You are on page 1of 2

3.

Mối quan hệ giữa biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả :

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có
mối quan hệ qua lại như sau :

3.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện :

Ở đây cần phải phân biệt không phải một sự vật nào đó có trước sự vật thứ
hai, thì tác động của nó đã được coi là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai.

Vi dụ, ngày là sự nối tiếp của đêm nhưng không phải là nguyên nhân của đêm. Ở
đây sự phân biệt không phải là thời gian mà là mối liên hệ hiện thực giữa nguyên
nhân và kết quả. Hai hiện tượng, hiện tượng trước không phải là nguyên nhân của
hiện tượng sau chỉ là ở chỗ sự tác động của nó không có liên quan gì đến sự xuất
hiện của hiện tượng sau. Còn trong quan hệ nhân quả, thì bao giờ sự tác động của
nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Sự kế tục giữa các mùa ở trong năm cũng như
vậy. Đó là hậu quả của những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt trời trong vòng
quay của trái đất xung quanh mặt trời, chứ không phải mùa xuân sinh ra mùa hè,
mùa hè sinh ra mùa thu …

Vấn đề thứ hai cần chú ý là sự kế tiếp nhau của nguyên nhân và kết quả trong
mối quan hệ nhân quả không có nghĩa là nguyên nhân sinh ra xong rồi thì kết
quả mới nảy sinh. Trái lại, nguyên nhân vừa tác động thì sự hình thành của kết quả
đã có thể được coi như là bắt đầu, cho đến khi kết quả hình thành như một sự vật,
hiện tượng nó vẫn còn nhận tác động của nguyên nhân, và như vậy nó vẫn còn đang tiếp tục biến đổi do tác
động của nguyên nhân.

Tóm lại, người ta không thể nhìn quan hệ nhân quả như là sự đứt đoạn mà là
trong sự vận động biến đổi liên tục của thế giới vật chất, của sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng. Việc nguyên nhân sinh ra kết quả còn
có một yếu tố nữa, đó là điều kiện. Không phải cứ có sự tác động là có ngay kết
quả, phải ở trong những điều kiện nhất định thì có thể mới có kết quả. Ví dụ, trở lại
các quá trình sinh - hóa ở trong hạt cây nảy mầm chúng ta thấy rằng, nếu một hạt tốt có đầy đủ khả năng để
sinh ra một cái mầm tốt, nhưng nếu có được độ ẩm, ánh
sáng, nhiệt độ đầy đủ thì cũng không bao giờ có cái mầm xuất hiện. Điều kiện có
vai trò rất quan trọng. làm cho nguyên nhân nào sinh ra kết quả nào. Có thể cùng
một nguyên nhân, cùng một khả năng tác động như nhau, nhưng ở trong những điều kiện khác nhau thì nó
đưa lại những hậu quả khác nhau. Ví dụ, hai cái nhân tốt như nhau, nhưng với những điều kiện như nhiệt
độ, độ ẩm, ánh sáng khác nhau thì hai cái mầm mọc ra cũng có chất lượng khác nhau.

Vấn đề còn trở nên phức tạp hơn khi có nhiều nguyên nhân cùng tác động một lúc, khi đó thì kết quả
ra sao còn tùy thuộc ở việc mối quan hệ giữa các nguyên nhân với nhau là như thế nào.

Ví dụ, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của chúng ta sẽ hoàn thành trong
tương lai, chắc chắn phải chịu sự tác động của các nguyên nhân như quá trình phát
triển kinh tế bên trong, đồng thời là nguyên nhân của thị trường thế giới nói chung,
tức là nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới, những điều kiện thuận lợi mà kinh tế
thế giới đem lại cho chúng ta, những thách thức mà chúng ta phải vượt qua để xây
dựng nền kinh tế tự chủ trong hòa nhập. Vì vậy, xem xét kết quả này chúng ta vừa
phải xem xét trước hết là sự tác động qua lại giữa hai nguyên nhân là sự phát triển,
vận động của nền kinh tế ở trong nước và diễn biến của nền kinh tế toàn cầu, mỗi
bên có những vai trò riêng biệt. Và đương nhiên chúng ta khẳng định rằng, nguyên
nhân ở bên trong, những tác động nội tại của nền kinh tế nước ta, tinh thần độc lập
tự chủ và những kết quả do bản thân nỗ lực của nền kinh tế Việt Nam đem lại mới là
những nguyên nhân chủ yếu, đóng góp vào sự phát triển của đất nước, sự hoàn
thành quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ta. Xét nền kinh tế
trong nước, chúng ta lại còn có thể tiếp tục phân chia nguyên nhân đó thành những
nguyên nhân như là: sự tác động, vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ
đổi mới và trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hiện nay, năm thành phần
kinh tế cơ bản của chúng ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư
nhân, trong đó gồm cả tư bản nước ngoài, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế
tự cung tự cấp ở những vùng còn chưa phát triển được kinh tế hàng hóa, tất cả
những thành phần kinh tế này đều có những vai trò nhất định trong sự phát triển của
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, nền kinh tế quốc doanh bao giờ
cũng nắm vai trò chủ yếu do chỗ chúng ta định hướng phát triển kinh tế và định
hưởng xã hội chủ nghĩa, những ngành kinh tế chủ chốt có vai trò cơ bản tác động
đến nền kinh tế quốc dân đều thuộc khu vực quốc doanh, do đó hiển nhiên thành
phần kinh tế này luôn đóng vai trò chủ đạo, phát huy những tác dụng của nó làm
cho kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại.

3.2. Nguyên nhân và kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau :
Nguyên nhân và kết quả có thể hoán đổi vị trí cho nhau theo hai ý nghĩa dưới
đây:
 Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân nguyên nhân
khi sinh ra kết quả lại đã là kết quả ở một mối quan hệ nhân - quả trước
đó.
 Ngược lại, kết quả với tư cách là kết quả được sinh ra từ một nguyên
nhân nhưng bản thân nó không dừng lại. Nó lại tiếp tục tác động, và sự
tác động của nó lại gây ra những kết quả khác.

Nói một cách khác, có thể tóm lại trong chuỗi nhân – quả: A sinh ra B, B sinh ra C,
C sinh ra D... thì mỗi cái đều là nguyên nhân ở trong một mối quan hệ này, nhưng
đồng thời lại là kết quả ở một mối quan hệ khác.

Ví dụ, sự phân phối thu nhập không công bằng dẫn tới mâu thuẫn trong xã hội.
Những mâu thuẫn xã hội làm nảy sinh những tệ nạn xã hội. Những tệ nạn xã hội lại
làm cho nền kinh tế xã hội phát triển chậm lại. Thứ hai, đó chính là ý nghĩa đã được
xét ở khía cạnh trên, tức là nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả lại có khả
năng tác động trở lại đối với nguyên nhân. Trong mối quan hệ này, khi kết quả tác
động trở lại với nguyên nhân thì kết quả lại có tư cách là nguyên nhân chứ không phải là kết quả nữa. Do đó
có thể nói có sự hoán đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết
quả ngay trong cùng một mối quan hệ nhân – quả. Chúng ta có thể lấy lại những ví
dụ về dân trí và giáo dục đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân vừa được
dẫn ra ở trên. Vì vậy, Ph. Ăng — ghen nói rằng, nguyên nhân và kết quả là những
khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một
trường hợp riêng biệt nhất định. Hay nói cách khác, một hiện tượng nào đấy được
coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.

You might also like