You are on page 1of 9

VẤN ĐỀ 1 Đối tượng dùng để bảo đảm và tính chất phụ của biện pháp bảo đảm

- Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM;
- Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang;
- Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí
Minh.

Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM.
Chủ thể: Nguyên đơn là ông Phạm Bá Minh, bị đơn là bà Bùi Thị Khen, ông
Nguyễn Khắc Thảo.
Đây là tranh chấp về hợp đồng dịch vụ vay tiền.
Lý do tranh chấp: Ông Minh cho bà Khen, ông Thảo vay 60.000.000 đồng, thời hạn
vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng. Bà Khen, ông Thảo đã đóng lãi
36.800.000 đồng thì ngưng không đóng nữa nên kéo dài số nợ (cả gốc và lãi) trên cho đến
nay. Nay phía ông Minh yêu cầu bà Khen, ông Thảo trả nợ vốn và nợ lãi là 70.000.000
đồng.
Quyết định của Tòa án:
Tòa sơ thẩm: Buộc bà Khen và ông Thảo có nghĩa vụ thanh toán cho ông Minh số
tiền 38.914.800 đồng. Ông Minh phải trả cho ông Thảo, bà Khen bản chính giấy chứng
nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương do bà Khen đứng tên.
Tòa phúc thẩm: Giữ y bản án sơ thẩm.
→ Tuy hai bên tự nguyện nhưng không phù hợp với lãi suất do Nhà nước quy định.
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
BLDS 2015 đã có nhiều thay đổi so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cụ thể:
Thứ nhất, về số lượng điều luật quy định tài sản được bảo đảm. BLDS 2005 đã sử
dụng phương pháp liệt kê khi có đến ba điều luật quy định về tài sản đảm bảo: Điều 320
về vật bảo đảm; Điều 321 về tiền, giấy tờ có giá và Điều 322 về quyền tài sản. Còn
BLDS 2015 đã khái quát lại chỉ còn một điều luật là Điều 295 về tài sản bảo đảm.
=> Nhược điểm của BLDS 2005 đã được BLDS 2015 đã rút gọn lại và khắc phục, bởi khi
liệt kê các quy định của BLDS 2005 có thể sẽ không đầy đủ. Đồng thời, sự thay đổi này
giúp cho phép nhiều tài sản có thể được đưa vào bảo đảm, phù hợp với triết lý chung của
BLDS 2015 là khai thác tài sản tối đa nhất có thể.
Thứ hai, BLDS 2015 đã bỏ đi cụm “được phép giao dịch” và chỉ quy định trường
hợp “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản” khi so sánh khoản 1 Điều 320 BLDS
2005 với khoản 1 Điều 295 BLDS 2015. Bởi lẽ, các quy định chung đã có hướng giải
quyết nên đã đủ căn cứ thể hiện rằng tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép giao dịch.
Thứ ba, về giá trị của tài sản bảo đảm. BLDS 2015 đã bổ sung thêm quy định tại
khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm”.
Thứ tư, BLDS 2015 đã bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 295 là: “Tài sản bảo
đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Việc cho phép “mô tả chung”
là cần thiết và phù hợp trong thực tiễn xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm, đặc biệt là
đối với trường hợp tài sản bảo đảm luôn có sự biến động, thay thế về số lượng, chủng loại
và giá trị hàng hóa. Tuy nhiên trên thực tế việc “mô tả chung” phải có giới hạn, vì trong
khi giao kết giao dịch bảo đảm, nhiều trường hợp các bên mô tả tài sản quá chung chung,
không rõ ràng, dẫn đến việc không xác định được tài sản bảo đảm hoặc gây nhầm lẫn,
làm phát sinh tranh chấp cũng như khó khăn cho quá trình xử lý. Do vậy, Bộ luật quy
định điều kiện “tài sản bảo đảm phải xác định được”.
Câu 2: Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Trích đoạn trong bản án ghi nhận về việc bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “...Vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và ông
Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương
để vay 60.000.000 đồng,… ” và “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác
nhận: Có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng…”
Câu 3: Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản”, thì giấy chứng nhận sạp ở đây không được xem là tài sản. Tại phần
“Xét thấy” của bản án, Tòa án đã xác nhận: “Giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân
Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải là quyền sở hữu.”
Câu 4: Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án không chấp nhận việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân
sự. Tại phần xét thấy của bản án có ghi nhận: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và
cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng
sạp, không phải là quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.”
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận
sạp để bảo đảm nghĩa vụ là hợp lý bởi giấy chứng nhận sạp sạp thịt heo D2-9 do bà Khen
đứng tên và cầm cố tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở
hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền
cho ông Minh.
Căn cứ vào khoản 1, Điều 295, BLDS 2015 về tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự: “Tài sản bảo đảm phải thuộc về quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”.
Theo đó, tài sản cầm cố đó nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà
Khen có quyền sử dụng nó chứ không có quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp
để trả nợ.
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa
án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Chủ thể: Nguyên đơn là Nguyễn Văn Ôn và Lê Thị Xanh, bị đơn là Nguyễn Văn
Rành.
Đây là tranh chấp về: Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 30/08/1995, vợ chồng ông Võ VĂn Ôn và bà Lê THị Xanh
cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm
ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản với giá 30 chỉ vàng 24k, thỏa thuận 3
năm sẽ chuộc, quá hạn không chuộc sẽ giao phần đất với số vàng đã cầm cố. Theo lời
khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất.
Quyết định của Tòa án: Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Tiền Giang xin rút đoạn “thứ nhất” về phần thủ tục, còn đoạn “thứ hai” trong
kháng nghị về phần nội dung thì vẫn giữ nguyên và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm hủy bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét
thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ
chấp nhận.
Câu 6: Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố?
Trong Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014, việc các bên đã dùng
quyền sử dụng đất để cầm cố được thể hiện qua các đoạn sau:
Tại phần “Nhận thấy” của Quyết định số 02: “...Vào ngày 30/08/1995 (âm lịch),
ông Ôn, bà Xanh và ông Rành đã xác lập giao dịch “thục đất làm ruộng” (BL31). Theo
thỏa thuận này thì ông Ôn, bà Xanh là người có tài sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp
pháp, ông Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực hiện giao dịch ông Ôn, bà Xanh giao
QSDĐ cho ông Rành canh tác, đổi lại ông Rành đưa cho ông Ôn bà Xanh 30 chỉ vàng
24K để sử dụng, hai bên thỏa thuận nếu quá 03 năm ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại
đất cũng bằng vàng trên thì ông Rành có quyền canh tác số ruộng đất này vĩnh viễn”.
Tại phần “Xét thấy” của Quyết định số 02 có đoạn nêu rằng: “Ngày 30/8/1995 vợ
chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục
đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài
sản”.
Câu 7: Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Trong các văn bản hiện hành cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.
Trong bản án có thể hiện: Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Tiền Giang giữ nguyên kháng nghị của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm:
“Với giao dịch trên cho thấy, mặc dù pháp luật dân sự không quy định cụ thể cho người
sử dụng đất có quyền cầm cố QSDĐ nhưng xét về bản chất của giao dịch này thấy rằng
giữa các bên đương sự đã thực hiện một giao dịch cầm cố tài sản tuân thủ đúng quy định
của pháp luật…”
Điều 309 BLDS có quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận
cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
Theo đó đối tượng của cầm cố phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố, mà tài
sản (theo như Điều 105 BLDS 2015 ghi nhận) gồm 4 loại: tiền, vật, giấy tờ có giá và
quyền tài sản.
Căn cứ theo Điều 115, BLDS 2015 thì quyền sử dụng đất được coi là một quyền
tài sản nên thỏa mãn được điều kiện của đối tượng cầm cố là tài sản. Đồng thời trong
Luật đất đai 2013 không có quy định nào cấm dùng quyền sử dụng đất để cầm cố tài sản.
Câu 8: Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố, đã được thể hiện trong Quyết định như sau: “Tại quyết định kháng nghị số
02/2014/KN-DS ngày 20/01/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền
Giang kháng nghị đối với bản án dân sự số 384/2012/DS-ST ngày 24/12/2012 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Thành, với nhận xét: “…Với giao dịch trên cho thấy, mặc dù pháp
luật dân sự không quy định cụ thể cho người sử dụng đất có quyền cầm cố QSDĐ nhưng
xét về bản chất của giao dịch này thấy rằng giữa các bên đương sự đã thực hiện một giao
dịch cầm cố tài sản cho nhau và giao dịch này không trái pháp luật, không trái đạo đức xã
hội và tuân thủ đúng quy định của pháp luật về hình thức, nội dung của hợp đồng cầm cố
được Bộ luật dân sự quy định từ Điều 326 đến Điều 341.”
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02.
Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02 là hợp lý vì quyền sử
dụng đất cũng là một loại tài sản, theo Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” Theo Điều 309 BLDS 2015 thì: “Cầm
cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, ở
đây “tài sản” không nhất thiết phải là động sản mà có thể là động sản hoặc bất động sản.
Khoản 2 Điều 310 BLDS quy định: “Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố
theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ
ba từ thời điểm đăng ký.” Có thể thấy BLDS 2015 đã ghi nhận về khả năng cầm cố bất
động sản. BLDS 2015 cũng quy định các bên tham gia quan hệ xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có
hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Trong Quyết định
số 02, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc sở hữu của ông Ôn và bà Xanh, xét về
bản chất của giao dịch giữa các bên đã thực hiện là giao dịch cầm cố tài sản cho nhau và
việc cầm cố cũng được lập thành văn bản. Do đó, việc Tòa án xác định quyền sử dụng đất
là để cầm cố là hợp lý.
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
Chủ thể: Nguyên đơn là Ngân hàng Liên doanh V, bị đơn là Công ty PT.
Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
Lý do tranh chấp: Vào năm 2014, giữa Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT đã
ký kết các hợp đồng tín dụng với mục đích vay vốn bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt
động sản xuất và ngân hàng cấp đã hạn mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng. Trên
cơ sở hợp đồng hạn mức nêu trên, ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT. Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015 với hạn mức tín dụng tối đa
10.000.000.000 đồng mục đích vay vốn là bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản
xuất và ngân hàng đã giải ngân ngày 14/5/2015 với số tiền 1.700.000.000 đồng. Để đảm
bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết các hợp đồng thế
chấp. Sau khi Ngân hàng giải ngân các khoản vay cho Công ty PT thì đến tháng 4/2015
phía Công ty PT đã vi phạm về thời hạn thanh toán lãi và gốc cho Ngân hàng. Khi Công
ty PT không thanh toán nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì phía Ngân hàng có mời những
người bảo lãnh lên để làm việc và bà Dương Thúy G, ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V đã
thanh toán cho Ngân hàng số tiền 1.600.000.000 đồng và lấy tài sản thế chấp về. Trong
quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị T đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền là
700.000.000 đồng và Ngân hàng đã giải chấp tài sản thế chấp đối với bà T. Ngoài ra, bà
Nguyễn Thị X cũng đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 600.000.000 đồng và
Ngân hàng cũng đã giải chấp đối với phần tài sản của bà X. Đối với các tài sản mà phía
Công ty PT thế chấp bảo lãnh cho khoản vay theo Hợp đồng thế chấp số 07/2013/HĐTC
ngày 22/3/2013, qua xác minh hiện nay không biết ở đâu, do Công ty đã di chuyển tài sản
đi nơi khác. Tính đến ngày 05/9/2019, Công ty PT còn thiếu Ngân hàng Liên doanh V -
Chi nhánh Thành phố H số tiền là 5.235.426.579 đồng và 69.444,52 USD (bao gồm cả nợ
gốc và lãi).
Quyết định của Tòa án: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên buộc Công ty PT
phải trả số nợ trên và tiếp tục trả lãi phát sinh cho Ngân hàng từ ngày 05/9/2019 cho đến
khi trả xong khoản nợ. Do hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm
hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông
T, bà H.
Câu 10: Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ
khoản vay của công ty PT cho ngân hàng Liên doanh V. Trong phần nhận định của Tòa án
ghi: Tại khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp có ghi: “…Hợp đồng này để bảo đảm
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn bộ các
Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa
bằng giá trị tài sản thế chấp…”.
Theo khoản 1 Điều 317 BLDS 2015 “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên thế chấp).”
Câu 11: Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Trong Quyết định số 27 có đoạn: “Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2019/KDTM-
ST ngày 12/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương quyết
định: …Tuyên bố hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã ký giữa ông
Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng Liên doanh V – Chi nhánh Thành phố H và Công ty
PT chấm dứt hiệu lực.”
Câu 12: Vì sao Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt vì:
“Ông T và bà H chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm đối với các khoản nợ được giải
ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, cụ thể là các hợp đồng tín dụng cụ thể số
106/2014/HĐTDCT ngày 11/6/2014; số 65/2014/HĐTDCT ngày 15/4/2014 và số
73/2014/HĐTDCT ngày 25/4/2014. Tuy nhiên, theo sự xác nhận của phía Ngân hàng thì
Công ty PT đã thanh toán tất cả các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nêu trên
và phía Ngân hàng cũng đã tất toán các hợp đồng này vào ngày cuối cùng là 25/11/2014.”
Chính vì vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015 thì thế chấp tài sản
chấm dứt trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt. Do đó, Hợp
đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt.
Câu 13: Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là có thuyết phục vì:
Công ty PT đã thanh toán tất cả các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nêu trên
và phía Ngân hàng cũng đã tất toán các hợp đồng này. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của
ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015. Và tại khoản 2
Điều 1 của Hợp đồng thế chấp mà các bên đã thỏa thuận có ghi: “…Hợp đồng này để
đảm bảo thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn
bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền
tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp…” vì vậy việc giữa Ngân hàng và Công ty PT ký phụ
lục hợp đồng để nâng hạn mức tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên thành 5.000.000.000
đồng, việc ký nâng hạn mức vay tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000
đồng nhưng không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà Trần Thị H là
không đúng quy định và việc Ngân hàng ký nâng hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên
10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp là điều không hợp lý, điều này
đã trái với quy định của hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận. Mặc dù, hợp đồng thế chấp
trên đã chấm dứt, hết hiệu lực nhưng Ngân hàng V đã không thanh lý hợp đồng thế chấp
này, trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho
ông T, bà H là vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của ông T, bà H. Theo đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 322 BLDS 2015 thì trong trường
hợp chấm dứt thế chấp, bên nhận thế chấp có nghĩa vụ trả các giấy tờ cho bên thế chấp
sau khi chấm dứt thế chấp đối với trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ
giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp. Vì vậy, Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả
bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H.
Câu 14: Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?
Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp
(Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất là có thuyết phục. Căn cứ theo khoản 1 Điều 322 BLDS 2015 thì bên nhận thế
chấp phải trả các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm dứt thế chấp. Hợp đồng thế chấp
số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 bảo đảm cho khoản vay mà Công ty PT đã vay Ngân
hàng. Các khoản vay đã được phía Công ty thanh toán tất cả các khoản nợ theo các hợp
đồng tín dụng cụ thể và phía Ngân hàng cũng xác nhận đã tất toán tất cả các khoản nợ
này. Như vậy nghĩa vụ trả nợ của Công ty PT với Ngân hàng đã hoàn thành. Vì vậy, hợp
đồng thế chấp bảo đảm cho khoản vay đó cũng chấm dứt. Do đó, đồng nghĩa với việc
phía Ngân hàng phải trả lại cho Công ty Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sở hữu đất ở mà ông T, bà H đã dùng để thế chấp.

You might also like