You are on page 1of 55

TỔNG HỢP

TÌNH HUỐNG LUẬT HÌNH SỰ

MỤC LỤC
I..............MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP HÌNH SỰ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
.................................................................................................................................5

Đề bài số 01..........................................................................................................5
Đề bài số 02..........................................................................................................9
Đề bài số 03........................................................................................................14
Đề bài số 04........................................................................................................23
Đề bài số 05........................................................................................................28
Đề bài số 06........................................................................................................33
Đề bài số 07........................................................................................................37

II. CÁC TÌNH HUỐNG VỀ HÌNH SỰ, MA TÚY, TỆ NẠN XÃ HỘI.........42


1. Tình huống 1: B thấy chị H đeo hai nhẫn vàng ở ngón tay nên T dùng gậy đánh
vào sau gáy của chị H làm chị H ngất, sau đó B lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H.
Vậy B phạm tội gì?......................................................................................................42
Tình huống 2: T vừa lĩnh 50 triệu đồng tiền gửi ngân hàng đi ra đến đường quốc lộ
thì K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T đưa tiền, nếu không đưa thì K sẽ đâm. Ngay
lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới bắt giữ K. Vậy K có phạm tội không?.............42
Tình huống số 3: T lập kế hoạch và bàn bạc với M và P cướp tiền của những người
mới lĩnh tiền từ Ngân hàng Đ. T phân công cho M dùng dao đe doạ người bị tấn
công, còn M lao vào cướp tiền rồi lên xe máy do T đang đứng đợi sẵn. Vậy T, M và P
phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?...........................................43
Tình huống 4: H là thợ điện dựng xe máy loại xe LEAD có giá trị 35 triệu đồng ở
ria đường để trèo lên cột điện sửa chữa điện nhưng quên không rút chìa khoá. C đi
qua thấy vậy liền tiến đến xe máy của H, gạt chân chống xe lên rồi nổ xe phóng đi. H
ở trên cột điện nhìn thấy C lấy xe máy của mình nhưng không làm gì được. Vậy C có
phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?.....................................................................44
Tình huống 5: T và K đang cắt lúa ở cánh đồng thì đột nhiên K bị cảm, thấy vậy T
liền bế K lên đường thì nhìn thấy xe máy của G đang để ở ria đường, xe không khoá.
T đặt K ngồi lên xe máy đó và nổ máy với mục đích để đưa K vào bệnh viện cấp cứu.
1
G đang tắm ở dưới ao nhìn thấy T lấy xe của mình nhưng cũng không làm gì được.
Vậy T có phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không?..........................................44
Tình huống 6: H đang đi xe máy loại xe Jupiter vừa mới mua với giá 24 triệu đồng
thì K là người quen của H vẫy tay xin đi nhờ. H dừng xe lại và đèo K đi cùng. Khi đi
được một lúc thì H dừng xe trước quán nước và bảo K cùng vào quán uống nước. Lợi
dụng lúc H đi rửa tay thấy xe vẫn đang mở khoá, K liền nổ máy phóng xe máy của H
đi đến chợ T bán xe lấy tiền tiêu sài. Khi H rửa tay quay ra và hỏi Đ là chủ quán về
xe của mình thì Đ vẫn tưởng xe đó là xe của K. Vậy K phạm tội gì?.........................45
Tình huống 7: Sau khi Q lập kế hoạch trộm cắp xe máy của công ty K thì Q rủ rê
P, T và V cùng trộm cắp xe máy. Sau khi P, T và V đồng ý Q đã chủ động bàn bạc về
kế hoạch trộm cắp. Q có nhiệm vụ chuẩn bị các dụng cụ phá khoá cửa và theo dõi,
chỉ huy hoạt động trộm cắp, Q phân công P thực hiện việc phá khoá, phân công T dắt
xe máy ra và phân công V đưa xe máy đến nơi cất giấu mà Q đã chuẩn bị sẵn. Q, P, T
và V trộm cắp đến lần thứ ba với tổng cộng là 7 chiếc xe máy thì bị phát hiện và bị
bắt giữ. Vậy Q, P, T và V phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
……………………………………………………………………………………….46
Tình huống 8: H là công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của công ty
Đ, rồi buộc từng chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần lên và đi về.
Khi ra đến cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi giầy trong ống
quần, K yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy thế K đuổi theo và
túm được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong người ra đâm vào tay K để
cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật
hình sự?.......................................................................................................................46
Tình huống 9: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên H đã đến nhà B giả vờ hỏi mượn
xe máy loại xe Wave trị giá 15 triệu đồng để đi thăm người ốm. Khi B cho H mượn
xe thì H đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được 5 triệu đồng và
H lấy số tiền này để đánh bạc. Vậy H phạm tội gì?....................................................47
Tình huống 10: C có nhu cầu xây dựng nhà ở nên đã hỏi vay của T 50 triệu đồng
để xây dựng nhà ở. T đồng ý và đưa cho C vay 50 triệu đồng (việc vay mượn có làm
hợp đồng và viết giấy biên nhận). Sau khi nhận tiền của T thì C lại không xây nhà vì
C không muốn ở Việt Nam mà muốn sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C. Vì
không định trả lại tiền vay cho T nên khi đi C mang theo 50 triệu đồng đã vay của T.
Vậy C có phạm tội không?..........................................................................................48
Tình huống 11: Anh K vừa qua đã bị cơ quan có thẩm quyền truy tố do hành vi vi
phạm pháp luật về an ninh trật tự. Quá trình luận tội, xét thấy anh K đang có nơi làm
việc ổn định, cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, không cần thiết phải cách ly
người phạm tội khỏi xã hội, nên anh K đã bị Tòa án tuyên phạt cải tạo không giam giữ
1 năm. Một số ý kiến thắc mắc cho rằng Tòa án đã xét xử chưa đúng người, đúng tội.
Xin hỏi trường hợp này pháp luật quy định như thế nào?............................................48
2
Tình huống 12: Chị Nguyễn Thị H sống độc thân, do thiếu hiểu biết, chị đã cho
một gái bán dâm ở trong nhà chị và thực hiện hành vi mua bán dâm với nhiều người
trong nhiều lần khác nhau, xin hỏi trường hợp của chị có phải là phạm tội nhiều lần
không?.........................................................................................................................49
Tình huống 13: Trần Tiến D là kế toán trưởng của Tập đoàn chuyên kinh doanh
trong lĩnh vực xăng dầu. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, D đã móc nối với
một số đối tác để làm chứng từ khống, thu lợi bất chính nhiều tỷ đồng và đã bị cơ
quan điều tra phát hiện. Xin hỏi trong trường hợp này, việc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của D có bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không?................50
Tình huống 14: Nguyễn Văn V do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng bọn
đột nhập vào nhà bà M trộm cắp. Khi bị phát hiện V đã chủ động tấn công và đâm
chết cháu trai của bà M khi anh này cố tình ngăn cản không cho V chạy thoát. Sau
khi V bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố V về tội giết người thì gia đình
V đã có đơn kiện, cho rằng do V còn nhỏ (mới hơn 14 tuổi), nhận thức kém, chưa đủ
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi pháp luật quy định về vấn đề này như thế
nào?..............................................................................................................................51
Tình huống 15: Do mâu thuẫn về đất đai trong quá trình xây dựng nhà ở, Nguyễn
Tiến D đã bàn bạc âm mưu cùng 2 anh trai sang nhà ông B hàng xóm gây rối và đánh
người nhà ông B. Kết quả ông B và con trai ông đã bị anh em D đánh gây thương tích
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cơ quan công an còn
phát hiện bố đẻ D là ông H cũng biết trước việc này. Đề nghị cho biết trường hợp này
ông H có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự do không tố giác tội phạm hay không?
.....................................................................................................................................52
Tình huống 16: Anh Nguyễn Văn H uống rượu say nên trên đường đi làm về đã
gây ra tai nạn giao thông làm trọng thương một người đi bộ sang đường; sau đó gia
đình anh H đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầy đủ
các chi phí cho họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không xử lý hình sự đối với
anh H. Trong trường hợp này, anh H có phải chịu trách nhiệm hình sự nữa không ?
.....................................................................................................................................52
Tình huống 17: Anh Trần Văn D bị tòa án phạt 20 tháng tù về tội vi phạm các qui
định về an toàn giao thông đường bộ. Sau khi gây án, anh Đ rất ăn năn, hối cải, khai
báo thành khẩn. Trong khi chờ đi thụ hình đã có công cứu được 3 trẻ nhỏ bị nước lũ
cuốn trôi. Như vậy anh D có được được miễn chấp hành hình phạt tù không?..........53
Tình huống 18: Nguyễn Thị A phạm tội buôn bán ma túy. Trong quá trình điều tra,
truy tố xét xử, cơ quan có thẩm quyền phát hiện A đang có thai. Xin hỏi trong trường
hợp này A có được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không?.....................................54
Tình huống 19: Nguyễn Hữu T cùng đồng bọn phạm tội cướp giật tài sản khi T
mới được 17 tuổi 5 tháng. Quá trình điều tra xác định T phạm tội với tư cách là đồng

3
phạm giúp cho đồng bọn bỏ trốn, không trực tiếp tham gia vào vụ cướp giật tài sản.
Trong trường hợp này, T có thể bị áp dụng biện pháp khiển trách hay không?..........54
Tình huống 20: Trần Văn D làm nghề lái xe tắc xi. Trong một lần chở khách ban
đêm, H đã vô tình tông phải vợ chồng anh G làm cho anh bị thương tích nặng. Quá
hoảng sợ, D đã lái xe bỏ chạy, bỏ mặc vợ chồng anh G trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng. Hành vi của D phạm tội gì và bị xử lý ra sao?...................................55

4
TỔNG HỢP
TÌNH HUỐNG LUẬT HÌNH SỰ 2018

I. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP HÌNH SỰ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT


Đề bài số 01
A lợi dụng đêm tối vào nhà bà B (60 tuổi, độc thân) chiếm đoạt tài sản. Bị chủ nhà
phát hiện, A dùng cây gỗ đánh mạnh vào đầu bà B, sau đó lục tìm lấy tiền, vàng. Khi
lấy được tiền, vàng, điện thoại của bà B (trị giá 60 triệu đồng) định bỏ đi thì phát hiện
bà B còn sống, A đã bóp cổ nạn nhân đến chết. A sau đó đã bị tòa án kết án về tội giết
người theo khoản 1 Điều 123 và tội cướp tài sản theo khoản 2 Điều 168 BLHS.
1.Tội giết người và tội cướp tài sản mà A thực hiện trong tình huống nêu trên thuộc
cấu thành tội phạm cơ bản hay cấu thành tội phạm tăng nặng? Tại sao?
2.Phân tích, xác định lỗi của người phạm tội trong tình huống nêu trên.
3.Giả sử A vừa chấp hành xong hình phạt 5 năm tù về tội cướp giật tài sản (chưa
được xóa án tích) lại phạm tội như tình huống nêu trên thì trường hợp phạm tội của A
được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
4.Giả sử A mới 17 tuổi thì hình phạt nặng nhất mà A có thể phải chịu đối với hai
tội trong tình huống nêu trên là bao nhiêu năm tù?

Bài làm
Câu 1:
Cấu thành tội phạm ( CTTP) cơ bản là CTTP chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu
mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như cho
phép phân biệt với trường hợp chưa phải là tội phạm.
CTTP tăng nặng là CTTP mà ngoài mức độ định tội còn có thêm dấu hiệu phản
ánh có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể ( so với
trường hợp bình thường). Những dấu hiệu này gọi là dấu hiệu định khung hình phạt
tăng nặng. Như vậy, CTTP tăng nặng là tổng hợp CTTP cơ bản với dấu hiệu định
khung hình phạt tăng nặng.
Hành vi giết người và cướp tài sản của A đều có tình tiết tăng nặng được qui định
tại điều 52 bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017
Về hành vi giết người: Trước hết, giết người được định nghĩa một cách đơn giản là
hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Từ định
nghĩa trên có thể thấy CTTP cơ bản của tội này chỉ đơn giản là hành vi cố ý tước đoạt
tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Tức là hành vi này đã mang đầy đủ

5
dấu hiệu cần và đủ, đặc trưng của tội giết người; phản ánh được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm, đồng thời cũng cho phép phân biệt nó với tội phạm khác. Chỉ cần
người phạm tội thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác thì đã đủ các
yếu tố CTTP, mà cụ thể là CTTP cơ bản. Đồng thời hành động mà A thực hiện có
tính chất hung hãn nhằm che giấu tội phạm: sau khi đã chiếm đoạt thành công tài sản
trị giá 60 triệu đồng định trốn thấy bà B còn sống liền bóp cổ bà B tới khi chết.
Về hành vi cướp tài sản: Theo khoản 1 điều 168: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 10 năm”. Đây chính là dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản. Vậy khoản
1 điều 168 là CTTP cơ bản. Hành động mà A thực hiện còn có tính chất chuyên
nghiệp khi mà A đã lợi dụng đêm tối lẻn vào nhà bà B thực hiện tội phạm.
Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Như vậy, có thể kết luận, tội giết người và tội cướp tài sản mà A thực hiện trong
tình huống nêu trên thuộc CTTP tăng nặng.

Câu 2:
Khái niệm “lỗi” : Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi có tính gây
thiệt hại cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện
dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Người thực hiện hành vi có tính chất gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan
và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Xét trong trường hợp của A, lẻn vào nhà bà B ăn trộm, bị bà B phát hiện thì lấy
gậy gỗ đập vào đầu bà, rồi tiếp tục lục lấy tiền, vàng, điện thoại. Sau định bỏ đi thì
thấy bà B vẫn còn sống thì bóp cổ bà B tới chết.
Về lí trí: A nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy
trước hậu quả thiệt hại của hành vi đó. A biết khi đập gậy vào đầu bà B bà có thể sẽ
chết vì trấn thương. Đồng thời A cũng biết nếu bóp cổ B thì B sẽ chết vì thiếu không
khí.
Vế ý chí: A mong muốn hậu quả thiệt hại xảy ra. A mong muốn cướp được tài sản
của bà B. Khi bị bà B phát hiện, để tiếp tục hành vi phạm tội của mình, A đã dùng
gậy đập vào đầu bà B. Rồi sau khi đã hoàn thành công việc cướp tài sản của mình, bà
B còn sống thay vì chạy trốn ngay lúc đó thì A lại tiếp tục bóp cổ bà B tới chết nhằm
thực hiện mong muốn che giấu hành vi phạm tội của mình.
Khoản 1 điều 10 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 ghi nhận về tình trạng
cố ý trực tiếp thực hiện tội phạm như sau:
6
1.Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Như vậy, lí trí và ý chí của A biểu lộ ra bên ngoài đều thoải mãn lỗi cố ý trực tiếp

Câu 3:
Điều 53 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tái phạm, tái phạm nguy
hiểm quy định như sau:
1.Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại thực
hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2.Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
 b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Với tình trạng của A, A vừa chấp hành xong hình phạt 5 năm tù về tội cướp giật tài
sản (chưa được xóa án tích) lại phạm tội như tình huống nêu trên. Ta có thể thấy các
đặc điểm sau:
Thứ nhất: A đã bị kết án, chưa được xóa án tích về tội cướp tài sản.
Thứ hai: A đã thực hiện hiện hành vi cố ý giết người và cướp tài sản theo những
phân tích ở câu 2.
Thứ ba: Khung hình phạt của tội phạm mà A đã mắc phải trước đó là 5 năm nên
tội phạm mà A đã mắc phải trước đó là tội phạm nghiêm trọng ( theo qui định tại
điều 9 BLHS: tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này qui định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù )
Thứ tư: A chưa từng tái phạm.
Từ bốn điều trên ta có thể thấy rằng nếu A vừa chấp hành xong hình phạt 5 năm tù
về tội cướp giật tài sản (chưa được xóa án tích) lại phạm tội giết người cướp tài sản
như đầu bài thì trường hợp phạm tội của A sẽ là tái phạm.

Câu 4:
Đầu tiên, A đã bị tòa án kết án về tội giết người theo khoản 1 Điều 123 và tội cướp
tài sản theo khoản 2 Điều 168 BLHS. Hình phạt nặng nhất của A theo khoản 1 điều
123 về tội giết người là tử hình, còn theo khoản 2 điều 168 về tội cướp tài sản là phạt
tù 15 năm tù. Điểm d khoản 1 điều 55 BLHS về quyết định hình phạm trong trường
hợp phạm nhiều tội qui định : nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã
tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình. Vậy nên mức án nặng nhất là tử hình.

7
Tuy nhiên, A mới 17 tuổi. Vậy nên tòa án không xử phạt tử hình với A theo qui
định tại khoản 5 điều 91 về những nguyên tắc xử lí đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội : không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Khoản 2, Điều 6, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt
Nam là quốc gia thành viên, quy định: "Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa
được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng
nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không
được trái với những quy định của Công ước này và của Công ước về ngăn ngừa và
trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có
hiệu lực pháp luật, do một tòa án có thẩm quyền phán quyết".
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Khoản 5 Điều 6 Công ước này cũng quy
định: "Không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không
được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai".
Ví dụ: Như Vụ án của L.V.L là một vụ án giết người cướp của xảy ra tại tiệm
vàng Ngọc Bích (Phương Sơn, Lục Nam) ngày 24 tháng 8 năm 2011. Trong vụ án
này, sát thủ L.V.L đã giết chết cả vợ chồng chủ tiệm vàng cùng con 18 tháng tuổi.
Con gái lớn của họ 8 tuổi bị chém đứt tay. Đây là vụ án rất nghiêm trọng gây xôn xao
trong dư luận và ảnh hưởng đến trật tự an ninh tại địa phương cũng như những ý kiến
về cần sửa đổi luật phòng chống tội phạm. L.V.L khét tiếng vì phạm tội khi chưa đến
18 tuổi. Do vậy khi bị kết án L.V.L chỉ bị mức án nặng nhất là 18 năm tù theo luật
pháp của Việt Nam tại thời điểm đó.
Vậy A phạm tội mà qui định hình phạt của A là tử hình thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng đối với A là không quá 18 năm tù theo qui định tại khoản 1 điều 101
BLHS.
Khoản 1 điều 101 về “tù có thời hạn”
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được qui
định như sau:
1.Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
Như vậy, mức hình phạt cao nhất mà A có thể phải chịu đối với hai tội trong tình
huống trên là 18 năm tù.

8
ĐỀ BÀI SỐ 02
Để có tiền chơi game, A, B, C (đều 15 tuổi) bàn nhau mang dao, gậy gỗ đi cướp tài
sản. Vào buổi tối, thấy đôi tình nhân ngồi tâm sự trên đoạn đường vắng, A dùng dao
đe dọa và yêu cầu người thanh niên đưa ví tiền. Người thanh niên phản ứng, thì bị B
vung gậy đánh mạnh vào đầu (gây thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể cho nạn nhân
15%). Dù bị đánh nhưng người thanh niên vẫn chống trả quyết liệt. Cùng lúc đó có
chiếc ô tô chiếu đèn sáng đi đến, chưa lấy được tài sản nhưng cả ba tên phải bỏ chạy.
Ba tên A, B, C sau đó bị bắt và bị xét xử theo khoản 2 Điều 168 BLHS.
Câu hỏi:
1. Tội cướp tài sản mà A, B, C thực hiện trong tình huống nêu trên thuộc loại tội
nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS. (1,5 điểm)
2. Phân tích, xác định dấu hiệu thuộc mặt khách quan và giai đoạn thực hiện tội
phạm trong tình huống nêu trên. (2 điểm)
3. Hình phạt nặng nhất mà A, B, C có thể phải chịu trong tình huống nêu trên. (1,5
điểm)
4. Giả sử khi thực hiện hành vi nêu trên B mới 13 tuổi thì B có phải chịu trách
nhiệm hình sự cùng với A, C không? Tại sao? (2 điểm)

BÀI LÀM

Câu 1: Tội cướp tài sản mà A, B, C thực hiện trong tình huống nêu trên thuộc
loại tội nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS.
Căn cứ vào phân loại tội phạm tại Điều 9 và kết luận của bản án theo Khoản 2
Điều 168 BLHS, tội cướp tài sản mà A, B, C thực hiện trong tình huống nêu trên
thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Căn cứ vào:
- Thứ nhất, dựa vào tình tiết A, B và C bàn nhau mang dao, gậy gỗ đi cướp tài
sản có thể thấy A, B và C thực hiện hành vi phạm tội có tổ chức, có sự chuẩn bị về kế
hoạch phạm tội và chuẩn bị vũ khí để thực hiện hành vi. Theo đó, chiếu theo điểm d
khoản 2 Điều 168 BLHS:“Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm
khác” để xác định khung hình phạt của 3 đối tượng.
- Thứ hai, nạn nhân bị thương tích, tỉ lệ tổn thương cơ thể là 15%. Căn cứ vào
đó, chiếu theo điểm c khoản 2 Điều 168 “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%”.
- Thứ ba, cả A, B và C đều thực hiện hành vi phạm tội khi 15 tuổi:
+ Cả 3 đối tượng đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với tội cướp tài
sản theo khoản 2 Điều 12 BLHS “ Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16

9
tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản;...”
+ Theo khoản 2 Điều 101 “ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm
tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều
luật quy định”, căn cứ vào đó ta nhận thấy, mức hình phạt cao nhất mà A, B và C
phải chịu là 7 năm 6 tháng tù. Mặt khác, trong mức hình phạt cao nhất trong khung
hình phạt đối với tội phạm nghiêm trọng là từ 03 năm đến 07 năm tù.
Từ 3 lập luận trên, A, B và C phải chịu mức hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù
(khoản 2 Điều 168 BLHS). Đồng thời, căn cứ theo khoản 3 Điều 9 BLHS “Tội phạm
rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớnmà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
07 năm đến 15 năm tù”, ta có thể xác định tội cướp tài sản mà A, B, C thực hiện
trong tình huống nêu trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.

Câu 2: Phân tích và xác định những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội
phạm và giai đoạn thực hiện tội phạm trong tình huống trên.
1. Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm, diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Đó là những hành vi khách quan nguy
hiểm cho xã hội, để lại hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả và các hành vi bên ngoài khác của người phạm tội (phương pháp,
thủ đoạn phạm tội, công cụ phương tiện phạm tội, hoàn cảnh thực hiện tội phạm,..)
1.1 . Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội:
Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội là biểu hiện của con người ra bên ngoài
thế giới khách quan dưới hình thức cụ thể nhằm đạt được mục đích như mong muốn.
Đặc điểm hành vi khách quan của tội phạm:
- Mang tính nguy hiểm cho xã hội.
- Là hoạt động mang ý thức và ý chí của người phạm tội (ý thức kiểm soát và ý
chí điều khiển).
- Trái với Bộ luật hình sự Việt Nam.
Như vây đặt trong tình huống này, hành vi của A,B,C:
- Mang tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ: Cả 3 đã bàn nhau sử dụng vũ
khí (mang dao, gậy gỗ) đi cướp tài sản để có tiền chơi game, A đã dùng dao đe dọa và
yêu cầu người thanh niên đưa ví tiền, B thì dung gậy đánh vào đầu gây thương tích
cho nạn nhân 15%. Điều này vi phạm nghiêm trọng quyền được bảo vệ về tính mạng,
sức khỏe, tài sản của công dân.

10
- Là hoạt động mang ý thức và ý chí của người phạm tội : A,B,C hoàn toàn nhận
thức được và điều khiển được hành vi của mình. Điều này được thể hiện rõ trong tình
huống , đó là 3 người đã có sự bàn bạc để cùng nhau thực hiện hành vi cướp tài sản.
- Trái với Bộ luật hình sự Việt Nam: Hành vi của A,B,C phạm vào tội danh cướp
tài sản theo Điều 168 Bộ Luật Hình Sự vì hành vi dùng dao đe dọa nhằm chiếm đoạt
tài sản, và gây ra thương tích cho nạn nhân 15% ( điểm c, khoản 2 Điều 168 BLHS).
1.2.Hậu quả gây thiệt hại:
Hậu quả gây thiệt hại là các thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ
xã hội là khách thể được Pháp luật hình sự bảo vệ và cũng là khách thể của tội phạm.
Thiệt hại gây ra cho khách thể của tội phạm được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng
bất thường của đối tượng tác động của tội phạm.Các thiệt hại bao gồm thể chất, tinh
thần, vật chất và biến đổi khác.
Trong tình huống này: A,B,C đã gây ra thiệt hại về thể chất, tinh thần cho người
bị hại.
- Về tinh thần: sự uy hiếp về tính mạng, sức khỏe - dùng dao để uy hiếp nạn
nhân.
- Về vật chất: dùng gậy gỗ đánh vào đầu nạn nhân gây thương tích tổn hại 15%.
Mặc dù chưa thực hiện được mục đích là cướp tiền, nhưng hành vi của A,B,C đã
gây hậu quả nghiêm trọng đe dọa quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, tinh
thần và quyền được bảo vệ về tài sản của nạn nhân, thách thức pháp luật hình sự Việt
Nam.
1.3.Mối liên hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:
- Trong yếu tố khách quan của tội phạm, hậu quả thiệt hại là do hành vi khách
quan gây ra. Điều đó có nghĩa giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại có quan
hệ nhân quả với nhau.
Đặt vào tình huống:
Hành vi Hậu quả
A, B, C đã bàn bạc cùng nhau A, B và C đã thực hiện hành vi
cướp tài sản để có tiền chơi game cướp tài sản như đã bàn bạc tại
đường vắng vào buổi tối
A đã dùng dao đe dọa nạn Nạn nhân phản ứng
nhân và yêu cầu đưa ví
B đã dùng gậy đánh mạnh vào Nạn nhân chịu thương tích tổn
đầu nạn nhân hại cơ thể 15%
Như vậy, nếu A, B và C không thực hiện hành vi cướp tài sản trên thì đã không gây
ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng cho nạn nhân như vậy. Do đó, hành vi và hậu quả
luôn có mối quan hệ nhân quả với nhau, có hành vi thì mới có hậu quả.
- Tuy nhiên, trong quan hệ nhân quả, hành vi khách quan (được coi là nguyên
nhân) tuy giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh hậu quả thiệt hại (được coi là kết
11
quả) nhưng hậu quả đó có xảy ra hay không và xảy ra như thế nào còn phụ thuộc vào
yếu tố điều kiện. Hành vi khách quan là nguyên nhân mới chỉ có khả năng thực tế gây
ra hậu quả chưa xác định hoàn toàn. Nó chỉ gây ra những hậu uqar xác định trong
điều kiện xác định. Tính chất, mức độ, phạm vi của hậu quả sẽ đổi tùy theo điều kiện
cụ thể đã ảnh hưởng đến khả năng phát sinh hậu quả của hành vi khách quan được coi
là nguyên nhân.
Đặt vào tình huống:
Hành vi Hậu quả
A, B, C đã bàn bạc cùng HQ1: A, B và C đã thực hiện hành vi
nhau cướp tài sản để có cướp tài sản như đã bàn bạc tại đường
tiền chơi game vắng vào buổi tối
HQ2: A, B và C đã thực hiện hành vi
cướp tài sản như đã bàn bạc do trên đoạn
đường đó có nhiều công nhân làm tại
một công trình đang thi công...
A đã dùng dao đe dọa HQ1: Nạn nhân phản ứng
nạn nhân và yêu cầu đưa HQ2: Nạn nhân không phản ứng mà
ví đưa ví cho các đối tượng...
B đã dùng gậy đánh HQ1: Nạn nhân chịu thương tích tổn
mạnh vào đầu nạn nhân hại cơ thể 15%
HQ2: Nạn nhân chịu thương tích tổn
hại cơ thể 35%...

1.4.Các điều kiện bên ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội
Các điều kiện bên ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội là công cụ,
phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, địa điểm, thời gian và hoàn cảnh phạm
tội...
Trong tình huống trên:
- Thời gian thực hiện hành vi phạm tội: là vào buổi tối (một thời gian mà tội
phạm thường hay hoạt động).
- Địa điểm: Là một đoạn đường vằng người qua lại.
- Phương pháp: dùng dao đe dọa và dùng gậy hành hung nạn nhân.
- Công cụ: dao và gậy.
2. Giai đoạn thực hiện tội phạm:
Trong tình huống hành vi phạm tội cướp tài sản của A,B,C theo Điều 168 BLHS đã
qua 2 giai đoạn thực hiện tội phạm:
2.1. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội:

12
Là giai đoạn người phạm tội tiến hành tìm kiếm công cụ phạm tội; sửa soạn công
cụ, phương tiện phạm tội hoặc chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho tội phạm quan
sát địa điểm, điều kiện liên quan xung quanh hoàn cảnh của nạn nhân.
Trong tình huống, A,B,C đã có sự bàn bạc chuẩn bị liên quan trực tiếp đến quá
trình thực hiện tội pham đó là bàn nhau mang dao, gậy gỗ đi cướp tài sản, họ chọn
đoạn đường vắng người qua lại vào buổi tối để thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.Giai đoạn phạm tội chưa đạt:
Giai đoạn mà người phạm tội có thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không thực
hiện được đến cùng do những cản trở khách quan.
A,B,C đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội đó là dùng dao đe dọa nạn nhân ,
yêu cầu nạn nhân đưa ví tiền. Do nạn nhân có phản ứng chống lại nên B đã dùng gậy
đánh mạnh vào đầu nạn nhân gây thương tích tổn hại cơ thể 15%.Tuy nhiên cả 3 đã
không thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng là cướp được tài sản là chiếc ví của
nạn nhân và phải bỏ chạy do nạn nhân vẫn còn khả năng chống trả quyết liệt sau khi
bị đe dọa và bị đánh vào đầu và cùng lúc đó có một chiếc xe ô tô chiếu đèn sáng đi
đến.
Như vậy, hành vi của A,B,C phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành do quá trình thực
hiện tội phạm bị cản trở bởi yếu tố khách quan và người phạm tội chưa thực hiện
được đến cùng hành vi phạm tội cúa mình.
Câu 3: Hình phạt nặng nhất mà A,B,C có thể phải chịu trong tình huống trên.
Theo khoản 2 Điều 168 BLHS 2015: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
…”
Trong tình huống trên khi A, B, C bàn nhau cướp tài sản tức là đã có sự chuẩn bị,
lên kế hoạch để nhằm đạt được mục đích của mình. Và đồng thời trong tình huống A
cũng đã sử dụng dao đe dọa thanh niên kia và yêu cầu thanh niên kia phải đưa ví cho
mình, B dùng gậy gỗ đập mạnh vào đầu nạn nhân khi nạn nhân phản kháng, C hỗ trợ
và cùng thực hiện hành vi phạm tội với A và B. Vì vậy căn cứ theo Khoản 2 Điều 168
thì hình phạt cao nhất A, B và C có thể phải chịu là 15 năm tù.
Tuy nhiên, do A, B và C mới 15 tuổi, nên theo Khoản 2 Điều 101 – Tù có thời hạn:
“Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.”

13
Vì vậy A, B và C chỉ phải chịu mức hình phạt cao nhất là một phần hai mức phạt
cao nhất theo Khoản 2 Điều 101 là 7 năm 6 tháng.
Câu 4: Giả sử khi thực hiện hành vi nêu trên B mới 13 tuổi thì B có phải
chịu trách nhiệm hình sự cùng với A, C không? Tại sao?
Trách nhiệm hình sự của người phạm tội được hiểu là trách nhiệm của người
phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình.
Một trong những đặc điểm quan trọng thuộc về mặt chủ thể của tội phạm dẫn đến
hình phạt khác nhau đối với cùng tội phạm đó là độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự được BLHS nước ta quy định cụ thể tại Điều 12:
“ - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng...”
Như vậy đối với tình huống đã đưa ra, khi phạm tội đã 15 tuổi, đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.
Trong tình huống giả sử B mới 13 tuổi, tức là chưa đủ 14 tuổi. Người chưa đủ 14
tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội về hành vi của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi
là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là
không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Theo đó, B không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành
vi của mình, hay nói cách khác là miễn trách nhiệm hình sự đối với B.

Đề bài số 03
A kể với bạn trai là B (30 tuổi) về mâu thuẫn với bạn cùng phòng trọ là C vì C có
lần xúc phạm nhân phẩm của B. Nhân lúc A về quê, biết C ở phòng trọ một mình, B
nảy sinh ý định gặp C để giải quyết mâu thuẫn
Khoảng 10 giờ đêm, B đến phòng trọ của C giả vờ hỏi thăm A. Khi thấy các phòng
trọ xung quanh mọi người đã ngủ hết, B bất ngờ dùng dây xiết cổ C đến khi C bất
tỉnh. Nghĩ rằng C đã chết nên B lấy điện thoại và tiền trong túi xách của C rồi bỏ đi (
số tài sản trị giá là 7 triệu đồng ). Được người xung quanh phát hiện đưa đi cấp cứu
kịp thời nên C không chết. B bị truy cứu TNHS về hai tội: tội giết người theo khoản
khoản 1 điều 123 và tội cướp tài sản theo khoản 1 điều 168 BLHS.
HỎI:
1. Hãy xác định các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong tình
huống nêu trên ?
2. Từ các dữ liệu đã cho thấy hãy xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội
của B?
3. Hình phạt nặng nhất mà B có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù ?
14
4. Nếu B vừa chấp hành xong bản án là 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản( chưa
được xóa án tích) lại có hành vi phạm tội theo tình huống trên, thì trường hợp phạm
tội củ B được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG


Thực tế do sự phát triển của xã hội nên trong xã hội tồn tại không ít các vụ việc
như vậy, thậm chí tính chất của vụ việc đó còn nghiêm trọng và phức tạp hơn rất
nhiều. Nếu như cơ quan điều tra, cơ quan xét xử không tìm hiểu kỹ lưỡng, xem xét vụ
việc một cách tỉ mỉ thì dẫn đến việc định tội sai, dẫn đến oan sai cho người vô tội,
đồng thời để kẻ xấu nhởn nhơ ở ngoài vòng phát luật. Nhận thấy điều này là rất quan
trọng nên em xin phép bằng vốn kiến thức em học được trên lớp trong thời gian vừa
qua, để bây giờ em xin được trình bày quan điểm để giải quyết cho tình huống trên,
cụ thể cách giải quyết như sau:
1.Hãy xác định các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong tình
huống nêu trên
Như ta đã biết mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan
Mặt khác quan của tội phạm bao gồm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hại
Ngoài ra còn có các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như:
Công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,.. Những tình tiết của
mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội danh cũng như định
khung hình phạt đối với tội phạm đó.
Trong tình huống trên, khi nhìn vào chúng ta có thể xác định được hành vi khách
quan cấu thành tội phạm được biểu hiện như sau:
 Hành vi khách quan:
Khi thực hiện tội phạm, B đã nắm bắt được tình hình rất rõ đó là biết A về quê,
khi đó C sẽ một mình ở trọ, nghĩa là hành vi giết người của B là có sự chủ định từ
trước nhằm để giải quyết mâu thuẫn, B biết rõ rằng bạn gái mình đã về quê, mà B vẫn
giả vờ như không biết chuyện để đến gặp C hỏi thăm về A, B có sẵn mục đích, ý
thức chiếm đoạt tính mạng của C bằng sự chuẩn bị đó là mang theo sợi dây gây án.
Trước lúc thực hiện hành vi của mình, B hoàn toàn có ý thức thể hiện ở chỗ là B có
sự đề phòng mọi người xung quanh (ngăn cản trở ngại khách quan để có thể hoàn
thành hành vi phạm tội của mình), có ý thức không để cho người bị hại C biết được
hành vi của mình sẽ làm.
Hành vi của B đã gây ra hậu quạ nghiêm trọng cho xã hội mà được pháp luật hình
sự bảo vệ, vi phạm nghiêm trọng quyền con người bởi lẽ quyền con người là một
15
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm đã được quy định hiến pháp. Qua đây ta cũng
thấy được hành vi của B là hành vi trái với pháp luật, B biết rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, B hoàn toàn có thể chọn lựa một việc làm khác để giải quyết
mâu thuẫn. Sau khi giết C, cứ nghĩ C đã chết nên B đã lấy điện thoại và tiền trong túi
đây cũng là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ sở hữu được
pháp luật hình sự bảo vệ.
  Hành vi giết người của B được thực hiện bằng các hình thức :
 Hành vi phạm tội:
+ Hành động: Thể hiện qua việc B đã cố tình thực hiện các hành vi phạm tội mà
pháp luật không cho phép tác động lên thân thể nhằm tước đoạt mạng sống của C.
 Có sử dụng hung khí gây án:
+ Sử dụng hung khí: B có sử dụng hung khí để thực hiện hành vi phạm tội, đó là
sợi dây để xiết cổ C.
 Hành vi giết người của B thể hiện dưới dạng dùng vũ lực cụ thể:
+ Hành động dùng vũ lực: B dùng sức mạnh vật chất (sợi dây) tác động lên cổ
của C. Hành động dùng vũ lực để khống chế C, dùng dây xiết cổ C
+ Hành động dùng vũ lực thực hiện gián tiếp: Bởi vì hành động dùng vũ lực của
B thông qua sợi dây (công cụ, phương tiện gây án).
 Hậu quả nguy hiểm cho xã hội:
*Đối với tội giết người: Hậu quả xảy ra khi cái chết xảy ra, nếu như cái chết
không xảy ra, nhưng ngoài ý muốn khách quan của người phạm tội thì đây được coi
là phạm tội chưa đạt, tội cố ý gây thương tích còn tùy thuộc vào mỗi trường hợp cụ
thể. Hậu quả giết người mà B gây ra là khiến C bất tỉnh, nguy hiểm đến tính mạng
của C nói riêng và là mối đe dọa cho toàn xã hội nói chung. Hậu quả mà hành vi
phạm tội của B đã gây ra hậu quả trực tiếp đó là quyền được sống, quyền được đảm
bảo tính mạng của con người mà pháp luật hình sự bảo vệ.
*Đối với tội cướp tài sản: Với tình huống trên ngoài xâm hại đến tính mạng của
con người thì hành vi phạm tội của B còn gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội đó là
quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ thể hiện dưới dạng thiệt hại về vật chất
(chiếc điện thoại trị giá 7 triệu đồng và toàn bộ số tiền trong ví của C) đã bị B lấy đi
sau khi gây án.
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:
Nguyên nhân do B đã có hành vi “bất ngờ” dùng dây xiết cổ C, làm C không kịp
phản ứng hay có một động tác nào trở tay kịp dẫn đến tình trạng C bất tỉnh (nhưng B
lại cho rằng C đã chết). Rõ ràng là B dùng dây xiết chặt cổ C nên C mới bất tỉnh, nên
hành vi của B xảy ra trước  hậu quả làm C rơi vào trạng thái bất tỉnh. Cùng với
hành vi xiết cổ C và khiến C bất tỉnh cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hậu quả là C
bị mất chiếc điện thoại trị giá 7 triệu đồng cùng toàn bộ số tiền.

16
Xét thấy mối quan hệ nhân quả giữa hành vi B và cái chết của C là một dạng quan
hệ đơn trực tiếp, bởi có hành vi giết người của B là hành vi trái pháp luật với vai trò
là nguyên nhân, B dùng dây xiết cổ C, cái chết của C rõ ràng sẽ diễn ra trên thực tế,
đối với tình huống trên thì cái chết không xảy ra là ngoài ý chí chủ quan của B. Và đó
cũng chính là nguyên nhân để B tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến
quyền sở hữu.
 Như vậy hành vi giết người của B là nguyên nhân dẫn đến hậu quả đe dọa tính
mạng của C và hậu quả tiếp theo là thiệt hại về chiếc điện thoại cùng với số tiền trong
ví trên thực tế.
 Các biểu hiện khác của mặt khách quan
+ Thời gian: 10 giờ đêm
+ Địa điểm: Ngay tại phòng trọ của C
+ Công cụ phạm tội: Sợi dây ( dùng để xiết cổ C)
+ Hoàn cảnh: Nhân lúc A(bạn gái của B) về quê, cùng lúc đó C ở phòng trọ một
mình
+ Thủ đoạn: “ Thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện hành vi phạm tội” tức
là tận dụng được khoảng thời gian A về quê, B biết rất rõ C ở một mình, “giả vờ” đến
hỏi C về A. Đến lúc nửa đêm, quan sát kỹ càng thấy mọi người xung quanh đã đi ngủ
cùng với lợi dụng sơ hở C không đề phòng đã “bất ngờ” tấn công C bằng cách dùng
dây xiết cổ C. Hành vi giết người của B là hành vi giết người có tính chất côn đồ
được quy định tại điểm n khoản 1 điều 123 BLHS 2015 là trường hợp người phạm
tội, khi giết người cố tình sử dụng tìm những nguyên cớ nhỏ nhặt nhất đó là mâu
thuẫn cá nhân để giết người.
2.Từ các dữ liệu đã cho hãy xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội
của B.
 Trong luật hình sự, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản, người phải
chịu TNHS theo luật hình sự không chỉ đơn thuần là người này có hành vi khách
quan có tính gây thiệt hại cho xã hội mà bởi vì họ có lỗi trong việc thực hiện hành vi
đó.
 Người thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan
và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với sự đòi hỏi của xã hội.
Đối với tình huống trên trước hết ta hiểu rằng hành phạm tội của B là hành vi
nhằm tước đoạt tính mạng của C mà B thực hiện đó là tội giết người. Đó là hành vi
cố ý tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Trong luật hình sự Việt
Nam chỉ quy định về tội giết người chứ không quy định tội cố ý giết người bởi vì từ
“giết” đã bao hàm cả sự cố ý, giết người đã là lỗi cố ý của người phạm tội. Vậy nên
bước đầu ta có thể xác định được tội danh mà B đã gây ra xâm phạm đến tính mạng
của C là tội giết người.
17
Dưới góc độ khoa học hình sự người ta phân chia lỗi thành hai loại, đó là lỗi cố ý
và lỗi vô ý, xét trên tình huống trên và thông qua kết quả nghiên cứu của nhà làm luật
thì xác định tội giết người của B được ngay chính bản thân B thực hiện bằng lỗi cố ý
chứ không phải lỗi vô ý. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, lỗi cố ý lại chia ra thành
hai loại lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Trong bài làm này em xác định lỗi của
B đối với hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của C là lỗi cố ý, nhưng để xem đó là lỗi
cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp, ta căn cứ vào điều 10 BLHS 2015:
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
 Áp dụng vào tình huống trên ta có thể khẳng định được rằng lỗi của B là lỗi
cố ý trực tiếp, bởi vì các lý do:
 Đối với tội giết người:
Về lí trí: B là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đạt đến độ tuổi theo
luật định cho nên việc thực hiện hành vi thì B đã thấy rõ hành vi dùng dây xiết chặt
cổ C là sẽ dẫn đến cái chết, không thể phủ định là B không nhận thức được hành vi
của mình đang làm sẽ gây thiệt hại đến tính mạng của C, pháp luật hình sự bắt buộc
những người như B phải biết và thấy trước điều gì sẽ xảy ra khi mình thực hiện hành
vi phạm tội đó. Rõ ràng B biết rất rõ hành vi của mình là hành vi gây nguy hiểm tính
mạng cho C và cho cả xã hội, nhưng B vẫn thực hiện. Song việc đó B hoàn toàn có
thể chọn lựa cách giải quyết khác mà không gây nguy hiểm đến tính mạng cho C.
Về ý chí: Nhìn vào tình huống trên ta có thể thấy rằng “ B ra sức xiết chặt cổ C
cho đến khi C bất tỉnh”, chứng tỏ B mong muốn cho cái chết của C xảy ra, trong quá
trình thực hiện hành vi của mình B không có ý định nới lỏng sợ dây để C có thể thở.
B có sự chuẩn bị rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng, có sự ngăn ngừa những trở ngại khách quan
có thể cản trở việc thực hiện hành vi phạm tội của mình như: Quan sát xem mọi
người đã ngủ hết chưa, lợi dụng lúc A về quê, xiết cổ C khi C đang trong tình trạng
không phòng ngự. Đó là cơ sở để phân biệt giữa lỗi cố ý trực tiếp với lỗi cố ý gián
tiếp, mong muốn hậu quả xảy ra thể hiện ở sự quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội
của mình đến cùng. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội xong B có hành vi bỏ mặc
cho C nằm đấy, tức là đã mong muốn cái chết xảy ra đối với C, sau đó B lại thực hiện
tiếp hành vi cướp đoạt tài sản của C
 Đối với hành vi cướp tài sản:
Về lí trí: B là người đủ năng lực trách nhiệm hành sự, và đã đạt đến độ tuổi do
pháp luật quy định, rõ ràng B hoàn toàn nhân thực được hành vi lấy điện thoại và tiền
18
của C là hành vi trái pháp luật, B nhận thức được tài sản mình lấy được này là tài sản
bất hợp pháp, mình sẽ chịu phạt nếu như phát hiện số tài sản đó không phải thuộc
quyền sở hữu của mình.
Về ý chí: B mong muốn chiếm đoạt tài sản của C, kho C bất tỉnh nghĩ rằng C đã
chết nên B lấy tiền, điện thoại của C rồi bỏ mặc C, bỏ đi.
 Từ những căn cứ nêu trên, theo quan điểm của chính bản thân em thì hình
thức lỗi của B đối với hành vi gây thiệt hại nhằm tước đoạt tính mạng của C là lỗi
cố ý trực tiếp.
3.Hình phạt nặng nhất mà B phải chịu là bao nhiêu năm tù?
Trả lời:
Để xác định được mức án cao nhất mà B phải chịu bao nhiêu năm tù, trước tiên
ta cùng đi tìm hiểu hình phạt mà tòa đã tuyên đối với B. trong bộ luật hình sự việt
nam quy định, hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt
trong phạm vi luật quy định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS, ta có thể hiểu
một cách đơn giản rằng hình phạt được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng cách hiểu nào thì
nội dung cơ bản vẫn là quy định hình phạt chính.
Để quyết định hình phạt đối với một người có hành vi phạm tội, chúng ta căn cứ
vào điều 50 BLHS 2015 đã quy đĩnh rõ, theo nguyên tác thì một người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội và được BLHS quy định là tội phạm thì phải chịu hình
phạt, khi căn cứ quyết định hình phạt cần căn cứ vào các quy định của BLHS, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội.
*Các quy định của BLHS:
Khi quyết định hình phạt, tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa
chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. đối với
tình huống trên hành vi của B là hành vi phạm tội, đã được BLHS quy định tại khoản
1 điều 2 BLHS, như vậy rõ ràng B phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình.
*Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi:
Các khung hình phạt được xây dựng chủ yếu dựa trên tính hcất nguy hiểm cho xã
hội của từng tội phạm, cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
sẽ đảm bảo được tính thống nhất, công bằng trong xét xử trong trường hợp phạm tội
khác nhau của từng tội phạm.
Tính chất của hành vi phạm tội: B dùng thủ đoạn với tình chất côn đồ, sử dụng
một sợi dây chắc chắn ra sức xiết chặt cổ C, một cách bất ngờ khiến C không thể
phản kháng lại được ngay tức khắc.
Tính chất và mức độ hậu quả gây ra: với hành vi của B đã đe dọa đến tính mạng
của C, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của C cũng như quyền sở hữu của C.
*Nhân thân người phạm tội:
Không chỉ căn cứ vào những quy định của BLHS cũng như tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà còn phải phù hợp với những đặc điểm về nhân
19
thân người phạm tội để đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được đến mục đích cần trừng
trị.
Thứ nhất, trong trường hợp trên ta có thể thấy nếu như B là lần đầu phạm tội,
nhưng hành vi phạm tội lần này của B là hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng vì
hành vi của B đe đọa đến danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe tài sản của người
khác mặc dù trong trường hợp B chưa có tiền án tiền sự nào đi nữa. thì B vẫn phải
chịu TNHS
Thứ hai, như tình huống đã nêu rõ, B lúc này đã 30 tuổi, căn cứ theo khoản 1 điều
12 về xác định tuổi chịu TNHS thì B lúc này hoàn toàn phải chịu TNHS bởi đã đạt độ
tuổi quy định trong luật.
Thứ ba, B có đầy đủ khả năng nhân thức và khả năng điều khiển hành vi của mình,
bởi trong tình huống không có nêu rõ là B có tiền sử bị bệnh thần kinh, hay B đang bị
tòa án tuyên là mất khả năng nhận thức hoặc là khả năng điều khiển hành vi nên mặc
nhiên B có đầy đủ khả năng nhận thức lẫn khả năng điều khiển hành vi vậy nên B
phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình.
 Đối với tội giết người:
Khi quyết định hình phạt, tòa căn cứ vào các điều kiện trên thì tòa còn căn cứ
hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết được các dấu hiệu được mô tả trong CTTP hay
chưa, với tình huống trên hành vi của B đều thỏa mãn dấu hiệu khách quan của tội
giết người theo điều 123, nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra do C được mọi
người phát hiện kịp thời và mang đi cấp cứu. Như vậy khi quyết định hình phạt, theo
điều 57 BLHS về hành vi phạm tội chưa đạt, ta đã biết phạm tội chưa đạt vẫn bị truy
cứu TNHS bởi vì B đã thực hiện hết hành vi phạm tội của mình, B cố ý và mong
muốn tước đoạt đi mạng sống của C đến cùng, đã thực hiện hết hành vi cho là cần
thiết để cái chết có thể xảy đến với C (thực tế B nghĩ C đã chết), những vì nguyên
nhân khách quan C đã không chết, hành vi của B có thêm tình tiết tăng nặng được
quy định tại điểm e khoản 1 điều 52 BLHS đó là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.
Sau khi thực hiện hành vi giết C, B lấy chiếc điện thoại cùng toàn bộ số tiền trong ví
trị giá là 7 triệu đồng.
Hành vi dùng dây xiết cổ nạn nhân cho đến khi bất tỉnh được xem là hành vi đặc
biệt nghiêm trọng, thể hiện tính chất côn đồ. Việc nạn nhân không chết là do ngoài ý
muốn chủ quan của người phạm tội, việc nạn nhân được mọi người phát hiện kịp thời
và đưa đi cấp cứu kịp thời cho nên hậu quả cái chết không xảy ra, nên B vẫn bị truy
cứu TNHS theo khoản 1 điều 123.
Phạm tội chưa đạt trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là: hành vi phạm tội đã
gây ra hậu quả rất xấu cho nạn nhân, thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng; nhân thân của
người phạm tội rất xấu; chưa được xóa án tích lại phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Việc đánh giá trường hợp phạm tội đó có nghiêm trọng hay không thì cần căn cứ vào

20
tính tiết vụ án, tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thể
hiện ý định phạm tội,.
Trong trường hợp của B, xét thấy B có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hơn
nữa soi vào tại điểm n khoản 1 điều 123 hành vi phạm tội của B có tính chất côn đồ
nên có thể chịu mức hình phạt đến 20 năm tù, nhưng do C chưa chết nên B phạm tội
thuộc loại chưa đạt đã hoàn thành, do đó hình phạt cao nhất đối với tội giết người của
B sẽ là không quá ¾ mức hình phạt được quy định cho tội giết người theo khoản 1
điều 123, có nghĩa là không qúa 15 năm.
 Đối với tội cướp tài sản:
Ngoài ra sau khi thực hiện hành vi giết người của B xong, thì B lại thực hiện hành
vi cướp tài sản mặc dù chủ định ban đầu của B không phải giết C để lấy tài sản,
những B vẫn bị truy cứu TNHS theo khoản 1 điều 168 của BLHS 2015 “người nào
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người
bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì
bị phạt từ từ 3-10 năm”
Theo khoản 1 điều 168, người phạm tội chỉ cần thực hiện các hành vi mô tả trong
cấu thành tội phạm: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc các hành vi khác,..) thì đã
coi tội phạm hoàn thành mà chưa cần biết hậu quả đã xảy ra hay chưa bởi theo khoản
1 điều 168 là CTTP hình thức, mà CTTP hình thức chỉ có dấu hiệu là hành vi khách
quan. Như tình huống trên, B đã có hành vi dùng vũ lực, khiến C rơi vào tình trạng
không thể chống cự được, hành vi phạm tội của B đã thỏa mãn dấu hiệ mô tả trong
CTTP của tội cướp tài sản – Do vậy B sẽ phải chịu 10 năm tù về tội cướp tài sản
Với tình huống trên, B thuộc trường hợp phạm nhiều tội, khi xét xử 01 lần đối với
một người phạm nhiều tội thì tòa căn cứ theo điểm a khoản 1 điều 55, tòa tuyên B
đều phải chịu TNHS về hai tội đều là tù có thời hạn, nên theo nguyên tắc cộng toàn
bộ của BLHS thì hình phạt chung mà B phải chịu là 25 năm tù.
 Kết luận: Hình phạt nặng nhất mà B có thể chịu là 25 năm.
4.Nếu B vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chưa
được xóa án tích) lại có hành vi phạm tội theo tình huống trên, thì trường hợp
của phạm tội của B được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Trả lời:
Nếu B mới chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản điều 173, thì
nay B lại có hành vi giết người theo điều 123 và tội cướp tài sản điều 168, thì trường
hợp của phạm tội của B trong các giả thiết khác nhau có thể là tái phạm và cũng có
thể là tái phạm nguy hiểm
Giải thích:
Căn cứ khoản 1 điều 53 BLHS “tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được
xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm
tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiệm do vô ý”
21
Tội đã bị kết án là một tội phạm bất kỳ được quy định trong BLHS, không nhất
thiết phải là tội cùng loại, cùng tính chất với tội danh đang xét xử không phân biệt là
tội đó nó ít nghiêm trọng, hay tội đó thực hiện một cách cố ý hay vô ý. Tội phạm mà
người phạm tội trước đó đã bị kết án, không phân biệt họ bị áp dụng hình phạt gì,
ngay cả khi họ được miễn hình phạt nhưng suy cho cùng thì họ cũng đã bị kết án về
một tội nào đó nhưng chỉ là họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ đáng khoan hồng đặc biệt,
nhưng chưa đến mức là được miễn TNHS.
Theo khoản 1 điều 69 BLHS 2015 xóa án tích là những người được xóa án tích
theo quy định các điều từ điều 70 đến điều 73 , người được xóa án tích coi như chưa
bị kết án.
Tội mới mà người phạm tội thực hiện là tội cố ý, không phân biệt tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Căn cứ tại khoản 2 điều 53, những trường hợp sau gọi là những trường hợp tái
phạm nguy hiểm:
a. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý
b. Đã tái phạm, chưa được xóa tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Do B mới chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản mà bây giờ B lại
phạm tội giết người theo khoản 1 điều 123 và tội cướp tài sản theo khoản 1 điều 168
nên B không thỏa mãn điều kiện về xóa an tích, do vậy B chưa được xóa án tích. Như
tình huống đã nêu rõ, rằng B vừa kết án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản được quy
định tại điều 173 BLHS, với mức án 7 năm tù này là quy định hình phạt do tòa đã căn
cứ vào mục 5 chương XII về quyết định hình phạt, kết hợp với điều 173 BLHS thì B
có thể phạm tội trộm cắp tài sản trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: B trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 173
Theo khoản 1 điều 173, mức án cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù, căn cứ
vào điểm b khoản 1 điều 9 thì đây là tội phạm nghiêm trọng tức là B đã bị kết án.
Mặt khác B lại tiếp tục phạm tội giết người và bị truy cứu TNHS theo khoản 1 điều
123 và tội cướp tài sản theo khoản 1 điều 168 là hai tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý
nên theo khoản 1 điều 53 thì B thuộc loại tái phạm.
Trường hợp 2: B phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 điều 173.
Theo khoản 2 điều 173, mức án cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù, căn cứ
vào điểm c khoản 1 điều 9 thì đây là tội rất nghiêm trọng. Hơn nữa bây giờ B lại bị
truy cứu TNHS theo khoản 1 điều 123 về tội giết người và khoản 1 điều 168 tội cướp
tài sản đây là hai tội đặc biệt nghiêm trọng thực hiện do cố ý nên theo khoản 2 điều
53 BLHS thì xác định B thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp 3: B phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 4 điều 173
22
Theo khoản 4 điều 173, mức án cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, căn cứ
tại điểm d khoản 1 điều 9 thì cho thấy đây là tội đặc biệt nghiêm trọng. Mặt khác B
lại tiếp tục bị truy cứu TNHS về hai tội giết người theo khoản 1 điều 123 và tội cướp
tài sản theo khoản 1 điều 168 đây là hai tội đặc biệt nghiêm trọng được B thực hiện
một cách cố ý nên theo điểm a khoản 2 điều 53 thì xác định được trong trường hợp
này B thuộc tái phạm nguy hiểm.
 Như vậy với trường hợp với B vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội trộm
cắp tài sản theo điều 173 mà bây giờ B lại phải chịu TNHS về hai tội giết người và
tội cướp tài sản mà hai tội này đều xếp vào loại tội đặc biệt nghiêm trọng, nên B sẽ
thuộc trường hợp thứ 2 nếu ở trên thì B sẽ thuộc loại tái phạm.

ĐỀ BÀI: số 04
A,B (cùng 17 tuổi) bàn nhau vào nhà C lấy tài sản. A đứng ngoài canh gác cho
B dùng kìm động lực phá khóa và vào nhà C lấy tài sản. Khi B dắt chiếc xe máy của
C ra khỏi cổng (chiếc xe trị giá 30 triệu đồng), thì bị T (hàng xóm nhà C) bắt giữ. B
lấy dao mang theo trong người đâm một nhát vào ngực T rồi bỏ chạy. Anh T sau đó
đã tử vong. Hành vi của B cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173
BLHS và tội giết người theo khoản 2 Điều 123 BLHS.
Câu hỏi:
1. Trên cơ sở phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS hãy phân loại tội
phạm đối với tội trộm cắp tài sản và tội giết người mà B đã thực hiện trong tình
huống nêu trên. (1,5 điểm)
2. Với hành vi phạm tội nêu trên thì mức phạt tù cao nhất mà tòa án có thể áp
dụng đối với B là bao nhiêu năm tù? (2 điểm)
3. Giả sử B mới 15 tuổi thì B có phải chịu TNHS về tội giết người và tội trộm cắp
tài sản trong tình huống nêu trên không? Tại sao? (2 điểm)
4. A có bị coi là đồng phạm với B về tội giết người trong tình huống nêu trên
không? Tại sao? (1,5 điểm)
BÀI LÀM
Câu 1:
Tội trộm cắp tài sản mà B thực hiện trong tình huống trên được quy định tại
khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể: “Điều 173. Tội
trộm cắp tài sản... 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Trộm cắp tài sản trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;g) Tái phạm nguy hiểm”.

23
Căn cứ theo khoản 2 Điều 173 BLHS đối với hành vi trộm cắp tài sản của B trong
tình huống trên thì mức phạt tù cao nhất mà B phải chịu là 07 năm tù. Đây chính là
loại tội phạm nghiêm trọng theo phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS:
“Điều 9. Phân loại tội phạm: 1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành
bốn loại sau đây: … b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;...”
Tội giết người mà B đã thực hiện trong tình huống trên được quy định tại
khoản 2 Điều 123 BLHS, cụ thể: “Điều 123. Tội giết người: 1. Người nào giết người
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02 người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c)
Giết phụ nữ mà biết là có thai; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do
công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô
giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc
che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội
phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có
khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính
chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm
tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm”.
Trong tình huống trên hành vi giết người mà B thực hiện được xét xử theo khoản 2
Điều 123 BLHS với mức tù cao nhất của khung hình phạt này là 15 năm tù. Căn cứ
vào khoản 1 Điều 9 về phân loại tội phạm thì loại tội phạm mà B phạm phải đối với
hành vi giết người trong tình huống này là tội phạm rất nghiêm trọng. “Điều 9. Phân
loại tội phạm: 1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau
đây: … c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội phạm ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;”.
Câu 2:
Khoản 1 Điều 50 BLHS quy định căn cứ quyết định hình phạt như sau: “Khi
quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”.
Theo quy định này, căn cứ quyết định hình phạt đối với B bao gồm:
 Các quy định của BLHS;
 Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của B;
24
 Nhân nhân người phạm tội- chính là B;
 Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS đối với B;
Đi rõ vào hành vi phạm tội cùng 4 căn cứ quyết định hình phạt trên để xác định
mức phạt tù cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với B như sau:
 Đầu tiên, đối với hành vi trộm cắp tài sản của B:
 Hành vi trộm cắp tài sản của B được quy định rõ trong BLHS.
 Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của B trong hành vi trộm cắp tài
sản là ở mức độ nghiêm trọng: B đã sử dụng công cụ phạm tội ở đây là kìm động lực
để phá khóa vào nhà C lấy tàn sản.
 Tính rất gây ra thiệt hại về vật chất ở đây ở mức độ nguy hiểm: B phá khóa làm
hư hỏng tài sản (chiếc khóa cửa) của nhà C và ngoài ra còn trộm cắp cả xe máy của
B.
 Lỗi phạm tội trong hành vi của B là lỗi cố ý trực tiếp. Mặc dù biết chiếc xe
máy không thuộc quyền sở hữu của mình nhưng B vẫn cố tình thực hiện hành vi lén
lút trộm cắp để chiếm đoạt xe máy (trị giá 30.000.000 đồng) khi bị T phát hiện B còn
thể hiện sự quyết tâm phạm tội của mình bằng cách mang theo con dao trong người
và dùng con dao mang theo người đâm vào ngực anh T khi bị phát hiện (đây là hành
vi hành hung để tẩu thoát được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS).
 Về nhân nhân của B: lúc phạm tội B đang 17 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự.
 Hành vi trộm cắp tài sản của B không thuộc các tình tiết giảm nhẹ TNHS tại
điều 51 BLHS và có thuộc tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 52 BLHS: phạm tội có
tổ chức, phạm tội có tính chất côn đồ, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.
Như vậy, hành vi trộm cắp tài sản của B bị xử lý theo khoản 2 Điều 173 BLHS,
chiếc xe máy mà B trộm trị giá 30.000.000 đồng và B không có các tình tiết giảm nhẹ
TNHS mà lại có thêm tình tiết tăng nặng, theo khoản 2 Điều 173 mức phạt tù cao
nhất là 07 năm tù. Tuy nhiên, B chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ theo khoản 1 Điều 101
BLHS, cụ thể:
Điều 101. Tù có thời hạn
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy
định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
Kết luận, mức phạt tù cao nhất đối với tội trộm cắp tài sản của B mà Tòa án có thể
áp dụng đối với B là ¾*7 năm=5 năm 03 tháng tù.
 Thứ hai, đối với hành vi giết người của B:

25
 Hành vi giết người của B được quy định rõ trong BLHS.
 Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của B trong hành vi giết người là ở
mức độ rất nghiêm trọng: B đã sử dụng dao mang theo người đâm một nhát vào ngực
T khi bị phát hiện trộm cắp xe máy của C. Hậu quả là khiến T bị tử vong.
 Lỗi trong hành vi giết người của B là lỗi cố ý trực tiếp (theo khoản khoản 1
Điều 10 BLHS: Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người
phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;). Mặc dù B biết rõ hành vi của mình là
nguy hiểm, xâm hại đến quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe) của T nhưng vẫn cố
tình dùng dao đâm vào ngực T.
 Về nhân nhân của B: lúc phạm tội B đang 17 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự.
 Hành vi giết người của B không thuộc các tình tiêt giảm nhẹ TNHS và tăng
nặng TNHS quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS.
Như vậy, hành vi giết người của B bị xử lí theo khoản 2 Điều 123 BLHS với mức
phạt tù cao nhất của tội giết người trong trường hợp này là 15 năm tù: cụ thể là tội
giết anh T (hàng xóm nhà C) của B. Tuy nhiên, B chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ theo
khoản 1 Điều 101 BLHS, cụ thể:
Điều 101. Tù có thời hạn
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy
định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

Kết luận, mức phạt tù cao nhất đối với tội giết người của B vmà Tòa án có thể áp
dụng là: ¾*15= 11 năm 03 tháng tù
KẾT LUẬN CUỐI CÙNG, hành vi phạm tội trộm cắp tài sản và tội giết người
nêu trên thì mức phạt tù cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với B là:
5 năm 03 tháng tù + 11 năm 03 tháng tù = 16 năm 06 tháng tù.
Câu 3:
Để xét xem B có phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản và tội giết người trong
B mới 15 tuổi hay không thì phải căn cứ vào khoản 2 Điều 12 BLHS, cụ thể: Điều
12. Tuổi chịu TNHS...2. Người nào từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

26
Tội trộm cắp tài sản của B thuộc khoản 2 Điều 173 BLHS và thuộc loại tội
phạm nghiêm trọng. Như vậy, hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của B khi mới 15
tuổi không thuộc khoản 2 Điều 12 BLHS nên B không phải chịu TNHS về tội trộm
cắp tài sản.
Đối với tội giết người theo khoản 2 Điều 123 thuộc loại tội phạm rất nghiêm
trọng. Với hành vi giết người này mặc dù B mới 15 tuổi nhưng căn cưa theo khoản 2
Điều 12 thì B vẫn phải chịu TNHS về tội giết người.
Câu 4:
Khái niệm đồng phạm được quy định trong khoản 1 Điều 17 BLHS như sau:
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Đồng phạm đòi hỏi có những dấu hiệu về mặt khách quan và dấu hiệu về mặt
chủ quan, để biết A có phải là đồng phạm với B về tội giết người trong tình huống
trên hay không ta sẽ phân tích từng dấu hiệu:
Thứ nhất, những dấu hiệu về mặt khách quan:
 Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có 2 dấu hiệu:
 Dấu hiệu thứ nhất: Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất 2 người và 2 người này
phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực TNHS: ở
đây cả A,B đều có đủ năng lực TNHS.
 Dấu hiệu thứ 2: Cùng thực hiện tội phạm có ý nghĩa, người đồng phạm phải
tham gia vào tội phạm với một trong những 4 hành vi sau: hành vi thực hiện tội
phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội
phạm, hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Ở dấu hiệu này, ta thây A
không có 1 trong 4 hành vi trên, A chỉ là người giúp sức cho B đối với tội trộm cắp
tài sản (đứng ngoài canh gác để B phá khóa vào nhà C lấy tài sản) chứ trong tình
huống trên không hề nhắc đến hành vi nào của A trong khi B rút dao đâm vào ngực T
rồi bỏ chạy. Như vậy, đối với dấu hiệu này A không thỏa mãn.
Thứ hai, những dấu hiệu về mặt chủ quan:
 Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm
đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu
hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích
phạm tội đó.
 Dấu hiệu lỗi:
 Về lí trí, mỗi người đều biết hành vi của mình có tính gây thiệt hại cho xã hội
và đều biết người khác cũng có hành vi như vậy cùng với mình. Ở đây, trong hành vi
phạm tội giết người, khi B rút con dao từ trong người B ra để đâm T đấy là điều mà A
không biết trước được bởi A,B chỉ bàn nhau về việc vào nhà C trộm cắp tài sản chứ
không có kế hoạch trước về việc giết người. A không biết được hành vi giết người
của B sẽ xảy ra và không thấy trước được hậu quả nên về lí trí trong dấu hiệu lỗi A
cũng không thỏa mãn.
27
 Về ý chí, những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc cùng ý thức để mặc hậu quả thiệt hại xảy ra. Trong tình huống
trên, A hông mong muốn có hoạt động chung giết người cùng với B nên về ý chí
trong dấu hiệu lỗi A không thỏa mãn.
 Dấu hiệu mục đích phạm tội: ban đầu A,B có cùng mục đích là trộm cắp tài sản
chứ không có mục đích giết người tuy nhiên sau khi bị T phát hiện và bắt giữ B liền
rút dao đâm 1 nhát vào ngực T rồi bỏ chạy, ở đây đối với tội giết người A không có
mục đích là giết người cùng với B. Cho nên về dấu hiệu mục đích phạm tội A cũng
không thỏa mãn.
Bài tập số 5
A là cán bộ hải quan làm việc tại cửa khẩu. Kiểm tra lô hàng nhập khẩu của ông B,
A phát hiện số lượng hàng vượt quá rất nhiều so với hóa đơn (số hàng vượt quá trị giá
800 triệu đồng). Ông B liền gọi A ra chỗ vắng, đưa cho A chiếc phong bì bên trong
có 300 triệu đồng và đề nghị A bỏ qua cho số hàng vượt quá của mình. A nhận tiền
và đồng ý cho B mang hàng qua cửa khẩu. Hành vi của B sau đó bị xét xử về tội buôn
lậu theo khoản 3 Điều 188 và tội đưa hối lộ theo khoản 2 Điều 364 BLHS.
Câu hỏi:
1. Trên cơ sở phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS hãy phân loại tội phạm
đối với tội buôn lậu và tội đưa hối lộ mà B đã thực hiện trong tình huống nêu trên.
(1,5 điểm)
2. A có đồng phạm với B tội buôn lậu không? Tại sao? (2 điểm)
3. Nếu B vừa chấp hành xong bản án 5 năm tù về tội buôn bán hàng cấm và chưa
được xóa án tích, nay lại phạm hai tội như tình huống nêu trên thì trường hợp phạm
tội của B bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (2 điểm)
4. Giả định, trong lô hàng B còn giấu 2 kg thuốc phiện nên B bị xét xử thêm tội
mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251 BLHS) thì A có bị coi là đồng phạm với B
về tội mua bán trái phép chất ma túy không? Tại sao? (2 điểm)
NỘI DUNG
I. Trên cơ sở phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS hãy phân loại tội
phạm đối với tội buôn lậu và tội đưa hối lộ mà B đã thực hiện trong tình huống
nêu trên? (1,5 điểm)
Theo khoản 1 Điều 9 BLHS 2015: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân
chia thành 4 loại sau:
a. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm;

28
b. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy
là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
mọi tội ấy là từ 07 đến 15 năm tù;
d. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất mà mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức độ cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
1. Tội buôn lậu:
1.1.B đã thực hiện hành vi buôn lậu:
-Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau. Từ góc độ khoa
học về ngôn ngữ, cụm từ buôn lậu có ý nghĩa là buôn bán những hàng hóa trốn thuế
và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu biết xưa nay của cụm từ này
và khá phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay.
- Từ năm 1985, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
đời đã chính thức ghi nhận tội danh buôn lậu: “Người nào buôn bán trái phép hoặc
vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá
quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt…”. Bắt đầu từ đây, tội
danh buôn lậu được xác định với bốn câu thành tội phạm và những dấu hiệu đặc
trưng.
Trong tình huống trên, B đã vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (số hàng
trị giá 800 triệu đồng). Như vậy, hành vi của B là hành vi buôn lậu.
1.2.Phân loại tội phạm hành vi buôn lậu của B.
-Theo khoản 3 Điều 188 BLHS 2015: Phạm tội trong các trường hợp sau đây,thì bị
phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 7 đến 15
năm:
a. Vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b. Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Trong trường hợp trên, B bị xét xử theo điều Luật này, có khung hình phạt cao
nhất là 15 năm tù.
Trong trường hợp trên, B bị xét xử tội buôn lậu theo Điều, khoản này, khung hình
phạt cao nhất mà Điều luật này quy định là 15 năm. Chiếu theo điểm c khoản 1 điều 9
BLHS 2015 thì hành vi buôn lậu của B thuộc tội phạm rất nghiêm trọng .
2. Tội đưa hối lộ:
2.1.B đã thực hiện hành vi đưa hối lộ.
-Đưa hối lộ, được hiểu là hành vi đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác (của
hối lộ) dưới bất kỳ hình thức nào cho người có chức vụ, quyền hạn để họ làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
29
Trong trường hợp trên, B đã đưa cho A là cán bộ hải quan (người có chức vụ
quyền hạn) 300 triệu đồng để A bỏ qua số hàng buôn lậu của mình. Như vậy, B đã
thực hiện hành vi đưa hối lộ.
2.2.Phân loại tội phạm hành vi đưa hối lộ.
-Theo khoản 2 điều 364 BLHS: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 02 đến 07 năm tù:
a. Có tổ chức;
b. Dung thủ đoạn xảo quệt;
c. Dùng tài sản của nhà nước để đưa hối lộ;
d. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ. Phạm tội 2 lần trở lên;
e. Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng.
Trong trường hợp trên, B đã hối lộ A số tiền 300.000.000 tương ứng với điểm e
của điều khoản trên. Theo đó, mức khung hình phạt cao nhất có thể áp dụng với B là
07 năm tù. Chiếu theo điểm b khoản 1 điều 9 thì hành vi đưa hối lộ của B là tội
phạm nghiêm trọng.
II. A có đồng phạm với B tội buôn lậu không? Tại sao? (2 điểm)
Theo khoản 1 Điều 17 BLHS 2015:
1. Đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Theo đó, để trờ thành đồng phạm thì phải thỏa mãn các dấu hiệu:
a. Dấu hiệu chủ quan
- Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất 2 người trở lên, 2 người này đều phải có đủ
điều kiện của chủ thể phạm tội. Là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự là người mà khi thực hiện hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất gây nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi đó.
+ Dấu hiệu chủ thể đặc biệt không đòi hỏi phải có tất cả ở những người ở đồng
phạm mà chỉ đòi hỏi ở một loại người đồng phạm đó là người thực hành.
+ Những người này phải cùng nhau thực hiện tội phạm một cách cố ý. Cùng thực
hiện tội phạm có nghĩa là cùng nhau thực hiện 1 trong 4 hành vi sau đây:
. Hành vi thực hiện tội phạm (người thực hành)
. Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (người tổ chức)
. Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (người xúi giục)
. Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (người giúp sức)
- Hành vi của những người tham gia phải có sự liên kết thống nhất với nhau mới
được coi là đồng phạm, biểu hiện qua:
+ Hành vi của người này phải là tiền đề cho hành vi của người khác.
30
+ Hành vi của mỗi người phải có mối quan hệ nhân quả với việc thực hiện tội
phạm chung và hậu quả của tội phạm chung đó.

b. Về mặt chủ quan


- Tất cả những người tham gia đều có lỗi
+ Về mặt lý trí: mỗi người đều biết hành vi của mình gây ra nguy hiểm cho xã hội
và hành vi của những người thực hiện khác cũng gây nguy hiểm cho xã hội cùng
mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không biết hành vi
của người cùng thực hiện cũng gây nguy hiểm cho xã hội giống mình thì chưa thỏa
mãn dấu hiệu có lỗi trong đồng phạm. Mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như tội phạm chung mà họ cùng
thực hiện.
+ Về mặt ý chí: mong muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho hậu
quả xảy ra.
- Cùng mục đích phạm tội
+ Nếu mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì chỉ khi đồng phạm cùng mục đích hay
chấp nhận mục đích của nhau.
+ Nếu mục đích không là dấu hiệu bắt buộc thì không cần đặt ra có cùng mục đích
hay không.
Ở đây, cả A và B không cố ý cùng thực hiện tội buôn lậu nên A không đồng
phạm với B tội buôn lậu.
III. Nếu B vừa chấp hành xong bản án 5 năm tù về tội buôn bán hàng cấm và
chưa được xóa án tích, nay lại phạm hai tội như tình huống nêu trên thì trường
hợp phạm tội của B bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (2điểm)
Căn cứ điều 53 BLHS 2015 căn cứ về tái phạm, tái phạm nguy hiểm như sau:
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện
hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a. Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý, chưa được xúa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b. Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Với quy định trên, việc xem xét người phạm tội có “tái phạm” hay không phải đảm
bảo các dấu hiệu sau:
- Thứ nhất, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đó đã bị kết án;
- Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích;
- Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội mới do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
31
Việc xác định một người có “tái phạm nguy hiểm” phải đảm bảo các dấu hiệu sau:
- Đối với quy định của điểm a khoản 2 điều 53 BLHS 2015:
+ Thứ nhất, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đó đã bị kết án
về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Việc xác định
dấu hiệu người phạm tội “đã bị kết án” cũng được xác định như trường hợp tái phạm.
Tuy nhiên, tội phạm trước mà người phạm tội bị kết án chỉ giới hạn ở tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
+ Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích.
Dấu hiệu này được xác định như trường hợp tái phạm.
+ Thứ ba, người phạm tội lại phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý. Tội này được thực hiện sau và được xét xử sau. Đồng thời, lần phạm
tội này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy định.
- Đối với trường hợp được quy định tại điểm b khoản 2 điều 53 BLHS 2015:
+ Thứ nhất, người phạm tội đã tái phạm. Có nghĩa rằng, trước lần bị đưa xét xử
này, người phạm tội đã 02 lần bị kết án về tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy
định. Đồng thời, trong lần bị kết án thứ hai trước đó, người phạm tội đã bị áp dụng
tình tiết tái phạm.
+ Thứ hai, người bị kết án và bản án đã kết án đối với họ chưa được xóa án tích.
Dấu hiệu này được xác định như trường hợp tái phạm và trường hợp thứ nhất của tái
phạm nguy hiểm.
+ Thứ ba, người phạm tội phạm lại phạm tội do cố ý. Theo đó, tội mới mà người
phạm tội phạm phải là bất kỳ tội phạm cụ thể nào, có thể là tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Dấu hiệu này chỉ
đòi hỏi tội đó là tội do cố ý, không bao hàm tội phạm do vô ý. Đồng thời, tội này do
người phạm tội thực hiện sau và được xử sau và lần phạm tội mới này đã đủ yếu tố
cấu thành tội phạm độc lập do Bộ luật Hình sự quy định.
Ở đây, B chấp hành xong bản án 5 năm tù tội buôn hàng cấm và chưa được xóa án
tích. Tuy lần này B thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng (tội buôn lậu) nhưng không
đủ căn cứ để xác minh việc phạm tội buôn hàng cấm trước đó là tội phạm rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng; Mặt khác, tính đến nay B đã phạm tội ba lần nhưng hai
lần phạm tội sau chưa có bản án quyết định xử phạt nên B không thỏa mãn dấu hiệu
phạm tội “tái phạm nguy hiểm” mà chỉ thỏa mãn dấu hiệu phạm tội “tái phạm”.
IV. Giả định, trong lô hàng B còn giấu 2 kg thuốc phiện nên B bị xét xử thêm
tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251 BLHS) thì A có bị coi là đồng phạm
với B về tội mua bán trái phép chất ma túy không? Tại sao? (2 điểm)
Trường hợp này A đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Việc không kiểm tra
hàng hóa đã giúp sức cho B thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng đây không phải là
hành vi cố ý. A chỉ có nhận tiền nhằm mục đích bỏ qua việc số hàng vượt quá mà

32
thôi. Do vậy nếu B bị xét xử về mua bán trái phép chất ma túy, A không trở thành
đồng phạm.

Đề bài số 06
A có ý định giết chị C (là vợ của A) để tự do lấy nhân tình. A bỏ thuốc độc vào ấm
thuốc bắc của chị C làm chị C bị ngộ độc nhưng không chết, tổn hại sức khoẻ không
đáng kể. Khoảng một tháng sau đó, A tán thuốc ngủ thành bột và trộn với bột sắn
dây. Chị C không biết bột sắn dây có trộn thuốc ngủ nên pha một cốc uống và đã tử
vong. A bị kết án về tội giết người theo khoản 1 Điều 123 BLHS.
2. Giải quyết tình huống:
a. Phân tích dấu hiệu xác định động cơ phạm tội và lỗi của A đối với hành vi
phạm tội trong tình huống nêu trên.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội.
Hành vi của con người trong trạng thái tâm lí bình thường đều được thực hiện do
sự thúc đẩy của một hoặc một số động cơ nhất định. Trong tình huống trên động lực
bên trong thúc đẩy A phạm tội là do trong quá trình chung sống với chị C, tình cảm đi
xuống đẫn đến sự chán ghét nhau nên A đã kiếm tình nhân bên ngoài và muốn chung
sống với người đó vì vậy A đã nảy sinh ý định giết chị C để tự do lấy nhân tình.
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra dược thể hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý.
Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại nếu họ đã lựa chọn hành
vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử xự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Lỗi bao gồm 2 loại:
+ lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp
+ Lỗi vô ý: Vô ý do cẩu thả, vô ý vì quá tự tin.
Xét tình huống ta thấy trong trường hợp này A có sự lựa chọn, có thể chọn các
cách xử sự khác phù hợp hơn đối với đòi hỏi của xã hội nhưng A đã chọn cách xử sự
trái với pháp luật. Trong trường hợp này A có thể tiến hành thỏa thuận với chị B về
tình trạng mối quan hệ hôn nhân hiện tại để đi đến quyết định cuối cùng là li hôn.
Nhưng thây vì xử sự như vậy thì A đã chọn cách hạ độc chị C dẫn đến chị C thiệt
mạng.
Lỗi của A thuộc loại lỗi cố ý trực tiếp vì khi thực hiện hành vi phạm tội A đều
nhận thức được tính nguy hiêm của hành vi của mình có thể trực tiếp đe dọa đến tính
mạng của C và thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó
xảy ra, mong muốn chị C chết để tự do lấy nhân tình.
b. Phân tích các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong tình
huống nêu trên.
33
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu
hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Hành vi của A đã cấu thành tội giết người theo khoản 1 điều 123 BLHS. Mặt
khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu cơ bản sau:
v Hành vi khách quan:
A tán thuốc ngủ thành bột và trộn với bột sắn dây. Chị C không biết bột sắn dây
có trộn thuốc ngủ nên pha một cốc uống và đã tử vong.
Hành vi mà A thực hiện là hành vi trái với với pháp luật hình sự, xâm phạm đến
các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ (quan hệ nhân thân - quyền được bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khỏe) gây ra hậu thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội cụ thể
thiệt hại về tính mạng con người. Khi thực hiện hành vi phạm tội trên A có đầy đủ
năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, A
nhận thức thức hành vi của mình có thể trực tiếp đe dọa đến tính mạng của chị C
nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra, tức là một hành động có sự điều
khiển của ý thức và ý chí.
Hành vi phạm tội của A được thể hiện qua hình thức hành động thông qua các
công cụ, phương tiện cụ thể đó là thuốc ngủ, bột sắn dây.
v Hậu quả thiệt hại:
Từ hành vi tán thuốc ngủ thành bột trộn với bột sắn dây và C không biết đã uống
phải dẫn đến hậu quả chị C chết. Hành vi phạm tội của A đã gây ra thiệt hại nghiêm
trọng về thể chất cụ thể thiệt hại về tính mạng con người.
v Mối quan hệ nhân quả:
Hành vi bỏ thuốc độc vào bột sắn dây của A xảy ra ra trước là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả chị C chết. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và
hậu quả thiệt hại trong trường hợp này thuộc dạng quan hệ nhân quả đơn trực tiếp chỉ
có một hành vi khách quan đóng góp vai trò là nguyên nhân của hậu quả thiệt hại.
Ngoài ra còn có các điều kiện bên ngoài gắn liền với hành vi khách quan như:
+ Công cụ: Thuốc ngủ, bột sắn dây.
+ cách thức, thủ đoạn: Tán thuốc ngủ thành bột trộn với bột sắn dây.
c. Xác định giai đoạn thực hiện tội phạm và hình phạt cao nhất mà tòa án có
thể áp dụng với hành vi phạm tội của A?
Xét tình huống trên ta thấy A đã thực hiện 2 hành vi phạm tội tương ứng với 2 giai
đoạn thực hiện tội phạm khác nhau:
Hành vi thứ nhất A có ý định giết chị C (là vợ của A) để tự do lấy nhân tình. A
bỏ thuốc độc vào ấm thuốc bắc của chị C làm chị C bị ngộ độc nhưng không chết, tổn
hại sức khoẻ không đáng kể.
Nhưng do Tòa Án không truy cứu TNHS về hành vi này của A nên ta không đi xét
các giai đoạn thực hiện tội phạm cũng như không xác định TNHS về tội phạm này

34
(Nếu xác định với hành vi này của A sẽ CTTP girts người theo khoản 1, điều 123
BLHS ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành)
Hành vi thứ hai A tán thuốc ngủ thành bột và trộn với bột sắn dây. Chị C không
biết bột sắn dây có trộn thuốc ngủ nên pha một cốc uống và đã tử vong.
Trong trường hợp này hành vi của A đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả
trong CTTP. Mà tội phạm có CTTP vật chất được coi là tội phạm hoàn thành khi
người phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm. Tội giết người là tội có CTTP vật
chất nên tội này hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra. Nên ta xác định thuộc giai
đoạn tội phạm hoàn thành.
Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Căn cứ vào khoản 1 điều 123 BLHS hình phạt cao nhất tòa án có thể áp dụng đối
với A là tử hình.
d. Giả định trước khi thực hiện hành vi phạm tội như tình huống nêu trên,
Ađã bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xóa án tích, thì lần phạm
tội này của A bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
35
Điều 53 BLHS 2015 quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện
hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Do anh A giết chị C bằng thuốc ngủ và bột sắn dây nên A bị truy cứu TNHS theo
khoản 1, điều 123 BLHS. Căn cứ theo Điều 9 BLHS đây là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình)
Theo như đề bài trên trước khi thực hiện hành vi phạm tội theo khoản 1, điều 123
BLHS, A đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xóa án tích.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản
là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm:
36
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến
20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Căn cứ vào Điều 173 BLHS và theo đề bài ra A phạm tội trộm cắp tài sản có thể
thuộc vào một trong các trường sau:
Thứ nhất nếu A phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS thì đây là
tội phạm ít nghiêm trọng, lỗi cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội theo
khoản 1 Điều123 BLHS (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) . Do đó đây là trường hợp
tái phạm theo khoản 1 Điều 53 BLHS.
Thứ hai nếu A phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS thì đây là
tội phạm nghiêm trọng, lỗi cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội theo
khoản 1 Điều 123 BLHS (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Do đó đây là trường hợp
tái phạm theo khoản 1 Điều 53 BLHS.
Thứ ba nếu A phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 173 BLHS thì đây là tội
phạm rất nghiêm trọng, lỗi cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội theo
khoản 1 Điều 123 BLHS (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Do đó đây là trường hợp
tái phạm nguy hiểm theo khoản 2 Điều 53 BLHS.
Thứ tư nếu A phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 4 Điều 173 BLHS thì đây là tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, lỗi cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội theo
khoản 1 Điều 123 BLHS (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Do đó đây là trường hợp
tái phạm nguy hiểm theo khoản 2 Điều 53 BLHS.

BÀI TẬP 07
Đức ( 17 tuổi ) và Thanh (15 tuổi ) biết gia đình anh Mạnh thường
không có ai ở nhà vảo buổi sáng. Khoảng 9h sáng ngày 26 tháng 7 năm
2013 Đức và Thanh phá khóa vào nhà anh Mạnh để lấy tài sản. Đức đang
dắt chiếc xe máy của anh Mạnh ra sân ( chiếc xe máy trị giá 30 triệu đồng,
thuộc trường hợp bị xử phạt theo khoản 1 điều 138 BLHS), đúng lúc đó
anh Mạnh quay về nhà, phát hiện và hô hoán. Đức bị bắt giữ.
37
Câu hỏi:
1.Đức và Thanh có phải là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản hay
không? Tại sao?
2. Hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với đức là bao
nhiêu năm tù?
3. Đức có thể được hưởng án treo hay không? Tại sao?
4. Giả định khi bị anh Mạnh bắt giữ, Đức đã có hành vi đánh lại anh
mạnh để chạy trốn nên bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS và bị phạt 2
năm tù thì hành vi phạm tội của Đức là tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm
trọng?
Bài làm
1. - Đức và Thanh không phải là đồng phạm
- Giải thích: Theo khoản 1 Điều 20 BLDS quy định: “ đồng phạm là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thức hiện một tội phạm” nhưng
những người này phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của điều 13 và 12 của BLHS. Đối
chiếu với vụ án này thì Đức là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 12 BLHS còn
Thanh tuy có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng nằm ngoài Điều 12
của BLHS quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cho nên ở đây
ĐỨc và Thanh không phải là đồng phạm.

2.Theo khoản 1 điều 138 BLHS quy định: “ người nào trộm cắp tài
sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phật hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm “. Đối
chiếu với vụ án ta thấy Đức đã có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị trong
khoảng từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng ( cụ thể là chiếc xe
máy trị giá ba mươi triệu đồng ) nên mức án cao nhất Tòa án có thể áp
dụng với Đức là ba năm tù giam.

3. - Đức có thể được hưởng án treo


38
- Giải thích: Tại thông tư số 19/TATC ngày 2/10/1974 của Tòa án
nhân dân tối cao: “án tren phải được xem là hình thức xử lí nhẹ hơn tù
giam”. Theo BLHS hiện nay, án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện.Án treo thể hiện tính nhân đạo của Luật
hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bj kết án tự tu dưỡng
và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia
đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì
buộc phải chấp hành phạt tù đã tuyên.
Khoản 1 điều 60 BLHS đã quy định án treo như sau: “Khi xử phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân than của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa
án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm
năm”.
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng điều 60 của BLHS của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao:
“ Chỉ xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện
sau:
a, Bị xử phạt không quá ba năm tù về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều
8 BLHS.
b, Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ
luôn tôn trọng các quy tắc xã hội , chấp hành đúng chính sách , pháp luật,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cảu công dân nơ cư trú, công tác; không vi
phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lí vi phạm
hành chính, bị xử lí kỉ luật.
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích,
đươc đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lí vi phạm
hành chính, xử lí kie luật hoặc hết thời hiệu xử lí v phạm hành chính, xử lí
kỉ uật thì được coi là chưa bị xử lí hành chính, chưa bị xử lí kỉ luật nhưng
không phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những
trường hợp này phải hết sức chặ chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo
khi thuộc một trong các trường hợp sau:

39
b1, Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do cố ý ( kể
cả trường hợp tổng hợp hình phạt có nhiều tội hoặc nhiều bản án) mà thời
gian đươc xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm
b2, Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian được xóa
án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm
b3, Người bị kết án về các hình phạt cảnh cảo, phạt tiền, cải tao không
giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã
quá 1 năm
b4, người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích
b5, Người đã bị đưa bòa cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần trở lên mà
thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính tính đến
ngày phạm tọi lần này đã quá 2 năm
b6, Người đã bị đưa vào sở giáo dục bắt buộc một lần và có nhiều lần
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lí kỉ luật mà thời gian được coi là
chưa bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính, chưa bị xử lí kỉ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm
b7, Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời gian được
coi là chưa bị á dụng biện pháp xử lí hành chính tính đến ngày phạm tội
mới lần này đã quá 18 tháng
b8, Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lí kỉ luật từ hai
lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử hạt vi phạm hành chính,
chưa bị xử lí kỉ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng
b9, Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lí kỉ luật về hành
vi có cùng tnhs chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian được coi là
chưa bị xử phạt vi phạ hành chính, chưa bị xử lí kỉ luật tính đến ngày phạm
tội lần này đã quá 1 năm
b10, Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lí kỉ luật mà
thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chiwnhs, chưa bị xử lí
kỉ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng
b11, Người đã bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính giáo dục tại
xã,phường, thị trận, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đã hết hạn được coi là chưa bị xử lí hành chính
c, Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng

40
d, Không có tính chất tang nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
khoản 1 điều 48 BLHS và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1
điều 46 BLHS, nếu có một tình tiết tang nặng trách nhiệm hình sự thì phải
có từ ba tình tiết gảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất
hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điểu 46 BLHS
đ, Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt
tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu trah phòng, chống tội phạm
đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng.
Chỉ cần Đức có thể đáp ứng khoản 1 điều 2 Ngị quyết 01/2013/NQ-
HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thì hành vi của Đức có đủ điều kiện có thể được hưởng án
treo

4. – Hành vi phạm tội của Đức là tội nghiêm trọng


- Giải thích: Theo quy của BLHS: “ Tội phạm nghiêm trọng là tôi
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 3
năm đến 7 năm tù”
Điều 47 BLHS quy định: “ Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phat mà điều luật đã quy
định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong
trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó
là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể quyết định một
hình dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lí do cảu việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”
Đối chiếu khung hình phạt của khoản 2 Điều 138 BLHS với khung
hình phạt của tội phạm nghiêm trọng ta thấy tương đương nên các hành vi
trong khoản 2 Điều 138 BLHS quy định thuộc dạng hành vi nghiêm trọng.
Trong trường hợp này, Đức vẫn được hưởng 2 năm tù không phải vì Đức
vi phạm tội ít nghiêm trọng mà vì Đức có các tình tiết giảm nhẹ trong
khoản 1 Điều 46 BLHS và được quyết định nhẹ hơn quy định của Bộ luật
theo Điều 47 BLHS
41
II. CÁC TÌNH HUỐNG VỀ HÌNH SỰ, MA TÚY, TỆ NẠN XÃ HỘI
1. Tình huống 1: B thấy chị H đeo hai nhẫn vàng ở ngón tay nên T dùng gậy
đánh vào sau gáy của chị H làm chị H ngất, sau đó B lấy hai chiếc nhẫn vàng
của chị H. Vậy B phạm tội gì?
Trả lời:
B đã có hành vi dùng vũ lực (dùng gậy đánh vào đầu chị H) để nhằm chiếm đoạt
tài sản (lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H) và thực tế là B đã lấy hai chiếc nhẫn vàng
của chị H, do đó B đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình
sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong các hành vi
khách quan của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực. Hành vi dùng vũ lực được
hiểu là hành vi hành động dùng sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có
vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay
đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao
đâm, chém... Hành động tấn công này có thể làm cho người bị tấn công bị thương
tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích
đáng kể cho nạn nhân. Việc dùng vũ lực là nhằm mục đích là làm cho người bị tấn
công mất khả năng chống cự nhằm để cướp tài sản. Việc dùng vũ lực được thực hiện
ở cả hai phương thức đó là phương thức bí mật (như: bắn lén lút, đánh vào sau gáy...)
và phương thức công khai (tấn công trước mặt người bị tấn công để cho người đó
biết, bất luận có người nào khác biết hay không).
Tình huống 2: T vừa lĩnh 50 triệu đồng tiền gửi ngân hàng đi ra đến đường
quốc lộ thì K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T đưa tiền, nếu không đưa thì K
sẽ đâm. Ngay lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới bắt giữ K. Vậy K có phạm
tội không?
Trả lời:
K đã có hành vi đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực (dùng dao dí vào cổ T) để buộc
T là người bị tấn công phải sợ và tin tưởng nếu không đưa tiền cho K thì tính mạng
của T sẽ bị nguy hại (bị đâm dao vào người), do đó K đã phạm tội cướp tài sản được
quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. Bởi theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình
sự năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi đe
doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.
Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là đe doạ dùng ngay tức thì sức mạnh
vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của
người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng
bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém... nếu người bị tấn công không chịu

42
khuất phục để buộc người bị tấn công phải sợ và tin tưởng rằng nếu không để cho lấy
tài sản thì tính mạng và sức khoẻ sẽ bị nguy hại. Ở đây thông thường được kết hợp
giữa hành vi sẽ dùng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo, để tạo cảm
giác cho người bị tấn công sợ và tin tưởng rằng người phạm tội sẽ dùng vũ lực.
Ngay tức khắc là ngay lập tức, không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu
người bị tấn công không giao tài sản cho người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho
người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Tình huống số 3: T lập kế hoạch và bàn bạc với M và P cướp tiền của những
người mới lĩnh tiền từ Ngân hàng Đ. T phân công cho M dùng dao đe doạ người
bị tấn công, còn M lao vào cướp tiền rồi lên xe máy do T đang đứng đợi sẵn.
Vậy T, M và P phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì cướp tài sản có tổ chức
được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện tội cố ý cướp tài sản mà giữa
họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo,
vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong
đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên
không phải vụ án cướp tài sản có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò như
trên, mà tuỳ từng trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà
không có người xúi giục hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người thực
hành và người tổ chức thì mới phạm tội có tổ chức.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi sướng việc phạm tội; vạch kế
hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; phân công trách
nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều
khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm
khác thực hiện tội phạm...
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm như: trực tiếp cầm dao
chém người bị tấn công, trực tiếp cầm súng đe doạ người bị tấn công hay trực tiếp
chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công...
Như vậy, trong vụ án cướp tài sản trên thì có ba người đó là T, M và P cùng cố ý
thực hiện tội cướp tài sản, trong đó T là người tổ chức vì là người vạch kế hoạch, chủ
động bàn bạc với M và P thực hiện hành vi cướp tài sản và phân công trách nhiệm
cho M và P, còn M và P là những người thực hành vì có hành vi trực tiếp dùng dao
đe doạ và cướp tài sản của người bị tấn công. Do đó T, M và P đã phạm tội cướp tài
sản với tình tiết có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình
sự năm 2015.

43
Tình huống 4: H là thợ điện dựng xe máy loại xe LEAD có giá trị 35 triệu
đồng ở ria đường để trèo lên cột điện sửa chữa điện nhưng quên không rút chìa
khoá. C đi qua thấy vậy liền tiến đến xe máy của H, gạt chân chống xe lên rồi nổ
xe phóng đi. H ở trên cột điện nhìn thấy C lấy xe máy của mình nhưng không
làm gì được. Vậy C có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?
Trả lời:
C có hành vi công khai, ngang nhiên, trắng trợn chiếm đoạt tài sản (lấy xe máy
của H có giá trị 35 triệu đồng), H là chủ xe máy biết là C lấy xe máy của mình mà
không thể giữ được. Hành vi đó của C là hành vi công nhiêm chiếm đoạt tài sản. Do
đó C đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật
hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng chiếm
đoạt bằng hình thức công khai, ngang nhiên. Người phạm tội lấy tài sản ngay trước
mắt chủ sở hữu tài sản mà người này không làm gì được (không có biện pháp nào
ngăn cản được hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội hoặc nếu có thì biện
pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách
công khai).
Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện
ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc
ngay sau khi chiếm đoạt tài sản, chủ sở hữu tài sản biết ngay người lấy tài sản của
mình nhưng không thể giữ được.
Tình huống 5: T và K đang cắt lúa ở cánh đồng thì đột nhiên K bị cảm, thấy
vậy T liền bế K lên đường thì nhìn thấy xe máy của G đang để ở ria đường, xe
không khoá. T đặt K ngồi lên xe máy đó và nổ máy với mục đích để đưa K vào
bệnh viện cấp cứu. G đang tắm ở dưới ao nhìn thấy T lấy xe của mình nhưng
cũng không làm gì được. Vậy T có phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là
mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không
thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, vì
hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội.
Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

44
Như vậy, T lấy công khai lấy xe máy của G nhưng không có mục đích chiếm đoạt
mà chỉ có mục đích đưa K đi bệnh viện cấp cứu vì K bị cảm, do đó T không phạm tội
công nhiêm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự.
Tình huống 6: H đang đi xe máy loại xe Jupiter vừa mới mua với giá 24 triệu
đồng thì K là người quen của H vẫy tay xin đi nhờ. H dừng xe lại và đèo K đi
cùng. Khi đi được một lúc thì H dừng xe trước quán nước và bảo K cùng vào
quán uống nước. Lợi dụng lúc H đi rửa tay thấy xe vẫn đang mở khoá, K liền
nổ máy phóng xe máy của H đi đến chợ T bán xe lấy tiền tiêu sài. Khi H rửa tay
quay ra và hỏi Đ là chủ quán về xe của mình thì Đ vẫn tưởng xe đó là xe của K.
Vậy K phạm tội gì?
Trả lời:
Lợi dụng lúc H đi rửa tay, K đã lén lút (bí mật) lấy xe máy của H và mặc dù K lấy
xe máy của H ngang nhiên trước mặt Đ là chủ quán nước nhưng đó chỉ là ý thức che
giấu tính hợp pháp cho hành vi của K để cho Đ tưởng đó là xe máy của K. Do đó
hành vi của K chính là hành vi trộm cắp tài sản nên K đã phạm tội trộm cắp tài sản
được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội
trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản mà người này không hề hay biết tài sản của mình đang bị
chiếm đoạt, chỉ sau khi mất thì thì người đó mới biết bị mất tài sản.
Tính chất lén lút, bí mật của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm
tội che giấu, giấu diếm hành vi chiếm đoạt tài sản của mình đối với chủ sở hữu tài
sản.
Người phạm tội không những chỉ có ý thức bí mật đối với người quản lý tài sản
mà còn bí mật đối với người xung quanh khu vực có tài sản nhưng có những trường
hợp người phạm tội không hề che giấu hành vi trộm cắp tài sản đối với người xung
quanh nhưng lại có những hành động để người xung quanh tưởng lầm đó không phải
là hành vi trộm cắp tài sản. Ví dụ như: giả vờ đi nhờ xe để người xung quanh tưởng
nhầm là xe của người đó và đợi cho đến khi chủ sở hữu của xe đó sơ hở, mất cảnh
giác thì trộm cắp xe.
Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị
chiếm đoạt. Tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu
thành tội trộm cắp tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì
phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi trộm cắp
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác
định tội phạm đã hoàn thành hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm
đoạt trong từng trường hợp cụ thể.
45
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ, gọn thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm
người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người.
Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt to, cồng kềnh thì tội trộm cắp hoàn thành
kể từ thời điểm người phạm tội mang tài sản đó ra khỏi nơi quản lý của chủ sở hữu.
Tình huống 7: Sau khi Q lập kế hoạch trộm cắp xe máy của công ty K thì Q
rủ rê P, T và V cùng trộm cắp xe máy. Sau khi P, T và V đồng ý Q đã chủ động
bàn bạc về kế hoạch trộm cắp. Q có nhiệm vụ chuẩn bị các dụng cụ phá khoá
cửa và theo dõi, chỉ huy hoạt động trộm cắp, Q phân công P thực hiện việc phá
khoá, phân công T dắt xe máy ra và phân công V đưa xe máy đến nơi cất giấu
mà Q đã chuẩn bị sẵn. Q, P, T và V trộm cắp đến lần thứ ba với tổng cộng là 7
chiếc xe máy thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Vậy Q, P, T và V phạm tội gì và theo
điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Trả lời:
Q, P, T và V đã phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “có tổ
chức” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi vì
Q, P, T và V cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản (trộm cắp xe máy) mà giữa họ
có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch
trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó Q
là người tổ chức, P, T và V là những người thực hành.
Q là người tổ chức bởi vì Q là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc trộm cắp xe
máy, Q khởi sướng việc phạm tội, vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế
hoạch che giấu tội phạm, phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác
(P, T và V) thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
P, T và V là những người thực hành vì là những người trực tiếp lén lút trộm cắp xe
máy, trực tiếp phá khoá cửa, trực tiếp đưa xe máy đến nơi cất giấu.
Tình huống 8: H là công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của
công ty Đ, rồi buộc từng chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần
lên và đi về. Khi ra đến cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi
giầy trong ống quần, K yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy
thế K đuổi theo và túm được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong
người ra đâm vào tay K để cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và
theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Trả lời:
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tình tiết
hành hung để tẩu thoát trong tội trộm cắp tài sản được hiểu là trường hợp sau khi đã
trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ
lực đối với chủ sở hữu hoặc đối với người đã bắt giữ để người này không dám đuổi
bắt hoặc không thể bắt giữ được nhằm để tẩu thoát.

46
Người phạm tội hành hung đối với người đuổi bắt (có thể là chủ sở hữu tài sản bị
trộm cắp hoặc là người khác) nhằm mục đích tẩu thoát. Nhưng nếu người phạm tội
sau khi đã trộm cắp được tài sản mà bị đuổi bắt hoặc đã bị chủ sở hữu tài sản bị trộm
cắp hay người khác bắt giữ nhưng cố tình giữ bằng được tài sản đã trộm cắp bằng
cách hành hung người đuổi bắt hoặc người đang bắt giữ thì ngườiphạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trong trường hợp này, khoa học luật
hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp sang tội cướp tài sản (hay còn gọi là đầu
trộm đuôi cướp).
Như vậy, H là người trộm cắp tài sản bị K phát hiện thì đã bỏ chạy, K đuổi theo
thì H đã hành hung K (rút dao trong người đâm vào tay K) nhưng H hành hung K
không phải để tẩu thoát mà để giữ bằng được tài sản đã trộm cắp (đôi giầy). Do vậy
H đã phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tình huống 9: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên H đã đến nhà B giả vờ hỏi
mượn xe máy loại xe Wave trị giá 15 triệu đồng để đi thăm người ốm. Khi B cho
H mượn xe thì H đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được 5
triệu đồng và H lấy số tiền này để đánh bạc. Vậy H phạm tội gì?
Trả lời :
H có hành vi dùng thủ đoạn gian dối (giả vờ mượn xe máy loại xe LEAD trị giá 35
triệu đồng để đi thăm người ốm) làm cho B là chủ sở hữu chiếc xe máy tưởng là thật
nên đã tự nguyện giao xe máy cho H. Khi H nhận được xe máy của B thì H đã có
hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy (bán xe máy được 5 triệu đồng để lấy tiền đánh
bạc). Hành vi đó của H là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do đó H đã phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.
Bởi theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hành vi duy nhất đó là hành vi chiếm đoạt
nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Trong đó thủ đoạn gian dối là điều kiện để
thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Gian dối là đưa ra thông tin hay hành động không đúng sự thật nhằm đánh lừa
người khác để người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối được thực hiện rất đa
dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người có chức vụ, quyền hạn…
Hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm để chiếm đoạt tài sản, còn
nếu có hành vi gian dối không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà nhằm mục đích
khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thể hiện bằng
những hành vi cụ thể để nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản
lý tài sản. Luật hình sự Việt Nam không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
có thủ đoạn gian dối thuộc về tư tưởng, suy nghĩ mà không biểu hiện ra bên ngoài
bằng hành vi.
47
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao
tài sản giữa người người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản
thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp có thể phạm
tội khác.
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch tài
sản của người khác thành tài sản của mình bằng thủ đoạn gian dối.
Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá
trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu
thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000
đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc người có hành vi
lừa đảo đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội phạm hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt tài sản đã xảy ra.
Tình huống 10: C có nhu cầu xây dựng nhà ở nên đã hỏi vay của T 50 triệu
đồng để xây dựng nhà ở. T đồng ý và đưa cho C vay 50 triệu đồng (việc vay
mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận). Sau khi nhận tiền của T thì C lại
không xây nhà vì C không muốn ở Việt Nam mà muốn sang nước Nga cư trú
cùng anh ruột của C. Vì không định trả lại tiền vay cho T nên khi đi C mang
theo 50 triệu đồng đã vay của T. Vậy C có phạm tội không?
Trả lời:
C vay được tài sản của người khác (vay được 50 triệu đồng của T) bằng hợp đồng
bằng văn bản hợp pháp (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận)
nhưng sau khi vay được tiền thì C đã bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản (bỏ sang nước
Nga cư trú cùng anh ruột của C để chiếm đoạt 50 triệu đồng tiền vay của T). Hành vi
đó của C chính là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do đó C đã phạm
tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình
sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt
khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi sau:
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng hợp pháp (hình thức của hợp đồng có thể bằng văn bản
hoặc bằng miệng) rồi dùng thủ đoạn gian dối (như: giả tạo bị mất tài sản; đánh tráo
tài sản; rút bớt tài sản...) hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó. Thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản chỉ xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản thông
qua hợp đồng hợp pháp. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi
cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn
gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tình huống 11: Anh K vừa qua đã bị cơ quan có thẩm quyền truy tố do hành
48
vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự. Quá trình luận tội, xét thấy anh K đang
có nơi làm việc ổn định, cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, không cần thiết
phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội, nên anh K đã bị Tòa án tuyên phạt cải
tạo không giam giữ 1 năm. Một số ý kiến thắc mắc cho rằng Tòa án đã xét xử
chưa đúng người, đúng tội. Xin hỏi trường hợp này pháp luật quy định như thế
nào?
Trả lời:
Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giữ giữ 1 năm đối với trường hợp anh K ở
trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật vì theo Điều 36 của Bộ luật, cải
tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm
việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly
người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được
trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ,
tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát,
giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức
hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo
các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến
20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng.
Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng
phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện
nghĩa vụ quân sự.
Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất
việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc
lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không
quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người
khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định
tại Luật thi hành án hình sự.
Tình huống 12: Chị Nguyễn Thị H sống độc thân, do thiếu hiểu biết, chị đã
cho một gái bán dâm ở trong nhà chị và thực hiện hành vi mua bán dâm với
49
nhiều người trong nhiều lần khác nhau, xin hỏi trường hợp của chị có phải là
phạm tội nhiều lần không?
Theo hướng dẫn tại mục 4, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì chỉ áp dụng tình tiết
“phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm thuộc một trong các trường hợp
sau:
a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác
nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các
khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một
khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng
thời gian khác nhau.
Trường hợp của chị Nguyễn Thị H nêu trên vi phạm điểm c “Chứa mại dâm một
người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau”
được coi là “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm c, khoản 2 điều 254 của Bộ
luật hình sự.
Tình huống 13: Trần Tiến D là kế toán trưởng của Tập đoàn chuyên kinh
doanh trong lĩnh vực xăng dầu. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, D đã
móc nối với một số đối tác để làm chứng từ khống, thu lợi bất chính nhiều tỷ
đồng và đã bị cơ quan điều tra phát hiện. Xin hỏi trong trường hợp này, việc lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của D có bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật, việc Trần Văn D lợi dụng chức vụ, quyền
hạn phạm tội sẽ bị coi là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt. Theo đó, tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 bao gồm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết
tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
50
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để
phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội
phạm.
Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định
khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Tình huống 14: Nguyễn Văn V do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng
bọn đột nhập vào nhà bà M trộm cắp. Khi bị phát hiện V đã chủ động tấn công
và đâm chết cháu trai của bà M khi anh này cố tình ngăn cản không cho V chạy
thoát. Sau khi V bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố V về tội giết
người thì gia đình V đã có đơn kiện, cho rằng do V còn nhỏ (mới hơn 14 tuổi),
nhận thức kém, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi pháp luật
quy định về vấn đề này như thế nào?
Trả lời:
Điều 12 Bộ luật quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua
bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173
(tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái
phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251
(tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào
mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
51
điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông
hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Căn cứ quy định ở trên, V bị truy tố tội giết người khi V đã hơn 14 tuổi, là đủ tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra nên việc gia đình V có đơn
kiện là hoàn toàn trái quy định của pháp luật.
Tình huống 15: Do mâu thuẫn về đất đai trong quá trình xây dựng nhà ở,
Nguyễn Tiến D đã bàn bạc âm mưu cùng 2 anh trai sang nhà ông B hàng xóm
gây rối và đánh người nhà ông B. Kết quả ông B và con trai ông đã bị anh em D
đánh gây thương tích đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình
điều tra cơ quan công an còn phát hiện bố đẻ D là ông H cũng biết trước việc
này. Đề nghị cho biết trường hợp này ông H có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự do không tố giác tội phạm hay không?
Trả lời:
Theo Điều 19 của Bộ luật, người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang
được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 389
của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Điều luật cũng quy định người không tố giác là ông,
bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không
phải chịu trách nhiệm theo quy định như trên, trừ trường hợp không tố giác các tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều
389 của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định trên, ông H sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do
không tố giác tội phạm là con đẻ của mình.
Tình huống 16: Anh Nguyễn Văn H uống rượu say nên trên đường đi làm
về đã gây ra tai nạn giao thông làm trọng thương một người đi bộ sang đường;
sau đó gia đình anh H đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi
thường đầy đủ các chi phí cho họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không
xử lý hình sự đối với anh H. Trong trường hợp này, anh H có phải chịu trách
nhiệm hình sự nữa không ?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, người nào tham gia giao
thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

52
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01
người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ
lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10
năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích
mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp
người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ
lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Đối chiếu với quy định ở trên, việc anh H khi gây tai nạn trong tình trạng say rượu
là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều luật nói trên. Mặc dù
người gây tai nạn đã bồi thường thiệt hại về vật chất nhưng theo quy định của pháp
luật, người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra. Việc người
gây án đã chủ động bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân sẽ là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt khi vụ án được đưa ra xét xử.
Tình huống 17: Anh Trần Văn D bị tòa án phạt 20 tháng tù về tội vi phạm
các qui định về an toàn giao thông đường bộ. Sau khi gây án, anh Đ rất ăn năn,
hối cải, khai báo thành khẩn. Trong khi chờ đi thụ hình đã có công cứu được 3
trẻ nhỏ bị nước lũ cuốn trôi. Như vậy anh D có được được miễn chấp hành hình
phạt tù không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 59 Bộ luật hình sự năm 2015, người phạm tội có thể được
miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ
luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách
nhiệm hình sự.
Khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự quy định: Tòa án có thể quyết định một hình phạt
53
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, anh D đã có ít
nhất 2 tình tiết giảm nhẹ nhờ việc hối cải, khai báo thành khẩn và lập công chuộc tội
thì có thể được xét miễn chấp hành hình phạt.
Tình huống 18: Nguyễn Thị A phạm tội buôn bán ma túy. Trong quá trình
điều tra, truy tố xét xử, cơ quan có thẩm quyền phát hiện A đang có thai. Xin hỏi
trong trường hợp này A có được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không?
Trả lời:
Theo Điều 67 của Bộ luật, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình
phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến
khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì
gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó
bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến
01 năm.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp
hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải
chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định
tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định nêu trên, Nguyễn Thị A sẽ được hoãn chấp hành hình phạt
tù đến khi đứa con được 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, trường hợp trong thời gian được
hoãn, A lại tiếp tục phạm tội thì A sẽ bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt trước
đó theo quy định nêu trên.
Tình huống 19: Nguyễn Hữu T cùng đồng bọn phạm tội cướp giật tài sản
khi T mới được 17 tuổi 5 tháng. Quá trình điều tra xác định T phạm tội với tư
cách là đồng phạm giúp cho đồng bọn bỏ trốn, không trực tiếp tham gia vào vụ
cướp giật tài sản. Trong trường hợp này, T có thể bị áp dụng biện pháp khiển
trách hay không?
Trả lời:
Theo Điều 93 của Bộ luật, khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong những trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm
tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng;
54
b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Căn cứ quy định trên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp
dụng biện pháp khiển trách đối với T. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18
tuổi.
Đồng thời, điều luật cũng quy định T phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia
lao động với hình thức phù hợp.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện
các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01
năm.
Tình huống 20: Trần Văn D làm nghề lái xe tắc xi. Trong một lần chở khách
ban đêm, H đã vô tình tông phải vợ chồng anh G làm cho anh bị thương tích
nặng. Quá hoảng sợ, D đã lái xe bỏ chạy, bỏ mặc vợ chồng anh G trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hành vi của D phạm tội gì và bị xử lý ra sao?
Trả lời:
Hành vi của D đã phạm vào tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng quy định tại Điều 132 của Bộ luật. Theo đó, người nào
thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện
mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm:
a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ
phải cứu giúp.
Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

55

You might also like