỷ luật giải thích các yêu cầu của ông Phương nêu ra, ông
Phương hoàn toàn đồng ý với các giải thích của lãnh đạo PV OIL – Hội đồng
kỷ luật.
67
• Hội đồng kỷ luật vẫn bảo lưu áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với ông
Phương như tại Biên bản họp số 134/BB_DVN/c ngày 13/09/2013.
• Buổi làm việc hôm nay Hội đồng kỷ luật chỉ xem xét đơn yêu cầu của ông
Phương còn từng vụ việc xảy ra tại PV OIL Vũng Tàu nếu có đơn yêu cầu của
đương sự và có sự chỉ đạo của tập đoàn Hội đồng kỷ luật sẽ tiến hành xem xét
cụ thể.
• Bảo lưu ý kiến của ông Phương: Không đồng ý với hành vi bỏ ca trực
Biên bản cuộc họp kết thúc lúc 10h30 cùng ngày và đọc lại cho tất cả các thành
viên tham gia cuộc họp này cùng nghe, đồng ý với nội dung của biên bản và kí tên.
68
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------- ----------
Số: 1979/TB - DVN TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2013
PHỤ LỤC
DANH SÁCH THÀNH PHẦN THAM DỰ HỌP
(Đính kèm Thông báo mời họp số 1979 /TB- DVN ngày 25/08/2013)
STT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Nguyễn Lê Minh Giám đốc ban TCNS
2 Mai Quang Vinh Giám đốc ban TTPC
3 Nguyễn Tiến Minh Trí Trưởng phòng Kiểm tra nội bộ
4 Lê Ngọc Phó giám đốc ban KTAT
5 Nguyễn Văn Mơ Trưởng phòng AT- SK- MT
6 Nguyễn Ngọc Liên Giám đốc PV OIL Vũng Tàu
7 Phạm Đức Hoàn Phó giám đốc PV OIL Vũng Tàu
8 Trần Xuân Hoàng Phó giám đốc PV OIL Vũng Tàu
9 Nguyễn Quang Nhâm Phó giám đốc PV OIL Vũng Tàu
10 Nguyễn Ánh Sao Phó giám đốc PV OIL Vũng Tàu
11 Nguyễn Thanh Nam Trưởng phòng Bảo vệ An toàn
12 Nguyễn Viết Huân Phó phòng PT Phòng Quản lý HH
13 Đoàn Danh Thừa Đội trưởng đội Giao nhận
69
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VN (PV OIL) Độc lập -Tự do –Hạnh phúc
-------
Số: 623/DVN-TCNS
v/v Báo cáo việc xử lý vi phạm kỷ luật
tại PV OIL Vũng Tàu
TP.Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 10 năm 2013
Liên quan đến việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong vụ việc tràn xăng tại
Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu (PV OIL Vũng Tàu) ngày 17/08/2013, Tổng
công ty Xăng dầu Việt Nam xin báo cáo với Tập đoàn như sau:
70
2. Xử lý kỷ luật:
Ngày 13/09/2013, hội đồng kỷ luật đã họp để xử lý vụ việc này, Hội đồng có
mời đầy đủ đại diện Ban chấp hành Công đoàn TCT và đơn vị, các đương sự (người
lao động vi phạm kỷ luật) là các ông Phạm Xuân Phương và Ông Phạm Văn Kim.
Tại cuộc họp này, hội đồng đã phân tích hành vi, mức độ vi phạm và quyết định
hình thức kỷ luật đối với hai ông Phạm Xuân Phương, Ông Phạm Văn Kim và
những cá nhân khác có liên quan.
* Đối với trường hợp ông Phạm Xuân Phương, Hội đồng nhận thấy:
Hành vi và mức độ vi phạm của các ông Phạm Xuân Phương là nghiêm trọng
vì đã tự ý bỏ vị trí công việc khi các thiết bị bơm rót xăng dầu đang hoạt động dẫn
đến tràn xăng dầu với khối lượng lớn trong thời gian dài gây nguy cơ mất an toàn rất
cao cho Tổng kho xăng dầu. Về mặt vật chất, Tổng kho đã bị thất thoát là là 3.299 lít
xăng A92 (tương đương với số tiền là 45.000.000 đồng). Đây là một thất thoát vật
chất nghiêm trọng cho đơn vị.
Vi phạm kỷ luật lao động của ông Phạm Xuân Phương mang tính chất hệ thống,
tái phạm vì đây là lần vi phạm thứ 3.
+ Lần vi phạm thứ 1: khi làm bảo vệ tại Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu, Ông Phạm
Xuân Phương đã có hành vi trộm cắp tài sản và bằng Quyết định số 81/QĐ/PDC-VT
ngày 08/06/2008, Giám đốc Xí nghiệp XDDK Vũng Tàu đã quyết định kỷ luật khiển
trách bằng văn bản lần thứ nhất đối với Ông.
+ Lần vi phạm thứ 2: Ông Phạm Xuân Phương đã có hành vi bỏ vị trí trực
trong ca trực và bằng Quyết định số 419/QĐ-CBKDD ngày 21/05/2010, Tổng giám
đốc Công ty TNHH 1 TV Chế biến và Kinh doanh Sản phẩm Dầu mỏ (PDC) đã quyết
định kỷ luật với hình thức: kéo dài thời hạn thi nâng bậc lương 6 tháng kể từ ngày
14/03/2010 đối với ông.
Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 126 Bộ luật Lao động; điểm 8.3 Điều 8 Nội quy
lao động Tổng công ty Dầu Việt Nam, Hội đồng quyết định hình thức xử lý kỷ luật sa
thải đối với Ông Phạm Xuân Phương.
Tại cuộc họp kỷ luật này, Ông Phạm Xuân Phương đã thừa nhận hành vi vi
phạm, chấp nhận quyết định của Hội đồng. Tuy nhiên, sau khi có ý kiến của Ông
Phạm Xuân Phương và ý kiến của đại diện BCH Công đoàn đề nghị hội đồng để
Ông tự nguyện viết đơn xin thôi việc, Hội đồng đồng ý xem xét nguyện vọng này
của Ông và đã yêu cầu Ông có đơn sớm để TCT giải quyết chế độ nghỉ việc. Phiên
họp kết thúc và Ông đã ký nhận biên bản họp của Hội đồng kỷ luật.
Trong khoảng thời gian từ ngày 13/09/2013 đến ngày 26/09/2013, TCT chưa
ban hành quyết định kỷ luật đối với Ông Phạm Xuân Phương.
Ngày 16/09/2013, Tổng công ty nhận được Đơn yêu cầu của Ông Phạm Xuân
Phương khiếu nại hình thức kỷ luật, trong đó Ông yêu cầu 02 nội dung:
• Không ban hành quyết định sa thải khi sự việc không nghiêm trọng như các vi
phạm đã xảy ra tại xí nghiệp
•Xem xét toàn bộ vụ việc đã xảy ra tại Tổng công ty để có mức kỷ luật nhẹ hơn
Ngày 23/09/2013 Hội đồng kỷ luật TCT đã mời ông Phạm Xuân Phương đến
họp để giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của Ông, Hội đồng kỷ luật một lần nữa đã
phân tích và giải thích cho ông Phạm Xuân Phương rõ các căn cứ để xét hình thức kỷ
luật, cụ thể là: Việc sai phạm của Ông đã làm tổn thất lượng hàng hóa trị giá trên
45.000.000 đồng.
71
Căn cứ Điều 130 Bộ luật lao động 2012 thì thiệt hại nghiêm trọng là thiệt hại
trên 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người
lao động làm việc.
Vậy với mức thiệt hại như trên, Hội đồng xét thấy là nghiêm trọng, hơn nữa
một vấn đề đặc biệt nguy hiểm là việc để gần 60 m3 xăng A92 (một chất rất dễ cháy
nổ) tràn ra ngoài bồn trong thời gian dài đã gây ra nguy cơ mất an toàn hết sức nghiêm
trọng đối với công tác Phòng chống cháy nổ của Tổng kho. Do đó sai phạm của Ông
Phạm Xuân Phương là “hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại
đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của Tổng công ty và đơn vị”.
Hội đồng kỷ luật đã không áp dụng hay cộng dồn việc vi phạm lần trước vào
với việc vi phạm lần này để xét hình thức kỷ luật sa thải đối với Ông Phạm Xuân
Phương như Ông đã trình bày trong đơn. Hội đồng kỷ luật chỉ xét thấy hành vi vi
phạm lần này có tính hệ thống và là tái phạm vì hành vi vi phạm của Ông Phạm Xuân
Phương lần này (ngày 17/08/2013) là hành vi bỏ ca trực giống như hành vi bỏ ca trực
đã bị xử lý năm 2010.
Hơn nữa, trong cuộc họp ngày 21/08/2013 tại Xí nghiệp Tổng kho Xăng dầu về
việc làm rõ trách nhiệm liên quan đến vụ việc là tràn xăng trong quá trình chuyển bể
từ số 19 sang bể 01, bản thân Ông Phạm Xuân Phương đã thừa nhận việc tự ý bỏ vị
trí trực, đó là: “Trước đó khoảng lúc 2 giờ ông Phương ăn cơm xong và quay lại vị trí
được phân công và có đi kiểm tra một lượt hệ thống không thấy hiện tượng gì lạ nên
đã về trạm bơm FO và ngủ quên”, “… Đã không làm tròn trách nghiệm được giao, có
kiểm tra nhưng đóng van xả nước bồn số 01 không kín để xăng tràn ra ngoài, không
phát hiện sự cố kịp thời do ngủ gật tại trạm bơm FO trong khi làm nhiệm vụ”, tiếp
theo đó vào ngày 09/09/2013 trong Đơn xin giảm nhẹ kỷ luật, Ông một lần nữa thừa
nhận hành vi: “Không khóa kín hết van xả nước của bể trước khi bơm xăng để chảy
một lượng xăng theo đường ống xả nước ra ngoài khu vức hệ thống thoát nước ở khu
vực kho”. Do đó việc Ông trình bày trong Đơn yêu cầu ngày 16/09/2013 và đơn khiếu
nại này là “bị bệnh nên sức khỏe không tốt (có báo cho đồng chí Kim trưởng ca biết là
tôi đang bị bệnh). Để xảy ra sự cố do sơ xuất ngoài ý muốn là không khóa van xả nước
của bể…” là không đúng với việc làm thực tế của Ông Phạm Xuân Phương tại ca
trực này. Ngoài ra, trong Bản cam kết ngày 16/03/2010 (đối với vi phạm kỷ luật lao
động lần thứ hai), Ông đã cam kết: “nếu sau này tôi vi phạm một lần nữa với bất kì
hình thức kỷ luật nào thì tội tự nguyện viết đơn xin nghỉ việc”.
Trên cơ sở đó Hội đồng kỷ luật vẫn bảo lưu quyết định hình thức kỷ luật sa
thải đối với ông Phạm Xuân Phương. Bản thân ông Phạm Xuân Phương cũng đã
thừa nhận và ký vào biên bản họp.
Đối với yêu cầu thứ 2 của ông Phạm Xuân Phương, Hội đồng đã không xem
xét trong cuộc họp này, Hội đồng sẽ chỉ xem xét khi có chỉ đạo từ Tập đoàn.
Ngày 27/09/2013 Tổng công ty ra Quyết định số 1560/QĐ - DVN về việc chấm
dứt hợp đồng lao động ông Phạm Xuân Phương với lý do bị xử lý kỷ luật sa thải.
Đính kèm:
- Biên bản họp hội đồng kỷ luật số 134/BB-DVN ngày 13/09/2013
- Đơn yêu cầu ngày 16/09/2013 của Ông Phạm Xuân Phương
- Biên bản làm việc ngay 23/09/2013
- Quyết định chấm dứt HĐLĐ ngày 27/09/2013 đối với ông Phạm Xuân Phương
- Biên bản họp ngày 21/08/2013 của PV OIL Vũng Tàu về việc xem xét làm rõ trách
nhiệm liên quan đến vụ việc làm tràn xăng trong quá trình chuyển bể từ bể 19 sang 01
72
- Đơn xin giảm nhẹ kỷ luật ngày 09/09/2013 của ông Phạm Xuân Phương
- Các quyết định kỷ luật trước đây đối với ông Phạm Xuân Phương.
Trên đây là nội dung việc xử lý vi phạm kỷ luật đối với người lao động tại PV
OIL Vũng Tàu, Tổng công ty báo cáo Tập đoàn để xem xét.
Trân trọng!
Nơi nhận:
- Như trên KT.TỔNG GIÁM ĐỐC
- HĐTV, TGĐ (để báo cáo) PHÓ GIÁM ĐỐC
- Lưu VT, PC, TCNS (đã ký và đóng dấu)
Trịnh Kim Nhạc
73
BIÊN BẢN HỌP
XỬ LÝ VI PHẠM KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
Cuộc họp xem xét xử lý vi phạm kỷ luật lao động vụ việc nhân viên giao nhận
Phạm Văn Cương, Vũ Quý Hùng, Lê Anh Đại và Nhân viên Bảo vệ về PCCC Hà Hữu
Trang vi phạm quy trình kiểm tra xe bồn tại trạm kiểm định và vụ việc 02 nhân viên
BV- PCCC Tào Văn Long và Phạm Xuân Phương bỏ vị trí trực trong ca trực
Bắt đầu vào lúc 08 giờ 30 ngày 14 tháng 03 năm 2010
Tại hội trưởng Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu
THÀNH PHẦN DỰ HỌP.
Đại diện Công ty:
- Ông Đặng Minh Sơn: Trưởng phòng HC - TC công ty – người được Tổng giám
đốc ủy quyền
- Ông Nguyễn Duy Hùng: Chủ tịch công đoàn công ty
Đại diện Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu:
- Ông Lê Xuân Huy – Giám đốc Tổng kho
- Ông Bùi Đức Quang – Chủ tịch Công đoàn Tổng kho
- Ông Trần Xuân Hoàng – Phó giám đốc - phụ trách HC-TC
- Ông Phạm Hữu Khải – Phó giám đốc - phụ trách sản xuất
- Ông Nguyễn Thanh Nam – Quản đốc - phụ trách đội Giao nhận
- Ông Bùi Thành Đô – Đội trưởng đội BV PCCC
Người lao động vi phạm kỷ luật:
- Ông Phạm Văn Cường : Đội giao nhận
- Ông Lê Anh Đại : Đội giao nhận
- Ông Vũ Quý Hùng : Đội giao nhận
- Ông Hà Hữu Trang : Đội BV- PCCC
- Ông Tào Văn Long : Đội BV- PCCC
- Ông Phạm Xuân Phương : Đội BV- PCCC
Người làm chứng:
- Ông Đoàn Danh Thừa : Đốc công đội giao nhận
- Ông Hà Giang Nam : Đội phó đội BV PCCC
- Ông Vũ Quang Tài : Đội phó đội BV PCCC
- Ông Lê Duy Phùng : Nhân viên đội BV PCCC
NỘI DUNG
* Kiểm điểm đánh giá mức độ vi phạm kỷ luật lao động.
Trên cơ sở báo cáo của Tổng kho về các trường hợp vi phạm và đề xuất mức kỷ
luật đối với từng cá nhân vi phạm. Các thành viên tham gia góp ý, phân tích nguyên
nhân vi phạm, mức độ vi phạm, hành vi vi phạm của từng trường hợp cụ thể và hậu
quả của sự vi phạm đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Để
đưa ra các mức kỷ luật cho từng cá nhân trên cơ sở Luật lao động và Thỏa ước lao
động tập thể của Công ty cho phù hợp nhưng phải nghiêm khắc nhằm mục đích thắt
chặt kỷ cương lao động của đơn vị có tính chất giáo dục tuyên truyền, nâng cao ý thức
chấp hành kỷ luật của người lao động.
* Các cá nhân tái phạm:
- Ông Tào Văn Long: Công ty đã áp dụng mức khiển trách thông báo toàn Công
ty theo Quyết định số 886/QĐ - TCNS ngày 30/07/1998 với lý do ý thức tổ chức kỷ
luật kém.
- Ông Hà Hữu Trang: Xí nghiệp xăng dầu dầu khí Vũng Tàu áp dụng hình thức
khiển trách bằng văn bản theo Quyết định 32/PDC - VT ngày 17/07/2004 với lý do
74
không hoàn thành nhiệm vụ trong khi kiểm định xe bồn gây hậu quả thất thoát hàng
của Xí nghiệp.
- Ông Phạm Xuân Phương: Xí nghiệp xăng dầu dầu khí Vũng Tàu áp dụng hình
thức khiển trách bằng văn bản, theo Quyết định kỷ luật số 81/QĐ/PDV- VT ngày
03/06/2008 với lý do: Có hành vi trộm cắp tài sản.
* Các cá nhân vi phạm lần đầu:
- Ông Phạm Văn Cường
- Ông Lê Anh Đại
- Ông Vũ Quý Hùng
* Hình thức kỷ luật đối với từng cá nhân vi phạm
Qua sự phân tích của tất cả các thành viên trong cuộc họp cho từng cá nhân vi
phạm. Các cá nhân vi phạm cũng đã nhận rõ khuyết điểm của mình, hiểu rõ những hậu
quả của việc vi phạm, xin nhận các hình thức xử lý kỷ luật của cuộc họp đưa ra.
Căn cứ vào mức độ vi phạm kỷ luật của từng đương sự và mức độ nhận khuyết
điểm của từng cá nhân. Sau khi phân tích rõ các hành vi vi phạm và hậu quả, chiểu
theo Luật Lao động và Thỏa ước LĐTT của Công ty, đề nghị Hội đồng kỷ luật Công
ty xem xét áp dụng hình thức kỷ luật đối với từng cá nhân như sau:
* Mức kỷ luật đề nghị Công ty xử lý:
Ông Phạm Văn Cường: đề nghị Công ty áp dụng hình thức sa thải. Hoặc cá nhân
có thể tự làm đơn xin nghỉ việc để được hưởng các chế độ theo quy định của Nhà nước
thì không áp dụng hình thức kỷ luật trên.
Ông Tào Văn Long: Khiển trách bằng văn bản thông báo toàn Công ty. Hạ lương
và kéo dài thời gian nâng lương 6 tháng.
Ông Hà Hữu Trang: Khiển trách bằng văn bản thông báo toàn Công ty. Hạ lương
và kéo dài thời gian nâng lương 6 tháng.
Ông Phạm Xuân Phương: Khiển trách bằng văn bản thông báo toàn Công ty. Hạ
lương và kéo dài thời gian nâng lương 6 tháng.
* Mức kỷ luật Tổng kho xử lý:
(Theo ủy quyền số 197/QĐ-TCHC ngày 31/10/2002 về việc uỷ quyền xử lý kỷ luật
lao động)
- Ông Lê Anh Đại: Tổng kho xử lý kỷ luật ở mức khiển trách bằng văn bản.
- Ông Vũ Quy Hùng: Tổng kho xử lý kỷ luật ở mức khiển trách bằng miệng.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở tổng hợp tất cả các ý kiến đóng góp của các thành viên trong cuộc họp
và đề xuất mức kỷ luật đối với từng cá nhân vi phạm kỷ luật đi đến kết luận cụ thể như
sau: Hầu hết các thành viên trong cuộc họp đều nhất trí với đề xuất mức kỷ luật đối
với từng cá nhân vi phạm đã nêu trên. Riêng trường hợp ông Phạm Văn Cường, Chủ
tịch Công đoàn Công ty có ý kiến do vi phạm lần đầu có thể áp dụng hình thức kéo dài
thời gian nâng lương.
Sau khi áp dụng hình thức kỷ luật đối với các cá nhân vi phạm, các cá nhân phải
viết bản cam kết nếu tái phạm sẽ áp dụng hình thức sa thải.
Đại diện Công ty: Ông Đặng Minh Sơn (đã ký)
Ông Nguyễn Quý Hùng (đã ký)
Đại diện Tổng kho: các thành viên tham gia đã ký
Người lao động vi phạm kỷ luật lao động:
Ông Lê Anh Đại (đã ký) Ông Vũ Quy Hùng (đã ký)
Ông Hà Hữu Trang (đã ký) Ông Tào Văn Long (đã ký)
Ông Phạm Xuân Phương (đã ký) Ông Phạm Văn Cường (đã ký)
75
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CÔNG TY TNHH MỘT TV CHẾ BIẾN Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
VÀ KINH DOANH SẢN PHẨM DẦU MỎ -----------
----------------
Số: 419/QĐ-CBKDD
TP Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2010
QUYẾT ĐỊNH
Về việc thi hành kỷ luật lao động
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Thi hành kỷ luật đối với ông Phạm Xuân Phương - sinh ngày 28/09/1979.
- Đơn vị làm việc: Đội Bảo vệ và PCCC-Tổng kho xăng dầu Vũng Tàu.
- Công việc đang làm: Công nhân Đội Bảo vệ và PCCC
- Trình độ chuyên môn được đào tạo: Công nhân kỹ thuật.
- Hình thức kỷ luật: Kéo dài kéo dài thời gian thi nâng bậc lương (theo Nghị
định 205/2004/NĐ-CP) 6 tháng kể từ ngày 14/03/2010.
Điều 2: Thời hạn thi hành kỷ luật lao động kể từ ngày 14 tháng 03 năm 2010.
Điều 3: Quyết định có hiệu lực từ ngày 14/03/2010. Trưởng phòng Tổ chức
nhân sự, Trưởng các Phòng, Ban Công ty liên quan, Giám đốc Tổng kho xăng dầu
Vũng Tàu và ông Phạm Xuân Phương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
76
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------
77
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------
Trong thời gian qua tôi đã vi phạm vào nội quy, quy định của Công ty PDC đề ra
nên đã bị cơ quan cho triệu tập họp xét kỷ luật bằng văn bản và hạ mức lương.
Vậy nay tôi viết bản cam kết này xin trình lên các cấp lãnh đạo và cũng qua bản
cam kết này tôi xin cam đoan với các cấp lãnh đạo, nếu sau này tôi còn vi phạm một
lần nữa với bất cứ hình thức kỷ luật nào thì tôi tự nguyện viết đơn xin nghỉ việc.
78
BIÊN BẢN
XỬ LÝ VI PHẠM KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
Cuộc họp xem xét xử lý vi phạm kỷ luật lao động, vụ việc 02 nhân viên trực ca
đêm ngày 20 tháng 05 năm 2008 lấy cắp xăng dùng vào mục đích riêng và 01 nhân
viên Đội giao nhận vi phạm quy trình xuất hàng trong kho xăng dầu.
Bắt đầu vào lúc 16 giờ 00 ngày 01 tháng 06 năm 2008.
Tại Hội trường Xí nghiệp Xăng dầu dầu khí Vũng Tàu.
79
2. Đương sự trình bày bản tường trình diễn biến sự việc, hành vi vi phạm,
mức độ vi phạm, nguyên nhân và hình thức kỷ luật lao động.
• Phạm Xuân Phương nhận khuyết điểm là có thực hiện hành vi trộm xăng với số
lần là 03 lần và nhận rõ sai lầm nghiêm trọng là một nhân viên bảo vệ mà có
hành vi trộm cắp, xin Xí nghiệp áp dụng hình thức kỷ luật ở mức nhẹ nhất. Hứa
sẽ không tái phạm nữa.
• Nguyễn Xuân Khánh đã nhận hết khuyết điểm là có hành vi trộm xăng có số
lần là 3 đến 4 lần vào các ca ban đêm, xin chịu hình thức kỷ luật của Xí nghiệp
đề ra. Hứa là không tái phạm.
• Vũ Văn Hòa đã nhận khuyết điểm vi phạm quy trình nhập hàng, xin hứa sẽ
không để xảy ra sự việc trên nữa.
3. Các ý kiến của các thành phần mời tham dự.
• Ông Nguyễn Mạnh Đỗ người được mời đại diện cho người lao động
Trường hợp của 02 nhân viên Phương và Khánh sự vụ đã quá rõ đề nghị Xí nghiệp
đưa ra hình thức kỷ luật ở phạm vi Xí nghiệp.
Trường hợp nhân viên Vũ Văn Hòa chưa nhận thức rõ về hậu quả xảy ra đã vi
phạm vào quy trình nhập hàng rất nguy hiểm về an toàn phòng chống cháy nổ và môi
trường, chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng đề nghị mức kỷ luật khiển trách bằng
miệng.
• Ông Đào Đức Quang người đại diện BCHCĐ - người bào chữa cho đương sự.
Các diễn biến sự việc của đương sự đã vi phạm vào Nội quy lao động và Thỏa ước
lao động của Công ty là quá rõ. Đề nghị áp dụng hình thức kỷ luật là chuyển làm việc
khác đối với nhân viên vi phạm lấy cắp xăng, áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách
bằng miệng đối với trường hợp Vũ Văn Hòa.
- Ông Vũ Quang Tải: Đề nghị áp dụng hình thức kỷ luật như ông Đào Đức Quang
- Ông Phan Hữu Khải: Đề nghị hình thức chuyển làm việc đối với Nguyễn Xuân
Khánh
. Sau khi xem xét nội dung các ý kiến đưa ra, mức độ thành khẩn nhận khuyết
điểm, lời cam kết sửa chữa khắc phục và nguyện vọng xin được tiếp tục làm việc tại
Xí nghiệp của các đương sự, Ông Lê Xuân Huy kết luận như sau:
- Vũ Văn Hòa vi phạm quy trình nhập hàng trong kho, chưa xảy ra hậu quả nghiêm
trọng
• Hình thức khiển trách bằng miệng lần 1 và thông báo toàn Xí nghiệp.
• Thời gian thi hành kỷ luật: 3 tháng.
- Nguyễn Xuân Khánh và Phạm Xuân Phương vi phạm Điều 3.3 Phụ lục hành vi vi
phạm Nội quy lao động và các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong Thỏa ước lao
động của Công ty
• Hình thức kỷ luật: Khiển trách bằng văn bản lần 1 chuyển làm việc khác.
• Thời gian thi hành kỷ luật là 04 tháng.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 17 giờ cùng ngày
Phó giám đốc Phụ trách: Lê Xuân Huy (đã ký)
Đại diện BCHCĐ : Đào Đức Quang (đã ký)
Người được Người sử dụng lao động mời tham dự: đã ký
Người làm chứng: Ông Phan Tuấn Ngọc (đã ký)
Đương sự: Ông Phạm Xuân Phương (đã ký)
Ông Nguyễn Xuân Khánh: (đã ký)
Ông Vũ Văn Hòa (đã ký)
80
XÍ NGHIỆP XĂNG DẦU DẦU KHÍ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------- --------
Số: 81/QĐ/PDC-VT
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Kỷ luật khiển trách bằng văn bản lần 1 đối với các ông có tên dưới đây:
- Ông Nguyễn Xuân Khánh Nhân viên đội giao nhận
- Ông Phạm Xuân Phương Nhân viên đội Bảo vệ- PCCC
Với lý do: Có hành vi trộm cắp tài sản vi phạm vào mục 3.3 phụ lục Nội quy lao
động trong Thỏa ước lao động tập thể của Công ty PDC
Điều 2: Quyết định này có hiệu lực thi hành trong thời gian 04 tháng kể từ ngày kí và
được thông báo toàn thể CB - CNV trong Xí nghiệp.
Điều 3: Các ông (bà) Phó giám đốc, Trưởng các phòng, Đội Xí nghiệp và các ông (bà)
có tên trên chiểu theo quyết định thi hành.
81
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------
82
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
(PV OIL) -----------
----------
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Mục đích
Nội quy lao động là những quy định về tuân thủ thời gian làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi, trật tự nơi làm việc, lễ tiết, tác phong, an toàn vệ sinh lao động, kỷ luật lao động,
bảo vệ tài sản và bí mật kinh doanh của Tổng công ty Dầu Việt Nam (gọi tắt là Tổng
công ty) theo quy định của pháp luật lao động và các quy định của Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam.
Điều 2. Phạm vi áp dụng
Nội quy lao động này được áp dụng cho tất cả người lao động làm việc tại Tổng
công ty Dầu Việt Nam.
Chương II
NỘI DUNG CỤ THỂ
Điều 3. Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi
3.1 Thời giờ làm việc
Người lao động trong Tổng công ty phải nghiêm chỉnh chấp hành thời gian làm
việc theo quy định như sau:
- Đối với Người lao động làm việc theo giờ hành chính ở khối Văn phòng.
Tổng thời gian làm việc đảm bảo 40 giờ/tuần (8 giờ/ngày) từ thứ hai (2) đến
thứ sáu (6) trong tuần:
+ Buổi sáng: từ 8 giờ 00 phút đến 12 giờ 00 phút.
+ Buổi chiều: từ 13 giờ 00 phút đến 17 giờ 00 phút.
- Đối với khối Văn phòng các đơn vị trực thuộc: do Đơn vị quy định thời gian
làm việc đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
Đơn vị và khách hàng.
Đối với Người lao động trong khối trực tiếp sản xuất và bán hàng, bảo vệ, lái
xe, tạp vụ…thời gian làm việc do các đơn vị quy định những phải đảm bảo 8
giờ/ngày và 40 giờ/tuần.
Đối với Người lao động có Hợp đồng lao động khoán việc và Người lao động
hưởng lương khoán không áp dụng thời gian làm việc 40 giờ/tuần nhưng phải đảm bảo
thời gian nghỉ tối thiểu 4 ngày/tháng.
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về việc làm thêm
giờ trên cơ sở các quy định của pháp luật lao động.
3.2 Thời giờ nghỉ ngơi
3.2.1 Thời giờ nghỉ ngơi của người lao động trong Tổng công ty được thực hiện theo
quy định sau:
83
- Mỗi tuần người lao động được nghỉ 02 (hai) ngày, vào ngày Thứ Bảy và ngày
Chủ nhật hoặc ngày bất kì trong tuần tùy thuộc vào tình hình thực tế sản xuất kinh
doanh của Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc. Trong trường hợp đặc biệt, do chu kì
lao động không thể nghỉ hàng tuần thì người sử dụng lao động phải đảm cho người lao
động được nghỉ bình quân một tháng ít nhất là 04 (bốn) ngày.
- Những ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ phép được áp dụng theo quy định của pháp luật
lao động được thể hiện trong TƯLĐTT của Tổng công ty.
- Trường hợp người lao động bị ốm (có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm
quyền) hoặc bị tai nạn đột xuất thì được nghỉ việc và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã
hội theo quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn liên quan.
- Người lao động được phép đề nghị Tổng giám đốc Tổng công ty, Thủ trưởng
đơn vị trực thuộc Tổng công ty cho nghỉ việc không hưởng lương và chỉ được nghỉ sau
khi có sự đồng ý của người có thẩm quyền.
3.2.2 Thời gian nghỉ ngơi của lao động nữ được tính vào thời gian làm việc theo đúng
quy định của pháp luật lao động và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Điều 4. Trật tự trong Tổng công ty
4.1 Quy định về trật tự nơi làm việc:
4.1.1 Tuân thủ sự điều hành của người trực tiếp phụ trách mình. Người ra lệnh phải
chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc hoặc người được Tổng giám đốc ủy
quyền.
4.1.2 Chỉ được phép thực hiện nhiệm vụ trong khuôn khổ khu vực làm việc có liên
quan đến nhiệm vụ được giao, trừ trường hợp có sự đồng ý của người có thẩm
quyền. Phải hành động vì lợi ích chính đáng của Tổng công ty và tập thể người
lao động trong Tổng công ty.
4.1.3 Không được làm việc riêng, không gây ồn ào, mất trật tự làm ảnh hưởng đến
người xung quanh.
4.1.4 Không được sử dụng điên thoại, các thiết bị dụng cụ văn phòng và tài sản khác
của Tổng công ty vào việc riêng.
4.1.5 Không được tiếp khách để giải quyết việc riêng tại nơi làm việc.
4.1.6 Không được đánh bài, đánh cờ hoặc các trò giải trí khác, kể cả khi đi làm việc
ngoài cơ quan.
4.2 Quy định về lễ tiết, tác phong của người lao động trong Tổng công ty.
4.2.1 Ăn mặc lịch sự, gọn gàng theo đúng quy định của Tổng công ty.
4.2.2 Giao tiếp lịch sự, văn minh.
4.2.3 Không được đến nơi làm việc trong tình trạng say rượu bia. Nghiêm cấm uống
rượu, bia trong giờ làm việc trừ trường hợp được Người sử lao động cho phép
tiếp khách vì mục đích phục vụ cho lợi ích Tổng công ty. Nghiêm cấm các hành
vi gây rối an ninh trật tự trong và ngoài giờ làm việc.
4.3 Cán bộ phụ trách có trách nhiệm phân công công việc cụ thể cho từng nhân viên
của mình và phải có yêu cầu rõ ràng, hợp lý về khối lượng, chất lượng và thời
gian hoàn thành. Nhân viên phải tuân thủ và hoàn thành nhiệm vụ theo sự phân
công của cán bộ phụ trách. Nếu xét thấy không có khả năng hoàn thành tiến độ
mà người phụ trách giao thì phải có ý kiến phản hồi ngay để người phụ trách xem
xét, xử lý.
4.4 Người lao động đến nơi làm việc phải đảm bảo vệ sinh nơi làm việc của mình,
chấn chỉnh trang phục, sắp xếp chuẩn bị phương tiện làm việc và tiếp nhận chỉ thị
của cấp trên về công tác chuyên môn nghiệp vụ.
Điều 5. An toàn lao động, vệ sinh lao động.
84
5.1 Người lao động ngay khi được bố trí vào nơi làm việc tại Tổng công ty phải được
học Nội quy lao động. Đối với Người lao động phụ trách công tác trực tiếp sản
xuất và Người lao động có liên quan phải học các quy trình, quy phạm về an toàn
lao động, vệ sinh lao động, phòng cháy chữa cháy, các quy trình, quy phạm vận
hành thiết bị máy móc, xuất nhập xăng dầu, pha chế, xe nâng hàng, nội quy
phòng thí nghiệm và các quy định khác có liên quan và phải có trách nhiệm chấp
hành nghiêm chỉnh các quy định, quy trình, quy phạm này. Các quy định phải
được niêm yết tại nơi làm việc và phải được kiểm tra định kì.
5.2 Nơi làm việc phải bảo đảm:
Ø Gọn gàng, sạch sẽ, trật tự.
Ø Nghiêm cấm người lao động mang các vật dụng: dễ cháy nổ, gây bệnh, vũ khí,
chất nổ, chất độc hại cũng như các ấn phẩm, văn hóa phẩm đồi trụy vào nơi làm
việc.
Ø Tài liệu của từng phần việc phải được phân loại thống kê, cập nhật, sắp xếp trật
tự và đặt đúng nơi quy định để dễ tìm, dễ sử dụng.
Ø Nghiêm cấm tàng trữ và sử dụng vũ khí và các chất gây nghiện.
Ø Khi hết giờ làm việc, người lao động phải ngắt cầu dao điện như điều hòa nhiệt
độ, quạt điện và các trang thiết bị khác (nếu không có yêu cầu sử dụng), khóa cửa
phòng làm việc.
5.3 Người lao động có yêu cầu làm việc ngoài giờ phải có sự đồng ý của người phụ
trách hoặc Tổng giám đốc đối với cán bộ phụ trách. Khi đến làm việc và kết thúc
công việc phải báo cáo cho bộ phận thường trực, bảo vệ biết.
5.4 Người lao động được giao sử dụng và quản lý các dụng cụ, thiết bị và phương
tiện phục vụ công việc hàng ngày của đơn vị; phải thực hiện nghiêm chỉnh các
nội quy, quy trình sử dụng máy móc, thiết bị và phương tiện đó. Những người
không được giao nhiệm vụ thì không được sử dụng trừ trường hợp có sự đồng ý
của người phụ trách được giao sử dụng các dụng cụ, thiết bị đó.
5.5 Người lao động có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của Nhà nước, Tổng công ty
và Đơn vị về bảo vệ môi trường, phòng cháy chữa cháy.
Điều 6. Bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ kinh doanh của Tổng công ty.
6.1 Người lao động có nghĩa vụ bảo vệ tài sản, bảo quản các tài liệu, tư liệu khi chưa
được phép công bố và không được tiết lộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của
Tổng công ty, đơn vị, không được phép tung tin xuyên tạc hoặc có những hành
động làm phương hại đến lợi nhuận Tổng công ty và tập thể người lao động trong
Tổng công ty.
6.2 Trưởng các ban, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Tổng công ty chịu trách nhiệm
trước Tổng giám đốc hoặc người được Tổng giám đốc ủy quyền về việc sử dụng
và bảo quản các loại máy móc thiết bị và vật tư tài sản được Tổng công ty giao
quản lý.
6.3 Tất cả các tài liệu đã đưa vào sổ lưu trữ khi hủy bỏ phải lập biên bản thống kê.
Trong biên bản phải có chữ kí của cán bộ phụ trách hoặc Tổng giám đốc đối với
cán bộ phụ trách và được lưu trữ trong thời hạn cần thiết tùy theo từng loại tài
liệu. Nghiêm cấm báo cáo các tài liệu dưới dạng giấy lộn chưa qua xử lý, hủy tài
liệu.
6.4 Người lao động không được sử dụng các tài sản, vật tư, hàng hóa của Tổng công
ty, đơn vị vào việc riêng và không được mang ra khỏi Tổng công ty, đơn vị khi
chưa có sự đồng ý của người phụ trách và Tổng giám đốc.
85
6.5 Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng danh nghĩa của Tổng công ty, đơn vị hoặc vị
trí công tác để tư lợi hoặc gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách hàng, đồng
nghiệp.
CHƯƠNG II
KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
Điều 7. Các hình thức xử lý vi phạm kỷ luật lao động.
7.1 Người lao động không chấp hành đúng các quy định trong Nội quy lao động được
coi là hành vi vi phạm kỷ luật lao động.
7.2 Người lao động vi phạm kỷ luật lao động tùy theo mức độ sẽ bị xử lý một trong
các hình thức sau:
1. Khiển trách.
2. Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 6 (sáu) tháng hoặc cách chức đối với
người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản mà tái phạm trong thời hạn 3 (ba)
tháng kể từ ngày bị khiển trách hoặc những hành vi vi phạm đã được quy định
trong Nội quy lao động này.
3. Sa thải.
Điều 8 Các hành vi vi phạm kỷ luật lao động
8.1 Khiển trách
8.1.1 Bằng miệng khi mắc các lỗi lần đầu sau:
1. Đi muộn, về sớm.
2. Làm mất vệ sinh nơi làm việc.
3. Làm việc riêng trong giờ làm việc.
4. Gây mất trật tự nơi làm việc.
5. Không tuân thủ sự điều hành của người trực tiếp phụ trách mà không có lý do
chính đáng.
6. Sử dụng các thiết bị, dụng cụ văn phòng vào việc riêng khi chưa có ý kiến của
người phụ trách.
7. Đánh bài, đánh cờ hoặc chơi các trò chơi khác trong giờ làm việc.
8. Ăn mặc không đúng quy định
9. Khi đến nơi làm việc trong tình trạng say rượu, bia, uống rượu, bia trong giờ làm
việc khi chưa được phép của người phụ trách.
8.1.2 Bằng văn bản khi tái phạm các lỗi trên trong thời hạn 3 (tháng) kể từ khi mắc lỗi
lần đầu.
8.2 Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 6 (sáu) tháng hoặc cách chức được
áp dụng đối với các hành vi vi phạm sau:
1 Người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản mà tái phạm trong thời hạn 3 (ba)
tháng kể từ ngày bị khiển trách.
2 Nghỉ việc riêng khi chưa được phép của Thủ trưởng đơn vị hoặc người phụ
trách.
3 Mang các chất nổ, dễ cháy, vũ khí, chất độc hại, văn hóa phẩm đồi trụy vào nơi
làm việc.
4 Không chấp hành các quy định phòng chống cháy nổ an toàn vệ sinh lao động.
5 Không chấp hành nghiêm các quy trình sử dụng máy móc, trang thiết bị được
giao gây hư hỏng.
6 Không có ý thức bảo vệ, bảo quản tài sản, tài liệu các chứng từ của Tổng công ty
để hư hỏng mất mát.
7 Lợi dụng danh nghĩa, uy tín của Tổng công ty, vị trí công tác để tư lợi.
86
8 Vi phạm các quy chế, quy định quản lý của Tổng công ty, đơn vị gây thiệt hại về
uy tín và kinh tế cho Tổng công ty và đơn vị.
8.3 Sa thải
Hình thức sa thải được áp dụng đối với người lao động trong những trường hợp
sau đây:
1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử
dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công
nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây
thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản,
lợi ích của Tổng công ty và đơn vị.
2. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong
thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm
3. Người lao động tự ý bỏ việc 5 (năm) ngày cộng dồn trong 01 (một) tháng hoặc 20
(hai mươi) ngày cộng dồn 01 (một) năm mà không có lý do chính đáng.
Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: bị tai nạn, bị hỏa hoạn,
bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở y tế được thành lập hợp pháp,
các trường hợp khác được quy định trong Nội quy lao động này.
Điều 9. Thời hiệu xử lý vi phạm kỷ luật lao động.
9.1. Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa là 06 tháng, kể từ ngày xảy ra hành vi vi
phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết
lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của người sử dụng lao động thì thời hiệu
xử lý kỷ luật lao động tối đa là 12 tháng.
9.2. Khi hết thời gian quy định tại các điểm a, b và c khoản 4 Điều 123 Bộ luật lao
động, nếu còn thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động thì người sử dụng lao động
tiến hành xử lý kỷ luật lao động ngay, nếu hết thời hiệu thì được kéo dài thời
hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày hết
thời gian nêu trên.
Khi hết thời gian quy định tại điểm d khoản 4 Điều 123 Bộ luật lao động, mà
thời hiệu xử lý kỷ luật lao động đã hết thì được kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật
lao động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.
9.3. Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được ban hành trong thời hạn quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này
87
11.1 Người lao động bị xử lý kỷ luật với các hình thức khiển trách sau 03 (ba) tháng
không tái phạm thì đương nhiên được xóa kỷ luật.
11.2 Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương thì việc nâng lương
cho người lao động được thực hiện ngay sau khi có quyết định giảm thời hạn
hoặc xóa bỏ kỷ luật nếu người lao động đã đủ điều kiện nâng lương.
Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 12. Điều khoản thi hành
12.1. Người lao động thuộc Tổng công ty có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh
những quy định trong Nội quy lao động này. Nếu trường hợp xảy ra không nằm
trong Nội quy lao động này thì sẽ được giải quyết theo các quy định của pháp
luật lao động và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
12.2. Việc sửa đổi, bổ sung Nội quy này do Tổng Giám đốc quyết định.
12.3. Nội quy có hiệu lực theo Quyết định ban hành./.
88
He thong bao cao Flexcube/Flexcube Report system 28-JUL-2014
13:48:42
Ngan hang TMCP Dai Duong/ Ocean commercial joint stock bank
Trang/page:1/2
Chi nhanh/ Branch: 790
Ngay GD/ Trans Date: 28- JUL-14 DD001- SO PHU TAI KHOAN TIEN GUI
Tu ngay/From date:01/07/2013 den ngay/To
date:30/09/2014
So TK/Account no : 79079015145800016
Ten Tk/Account name : PHAM XUAN PHUONG- VCNTN0,VND
Loai hinh tien gui/Account Type : VCNTN0-TK TIEN GUI THANH TOAN
CN TRG NC,VND
Don vi tien te/Currency : VND
Ten khach hang/Customer neme : PHAM XUAN PHUONG
Ngay ps truoc/Previous transaction date : 26/06/2013
So du dau ngay/Openning balance : 3,124,623
89
CBCNVXN
06/09/2013 06/09/2013 790ZATM102490 GIAO DICH 500,000 5,095,609
0A1 ATM
06/09/2013 06/09/2013 790ZATM102490 GIAO DICH 5,000,000 95.609
0B2 ATM
25/09/2013 26/09/2013 790DELCVND THANH TOAN 2,100 97,709
00001 TRA LAI
06/10/2013 06/10/2013 000IF0110279025 TIEN LUONG 2,647,959 2,745,668
0 T9/2013 CHO
CBCNV
06/10/2013 06/10/2013 790ZATM102790 GIAO DICH 500,00 2,245,660
02K ATM
07/10/2013 07/10/2013 000ZATM102800 GIAO DICH 2,000,000 245,668
SG ATM
13/10/2013 13/10/2013 790ZATM102860 GIAO DICH 150,000 95,668
002 ATM
25/10/2013 26/10/2013 790DELCVND THANH TOAN 400 96,068
00001 TRA LAI
25/11/2013 26/11/2013 790DELCVND THANH TOAN 200 96,268
00001 TRA LAI
25/12/2013 26/12/2013 790DELCVND THANH TOAN 200 96,468
00001 TRA LAI
25/01/2014 26/01/2014 790DELCVND THANH TOAN 200 96,668
00001 TRA LAI
25/02/2014 26/02/2014 790DELCVND THANH TOAN 200 96,868
00001 TRA LAI
25/03/2014 26/03/2014 790DELCVND THANH TOAN 200 97,068
00001 TRA LAI
25/04/2014 26/04/2014 790DELCVND THANH TOAN 200 97,268
00001 TRA LAI
25/05/2014 26/05/2014 790DELCVND THANH TOAN 200 97,468
00001 TRA LAI
25/06/2014 26/06/2013 790DELCVND THANH TOAN 200 97,668
00001 TRA LAI
25/07/2013 26/06/2013 790DELCVND THANH TOAN 200 97,868
00001 TRA LAI
Đỗ Quang Minh
90
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
Trụ sở: 184/10 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường Thắng Tam, TP- VT, tỉnh BR- VT
Tôi tên là: Trịnh Kim Nhạc
Chức vụ: Phó Tổng Giám đốc
Địa chỉ: Lầu 14, Tòa nhà PetroViet Nam, số 1 – 5 Lê Duẩn, Q1, TP Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0839106900
Tôi làm giấy này trân trọng kính gửi đến văn phòng luật sư, đề nghị văn phòng
luật sư giúp đỡ hỗ trợ pháp lý cho Tổng công ty Dầu Việt Nam trong vụ việc tranh
chấp Hợp đồng lao động.
Đề nghị của tôi đối với văn phòng luật sư như sau:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV OIL)
với tư cách là bị đơn trong vụ án Tranh chấp Hợp đồng lao động với nguyên đơn là
ông Phạm Xuân Phương. Vụ án hiện tại do Tòa án Nhân dân thành phố Vũng Tàu thụ
lý giải quyết.
Tôi cam kết cung cấp đầy đủ và đúng thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ
việc cho văn phòng luật sư. Nếu có sự giả mạo, sai trái tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi cam kết thanh toán đầy đủ và đúng thời hạn số tiền thù lao cho văn phòng
luật sư như đã thỏa thuận, nếu tôi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì chấp nhận thanh
toán đầy đủ toàn bộ tiền thù lao cho Văn phòng Luật sư theo như thỏa thuận tại hợp
đồng dịch vụ đã ký kết.
Tôi kính mong văn phòng luật sư chấp nhận thỏa thuận yêu cầu của tôi để thực
hiện công việc mà pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chúng tôi theo quy định của pháp luật. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với các đề
nghị trên này.
Tôi xin chân thành cảm ơn và kính chào.
91
ĐOÀN LUẬT SƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
VPLS PHẠM DUY ----------
Số: 27/GGT
Vũng Tàu, ngày 9 tháng 7 năm 2014
92
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP. VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
…..o0o…… --------
CHỨNG NHẬN
- Ông (bà): Phạm Duy Hiển
Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của: Bị đơn – Tổng công ty Dầu Việt Nam.
Trong vụ án: Tranh chấp xử lý luật sa thải người lao động.
- Ông (bà): Phạm Duy Hiển
Thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự theo đúng quy định của pháp luật.
93
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------
Kính gửi: Văn phòng Luật sư Họ Vũ – Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Tên tôi là: Phạm Xuân Phương
Sinh năm: 28/09/1979
CMND số: 27334xxx ngày 04/07/2010 do Công an Bà Rịa – Vũng Tàu cấp.
Địa chỉ hiện nay: số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, Phường Thắng Nhất, TP Vũng Tàu
Nay tôi làm đơn này kính đề nghị Văn phòng Luật sư Họ Vũ cử Luật sư Vũ
Anh Thao tư vấn, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi trong toàn bộ
quá trình giải quyết tranh chấp lao động với Tổng Công ty Dầu Việt Nam trong việc
hủy bỏ Quyết định 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 và bồi thường tiền lương và phụ
cấp trong thời gian chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật cho tôi. Luật sư Thảo
được quyền làm việc với các cơ quan tố tụng, cá nhân, tổ chức liên quan theo quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho tôi.
Tôi xin cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi để Luật sư hoàn thành công việc.
XÁC NHẬN CỦA VPLS HỌ VŨ Vũng Tàu, ngày 29 tháng 05 năm 2014
TRƯỞNG VĂN PHÒNG NGƯỜI LÀM ĐƠN
(đã ký và đóng dấu) (đã ký)
LS. Vũ Anh Thao Phạm Xuân Phương
94
ĐOÀN LUẬT SƯ TỈNH BR - VT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ HỌ VŨ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số: ------------
95
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP. VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
…..o0o….. --------
Số: 05/2014/TA- GCN
Vũng Tàu, ngày 30 tháng 06 năm 2014
CHỨNG NHẬN
- Ông (bà): Vũ Anh Thao
Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của: Nguyên đơn – ông Phạm Xuân
Phương.
Trong vụ án: Tranh chấp xử lý kỷ luật sa thải người lao động.
- Ông ( bà):………………………………………………………………………
Thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự theo đúng quy đinh của pháp luật.
96
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ QUỐC GIA VN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔNG CÔNG TY DẦU VN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
(PV OIL) ----------
Số: 35/UQ- DVN Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 06 năm 2014
GIẤY ỦY QUYỀN
- Căn cứ Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005;
- Căn cứ Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
- Căn cứ Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty Dầu Việt Nam được ban hành
kèm theo Quyết định số 1251/QĐ- DKVN ngày 06/06/2011 của Hội đồng Quản trị
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc bổ nhiệm ông Nguyễn Xuân Sơn, Ủy viên Hội
đồng thành viên Tổng công ty Dầu Việt Nam kiêm giữ chức Tổng giám đốc Tổng
công ty dầu Việt Nam.
Người ủy quyền:
- Họ và tên: NGUYỄN XUÂN SƠN Sinh ngày: 22/4/1959
- Số CMND: 27345xxx; Cấp ngày 09/01/2011; tại Công an tỉnh BR- VT
- Địa chỉ giao dịch: Số 1-5 Lê Duẩn, P. Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
- Chức vụ: Tổng Giám đốc Tổng công ty.
Người được ủy quyền:
- Họ và tên: NGUYỄN ĐỨC THẮNG Sinh ngày: 25/10/1979
- Số CMND số: 225 104 xxx Cấp ngày: 19/12/2004 Tại CA. tỉnh Khánh Hòa
- Địa chỉ giao dịch: Số 1-5 Lê Duẩn, P.Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
- Chức vụ: Phó Giám đốc Ban Thanh tra Pháp chế.
Điều 1. Nội dung ủy quyền
Người ủy quyền đồng ý giao và Người được ủy quyền đồng ý nhận thay mặt
Người ủy quyền thực hiện các công việc cụ thể sau:
- Làm việc với Tòa án Nhân dân Thành phố Vũng Tàu để giải quyết vụ án liên quan
đến Đơn khởi kiện của ông Phạm Xuân Phương;
- Tham gia vào toàn bộ quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật đến khi có
phán quyết của Tòa án về việc khởi kiện ông Phạm Xuân Phương;
- Ký các công văn, giấy tờ để giải quyết các vấn đề liên quan đến công việc được ủy
quyền trên;
- Được quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến công việc được ủy quyền.
Điều 2. Thời hạn ủy quyền:
Ủy quyền này có hiệu lực kể từ ngày kí cho đến khi thực hiện xong công việc được
được ủy quyên nêu tại Điều 1.
Điều 3. Trách nhiệm của người được ủy quyền:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Người ủy quyền về việc thực hiện công việc
được ủy quyền;
- Trong quá trình thực hiện công việc được ủy quyền phải tuân thủ các quy định của
pháp luật; các quy chế, quy định của Tập đoàn Dầu khí VN và Tổng công ty;
- Báo cáo về việc thực hiện các công việc được ủy quyền cho Người ủy quyền sau
khi hết thời hạn ủy quyền quy định tại Điều 2.
NGƯỜI ĐƯỢC ỦY QUYỀN NGƯỜI ỦY QUYỀN
(đã ký) (đã ký và đóng dấu)
Nguyễn Đức Thắng Nguyễn Xuân Sơn
97
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------
GIẤY ỦY QUYỀN
Hôm nay, ngày 30 tháng 05 năm 2014, tại Uỷ ban nhân dân P. Nguyễn An Ninh,
TP Vũng Tàu
Tôi tên là: Phạm Xuân Phương
Năm sinh: 28/09/1979
CMND: 27334xxx ngày 04/07/2010 do Công an Bà Rịa – Vũng Tàu cấp.
Nơi đăng kí hộ khẩu: N1-x Nguyễn An Ninh, Phường 7, TP Vũng Tàu
Địa chỉ hiện nay: số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, Phường Thắng Nhất, TP Vũng Tàu
(Sau đây gọi tắt là Bên ủy quyền)
Bằng văn bản này, tôi ủy quyền cho:
Bà: Nguyễn Thị Thanh Hải
Năm sinh: 20/01/1977
CMND số: 273480xxx ngày 14/03/2012 do Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp.
Địa chỉ hiện nay: số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, Phường Thắng Nhất, TP Vũng Tàu.
(Sau đây được gọi tắt là Bên được ủy quyền)
Nội dung công việc ủy quyền:
Ông Phạm Xuân Phương ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thanh Hải được
toàn quyền làm việc với Tổng Công ty Dầu Việt Nam, các cơ quan tiến hành tố tụng
và tham gia tố tụng tại phiên tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm để yêu cầu Tổng Công ty
Dầu Việt Nam hủy bỏ Quyết định 1560/QĐ - DVN ngày 27/09/2013 và yêu cầu bồi
thường tiền lương và phụ cấp trong thời gian chấm dứt hợp đồng lao động trái luật
theo đơn khởi kiện nộp tại Tòa án nhân dân Thành Phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu.
Thời hạn ủy quyền: Giấy ủy quyền này có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi giải
quyết xong vụ việc Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Bên được ủy quyền chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi
do Bên được ủy quyền nhân danh Bên ủy quyền thực hiện việc ủy quyền trên đây.
Bên ủy quyền đã đọc lại, hiểu rõ nội dung giấy ủy quyền và đồng ý tự nguyện
ký tên dưới.
98
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
BẢN TỰ KHAI
Kính gửi: Tòa án nhân dân TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Tôi tên là: Phạm Xuân Phương Sinh năm: 28/09/1979
Nơi đăng ký hộ khẩu: N1- x Nguyễn An Ninh, Phường 7, TP Vũng Tàu
Trú tại: số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, Phường Thắng Nhất, TP Vũng Tàu.
99
- Chênh lệch số lượng xăng chuyển từ bể số 19 về bể số 01 khi xảy ra sự cố là:
58.203 lít.
- Số lượng xăng được thu gom là 54.904 lít.
- Lượng xăng bị thất thoát là: 3.299 lít (do bay hơi trong quá trình tràn ra rãnh
thoát nước).
Ngày 13/09/2013 Tổng công ty đã tổ chức buổi họp và lập biên bản số 134/BB-
DVN về việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động trong vụ tràn xăng tại PV OIL Vũng Tàu
ngày 17/08/2013. Hội đồng kỷ luật đã quyết định:
“ Ông Phạm Xuân Phương, nhân viên giao nhận thuộc Phòng quản lý Hàng hóa-
PV OIL Vũng Tàu vi phạm kỷ luật lao động (tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị
bơm xăng dầu đang hoạt động) để xảy ra nguy cơ mất an toàn cao cho Tổng kho PV
OIL Vũng Tàu. Vi phạm của ông Phạm Xuân Phương là tái vi phạm mang tính hệ
thống. Căn cứ: khoản 1 Điều 126 Bộ luật lao động; điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động
Tổng Công ty Dầu Việt Nam, Hội đồng quyết định hình thức xử lý kỷ luật: “ Sa thải”
Ngày 27/10/2013, Tổng Giám đốc công ty đã ban hành Quyết định số 1650/QĐ-
DVN về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với tôi. Lý do: Bị xử lý kỷ luật với hình
thức sa thải do tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị bơm xăng đang hoạt động để xảy
ra nguy cơ mất an toàn cao cho Tổng kho Xăng dầu Vũng Tàu, vi phạm khoản 1 Điều
126 Bộ Luật Lao động 2012 và điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động của Tổng Công ty
Dầu Việt Nam.
Qua sự việc nêu trên, tôi cho rằng: Việc hội đồng kỷ luật quyết định xử lý kỷ luật
tôi bằng hình thức sa thải vì cho rằng: (i) Tôi tự ý bỏ vị trí làm việc khi các thiết bị
bơm xăng dầu đang hoạt động dẫn đến để xảy ra nguy cơ mất an toàn cao cho
toàn Tổng kho PV OIL Vũng Tàu. (ii) Tái vi phạm, mang tính hệ thống là không
có cơ sở vì:
Thứ nhất: Theo quy định của Xí nghiệp, nhiệm vụ của đội giao nhận là đóng, mở
các van trên đường ống dẫn và kiểm tra thông tuyến trước khi bơm. Các bể trước khi
bơm xăng đều được kiểm tra vệ sinh, công việc kiểm tra và vệ sinh được Xí nghiệp
thuê đơn vị khác vào thực hiện. Sau khi hoàn thành công việc thì bên đơn vị vệ sinh
phải có biên bản bàn giao bể cho Xí nghiệp và đảm bảo bể an toàn, các van gắn với bể
không bị hư hỏng. Căn cứ vào biên bản được giao, Trưởng phòng QLHH mới ra lệnh
cho bơm xăng chuyển về.
Bể số 01 trước khi bơm, Xí nghiệp chưa nhận bàn giao từ đơn vị vệ sinh, chưa
kiểm tra độ an toàn mà lãnh đạo Xí nghiệp vẫn cho chuyển vào bể dẫn đến xăng chảy
ra ngoài theo van xả. Do vậy việc xăng chảy ra ngoài van xả không phải là hành vi cố
ý của tôi. Do vậy Tổng công ty áp dụng khoản 1 Điều 126 Bộ Luật Lao động để sa thải
tôi là hoàn toàn trái luật.
Thứ hai: Ngày 14/03/2010, tôi vi phạm kỷ luật lao động và bị xử lý bằng hình
thức kéo dài nâng lương 06 tháng (từ ngày 14/03/2010 – 13/09/2010). Đến ngày
18/08/2013 thì thời gian đã hơn 1 năm 5 tháng mà Hội đồng kỷ luật Tổng công ty cho
là tái vi phạm, mang tính hệ thống để quyết định hình thức xử lý vi phạm cho lần này
là không đúng. Điều này thể hiện tại Biên bản số 134/BB-DVN ngày 13/09/2013 và
Công văn số 2493/DVN - TCNS ngày 11/10/2013 của Tổng Công ty Dầu Việt Nam.
Thứ ba: Quyết định 1560/QĐ - DVN ban hành ngày 27/09/2013 nhưng lại có hiệu
lực kể từ ngày 15/09/2013 là trái với quy định của pháp luật về ngày có hiệu lực được
quy định trong luật ban hành văn bản.
100
Từ những nội dung phân tích ở trên, việc Tổng công ty căn cứ vào khoản 1
Điều 126 Bộ Luật Lao động và điểm 8.3 Điều 8 Nội quy lao động của Tổng công ty để
ra quyết định sa thải tôi hoàn toàn trái quy định của pháp luật.
Từ những lý do nêu trên, tôi đã đơn kính đề nghị Tòa án Nhân dân Thành phố
Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thụ lý, giải quyết vụ việc với yêu cầu như sau:
- Hủy bỏ Quyết định số 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 của Tổng Công ty Dầu
Việt Nam.
- Yêu cầu Tổng Công ty Dầu Việt Nam bồi thường toàn bộ tiền lương và phụ cấp
cho tôi trong thời gian chấm dứt hợp đồng lao động trái luật và nhận tôi trở lại
làm việc. Cụ thể:
+ Tiền lương từ ngày 15/09/2013 đến ngày 15/05/2014 (tạm tính) là 48.000.000
đồng (Bốn mươi tám triệu đồng).
+ Tiền bồi thường chấm dứt hợp đồng trái luật tương đương với 02 tháng tiền
lương là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).
Tổng cộng số tiền bồi thường: 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng)
Trân trọng!
Người khai
(đã ký)
Phạm Xuân Phương
101
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------- ------------
102
Bể số 1 trước khi bơm, Xí nghiệp chưa nhận bàn giao từ đơn vị vệ sinh, chưa
kiểm tra độ an toàn mà lãnh đạo xí nghiệp vẫn cho chuyển vào bể dẫn đến xăng chảy
ra ngoài theo van xả. Do vậy việc xăng chảy ra ngoài bằng van xả không phải là hành
vi cố ý của ông Phương, lỗi để tràn dầu không phải là lỗi hoàn toàn của ông Phương.
Mặc dù ông Phương có một phần lỗi trong ca trực nhưng không thuộc trường hợp sa
thải theo quy định của pháp luật.
Nay tôi đại diện ủy quyền cho ông Phương yêu cầu:
- Hủy bỏ Quyết định số 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 của Tổng Công ty
Dầu.
- Yêu cầu Tổng công ty bồi thường toàn bộ tiền lương và phụ cấp, tiền thưởng.
- Nhận ông Phương trở lại làm việc với vị trí trước đây đang làm
*Bị đơn: Ông Nguyễn Đức Thắng đại diện cho Tổng Công ty Dầu trình bày:
Việc ban hành Quyết định 1650/QĐ- DVN ngày 27/09/2013 của Tổng giám đốc
Tổng công ty Dầu Việt Nam là đúng quy định của pháp luật.
Ngày 27/09/2013 ban hành quyết định nhưng ngày có hiệu lực là 15/09/2013 là:
ngày 13/09/2013 Tổng công ty đã tổ chức họp xét xử lý kỷ luật đối với anh Phương
với hình thức sa thải nhưng do ông Phương có đơn xin cứu xét và cam kết sẽ làm đơn
xin nghỉ việc để hưởng trợ cấp thôi việc, không ảnh hưởng đến hồ sơ xin việc; tuy
nhiên ông Phương không thực hiện.
Lý do Tổng công ty ra quyết định sa thải đối với ông Phương là vì: do ông
Phương không thực hiện nhiệm vụ của mình làm thất thoát tài sản của Công ty (thất
thoát 3.299 lít xăng), gây mất an toàn cao cho Tổng kho xăng dầu. Cụ thể: Ông
Phương bỏ ca trực của mình, ngủ quên trong quá trình bơm dầu vào kho. Bể số 1 trước
khi bơm dầu đã được bàn giao và được kiểm tra đảm bảo khô, sạch và đủ điều kiên
đưa vào hoạt động.
Nay qua yêu cầu của ông Phương, Tổng công ty không đồng ý và vẫn giữ
nguyên Quyết định số 1560/QĐ- DVN ngày 27/09/2013. Không chấp nhận ông
Phương trở lại làm việc và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
*Nguyên đơn: bà Hải đại diện cho ông Phương trình bày:
Nay tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiên.
Sau khi nghe các bên trình bày, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải có ý kiến: tại
buổi làm việc hôm nay Tòa án ghi nhận ý kiến trình bày của các bên liên quan và giải
thích các quy định để các đương sự tự hòa giải với nhau.
Biên bản kết thúc lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày đã đọc lại cho mọi người nghe
rõ, xác nhận đúng và ký tên.
Đương sự CBTA
(đã ký) THẨM PHÁN
(đã ký và đóng dấu)
103
TÒA ÁN NHÂN DÂN TP VŨNG TÀU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- -----------------------
Số 57/2014/QĐST – XX
Vũng Tàu, ngày 24 tháng 7 năm 2014
QUYẾT ĐỊNH
ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ
Căn cứ vào các Điều 41, 179 và Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Lao động thụ lý số 06/2014/TLST-LĐ ngày
16/5/2014.
QUYẾT ĐỊNH
I/ Đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án về việc: “ Khởi kiện quyết định sa thải” giữa:
Nguyên đơn: Phạm Xuân Phương
Địa chỉ: số nhà x, Nguyễn Hữu Cảnh, Phường Thắng Nhất, TP Vũng Tàu
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Vũ Anh
Thao thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
104
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------- ---------------------
Vũng Tàu, ngày 24 tháng 7 năm 2014
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------- ---------------------
Vũng Tàu, ngày 24 tháng 7 năm 2014
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
106