You are on page 1of 16

PHẦN THỨ I: PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH

1. Phạm vi áp dụng, đối tượng điều chỉnh của Luật cạnh tranh VN và các nguyên tắc cơ
bản trong việc áp dụng các quy định của LCT ở Việt Nam.
*Phạm vi điều chỉnh của LCT (Điều 1 LCT 2018)
LCT 2018 vừa chứa đựng các quy định pháp luật nội dung vừa bao gồm các quy định về
pháp luật hình thức
- Thứ nhất, về mặt nội dung: LCT 2018 điều chỉnh ba nhóm hành vi: (i) các hành vi
CTKLM; (ii) các hành vi hạn chế cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trên thị
trường VN; (iii) các hành vi tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây
tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam.
*Đối tượng điều chỉnh của LCT 2018
Điều 2 LCT 2018 đã liệt kê các chủ thể chịu sự điều chỉnh của LCT bao gồm:
- Thứ nhất, đối tượng áp dụng của LCT 2018 là các tổ chức, cá nhân kinh doanh bao
gồm tất cả các loại hình chủ thể kinh doanh hoạt động trong tất cả các lĩnh vực trong
nền kinh tế quốc dân bao gồm cả các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch
vụ công ích, DN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại VN.
- Thứ hai, LCT 2018 điều chỉnh hành vi có tác động đến cạnh tranh của các hiệp hội
ngành nghề hoạt động ở VN. Theo LCT 2018, hiệp hội ngành nghề có thể bị xử lý
nếu tham gia hoặc thúc đẩy, hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên tham gia vào các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh.
- Thứ ba, LCT 2018 điều chỉnh các hoạt động có tác động đến cạnh tranh của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
*Các nguyên tắc cơ bản trong việc áp dụng các quy định của pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
Điều 5 LCT 2018
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 6 Điều 3 LCT 2018 định nghĩa “hành vi cạnh tranh không lành mạnh" là hành vi của
doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn
mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác
-So sánh trong LCT 2018 và LCT 2004
+một là, cụm từ “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh" trong LCT 2004
được cụ thể hoá trong LCT 2018 mới bằng cụm từ “trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực,
tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh”.
+hai là, đối tượng bị gây thiệt hại hoặc có thể bị gây thiệt hại theo LCT 2004 bao gồm Nhà
nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng, thì theo LCT 2018 đối tượng bị gây thiệt hại chỉ
còn là doanh nghiệp khác.
=>Nhà nước và người tiêu dùng không phải chủ thể tham gia hoạt động cạnh tranh mà chỉ là
các chủ thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động cạnh tranh, mặt khác quyền lợi
của người tiêu dùng đã được bảo vệ theo pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
-6 hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm (Điều 45 LCT 2018)
1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh
2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác
4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
5. Lôi kéo khách hàng bất chính
6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ
*Đặc điểm chung của các hành vi CTKLM
- Chủ thể thực hiện hành vi: tổ chức, cá nhân kinh doanh (được gọi chung là DN)
Khái niệm DN được sử dụng trong LCT 2018 không chỉ bao gồm các chủ thể được gọi là DN
theo pháp luật DN như DNTN và các loại công ty, mà còn bao gồm tất cả các loại chủ thể
kinh doanh khác được phép tiến hành các hoạt động kinh doanh ở VN, bao gồm HKD, HTX,
LH HTX,...
- Mục đích của hành vi: nhằm cạnh tranh với DN khác
- Tính chất của hành vi: không lành mạnh, thể hiện ở chỗ chúng trái với nguyên tắc
thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh.
- Hậu quả của hành vi: “gây thiệt hại” hoặc “có thể gây thiệt hại” đến quyền và lợi ích
hợp pháp của DN khác.
hành vi chỉ được xem là “có thể gây thiệt hại" khi nguy cơ thiệt hại xảy ra là hiện hữu nếu
không bị ngăn chặn. Quy định như vậy cho phép DN khác sử dụng các công cụ pháp luật để
bảo vệ mình trước hành vi ngay khi họ nhận thấy có nguy cơ bị thiệt hại, chứ không phải chờ
đến khi thiệt hại đã xảy ra.
- Đối tượng gánh chịu hoặc có thể gánh chịu thiệt hại: quyền và lợi ích hợp pháp của
các DN (trước hết là DN cạnh tranh với DN thực hiện hành vi, cũng có thể là DN
không phải là DN cạnh tranh với DN thực hiện hành vi)
+DN không cạnh tranh với DN thực hiện hành vi, nhưng chịu sự tác động của hành vi đó có
thể bao gồm các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ hay DN mua hàng hoá, sử dụng
dịch vụ của DN cạnh tranh hoặc bất kỳ DN nào khác.

Khoản 4 Điều 3 LCT 2004 Khoản 6 Điều 3 LCT 2018


-Hành vi cạnh tranh ko lành mạnh là hành vi cạnh tranh của DN.
+trái với các chuẩn mực thông thường +trái với nguyên tắc thiện chí, trung
về đạo đức kinh doanh thực, tập quán thương mại và các
chuẩn mực khác trong kinh doanh
+gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại +gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi đến quyền và lợi ích hợp pháp của
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác doanh nghiệp khác
hoặc người tiêu dùng

2. CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH


2.1 Hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh
-Định nghĩa về “xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh”: là việc tiếp cận, thu thập
thông tin bí mật trong kinh doanh của DN khác bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật
của DN khác đó hoặc tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh của DN khác mà
không được sự cho phép của DN khác đó.
+Đối tượng: thông tin bí mật trong kinh doanh
Bí mật trong kd: Khoản 23 Đ4 LSHTT 2005, sđbs 2009, 2022
● Tất cả các thông tin mà DN khác có được từ hoạt động kd của họ;
● Được DN khác đó bảo mật bằng cách áp dụng các biện pháp cần thiết để thông tin đó
không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
=> “Thông tin bí mật trong kinh doanh” bao hàm cả thông tin đáp ứng các điều kiện để được
xem là “bí mật kinh doanh” và thông tin khác được DN bảo mật bằng cách áp dụng các biện
pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được
+ Dạng hành vi thứ nhất: tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng
cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó
~yếu tố cấu thành cơ bản của hành vi này là DN vi phạm sử sụng (các) biện pháp chống lại
biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin
~Hành vi tiếp cận, thu thập thông tin loại này không đòi hỏi người vi phạm phải lấy đi
phương tiện chứa thông tin đó, mà chỉ cần có sự sao chép hoặc thậm chí chỉ đọc thông tin đó
mà thôi. Hành vi vi phạm được xem là đã thực hiện khi người vi phạm tiếp cận, thu thập
được thông tin.
+ Dạng hành vi thứ hai: tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không
được phép của chủ sở hữu thông tin đó.
~Chủ thể thực hiện hành vi này cũng phải là DN. Cá nhân thực hiện hành vi phải là người
có thẩm quyền của DN hoặc bất kỳ người nào thực hiện hành vi vì lợi ích của DN và được
DN yêu cầu hoặc chấp thuận việc thực hiện hành vi đó.
~Nhóm hành vi này bao gồm hành vi tiết lộ và hành vi sử dụng thông tin bí mật trong KD.
2.2 Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác là hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép của
DN đối với khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác để buộc họ không giao dịch hoặc
ngừng giao dịch với DN khác đó.
- Đối tượng: khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác, chứ không phải đối với
khách hàng, đối tác kinh doanh của chính mình. DN khác phải là đối thủ cạnh tranh
của DN thực hiện hành vi ép buộc.
- Hành vi khách quan: đe dọa hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác KD của DN khác.
+Đe doạ: có thể là đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, sản nghiệp hay cơ hội kinh doanh của
khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác;
+Cưỡng ép: thường thể hiện ở việc DN thực hiện hành vi đặt khách hàng, đối tác kinh doanh
của DN khác vào tình thế phải làm theo ý muốn của DN thực hiện hành vi.
- Mục đích: nhằm ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác không giao
dịch hoặc ngừng giao dịch với DN khác đó.
+Mục đích cuối cùng của DN thực hiện hành vi là gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh của
mình do mất khách hàng, đối tác kinh doanh.
2.3 Cung cấp thông tin không trung thực về DN khác
Khái niệm: là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực về DN khác
gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của DN
đó.
- Chủ thể thực hiện hành vi: DN cạnh tranh với DN bị đưa thông tin không trung thực
[Trường hợp DN không cạnh tranh cung cấp thông tin không trung thực về DN khác
thì đó là hành vi xâm phạm quyền dân sự của DN khác].
- Đối tượng tác động của hành vi: DN cạnh tranh với DN thực hiện hành vi; cũng có
thể chỉ là một hoặc một số hàng hoá, dịch vụ hoặc một hoạt động kinh doanh nhất
định của doanh nghiệp đó.
- Phương thức vi phạm: trực tiếp hoặc gián tiếp
+Trực tiếp: cho phép người tiếp nhận thông tin nhận biết một cách trực tiếp người đưa thông
tin là tác giả của thông tin đó.
+Gián tiếp: sử dụng bên thứ ba làm công cụ phổ biến thông tin, mà bên thứ 3 có thể không
phải là DN cạnh tranh với DN bị đưa tin không trung thực.
- Công cụ, phương tiện: thông tin không trung thực có thể biểu hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng
- Hậu quả: gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh
doanh của DN bị đưa thông tin ko trung thực.
=>nếu cho tình huống: phải chứng minh hậu quả (1 trong 3 yếu tố hậu quả là được)
NĐ: Mọi hành vi cung cấp thông tin ko trung thực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình
trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị đưa thông tin ko trung
thực là hành vi bị cấm đúng hay sai
=>sai, bởi vì không phải mọi hành vi cung cấp thông tin ko trung thực gây ảnh hưởng xấu
đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị đưa thông tin
ko trung thực là hành vi bị cấm => mới chỉ đáp ứng về mặt hậu quả, những mặt khác của
ctklm thì chủ thể thực hiện là dn thì mới chịu sự điều chỉnh của LCT.
->bởi 1 cá nhân cung cấp thông tin k trung thực…=>sai
2.4 Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác
- Khái niệm: hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh
doanh hợp pháp của DN đó.
- Chủ thể thực hiện hành vi: DN cạnh tranh với DN bị gây rối
+Nếu DN thực hiện hành vi không phải là DN cạnh tranh với DN bị gây rối thì đó là hành vi
trái pháp luật =>làm phát sinh trách nhiệm dân sự theo quy định của BLDS
+Tuy nhiên, hành vi gây rối không nhất thiết phải do chính DN cạnh tranh với DN bị gây rối
trực tiếp thực hiện. Hành vi gây rối được coi là hành vi của DN cạnh tranh với DN bị gây rối,
nếu hành vi đó được bất kỳ người nào (như DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ) thực hiện theo
yêu cầu hoặc được sự chấp thuận của DN.
- Đối tượng tác động: hoạt động kinh doanh hợp pháp và bình thường của DN bị gây
rối. [có thể là toàn bộ hoạt động kd hoặc cũng có thể chỉ là hoạt động KD của một bộ
phận của DN bị gây rối, cản trở.]
- Phương thức thực hiện hành vi: trực tiếp hoặc gián tiếp
+Trực tiếp: do chính DN vi phạm trực tiếp thực hiện gây cản trở hoặc gián đoạn hoạt động
KD hợp pháp và bình thường của DN bị gây rối.
+gián tiếp: thực hiện thông qua người thứ ba là người bị xúi giục hoặc dược thuê hành vi đó
chỉ là gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh hợp pháp và bình thường của DN bị gây
rối, như thông qua việc tác động tới nhà cung cấp hoặc nhà phân phối của DN đó.
- Biện pháp áp dụng: có thể rất đa dạng
+Việc sử dụng các cản trở vật lý
+Biện pháp công nghệ tấn công vào hệ thống thông tin
2.5 Lôi kéo khách hàng bất chính
Theo K5 Đ45 LCT 2018 thì lôi kéo khách hàng bất chính được thực hiện bằng hình thức
“đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về DN hoặc hàng hoá, dịch vụ,
khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hoá, dịch vụ mà DN cung cấp nhằm thu
hút khách hàng của DN khác” hoặc “so sánh hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch
vụ cùng loại của DN khác nhưng không chứng minh được nội dung”.
- Chủ thể: Doanh nghiệp. [Lưu ý rằng, cá nhân thực hiện hành vi là người có thẩm
quyền của DN hoặc vì lợi ích của DN và/hoặc được DN yêu cầu, chấp thuận việc thực
hiện hành vi đó thì xem như đã thoả mãn yêu cầu về chủ thể của hành vi.]
- Công cụ: công cụ được DN sử dụng để lôi kéo khách hàng là sử dụng thông tin mà
(i) về tính chất, đó là những thông tin có tính gian dối, gây nhầm lẫn hoặc không chứng minh
được nội dung
(ii) về nội dung, thì đó là các thông tin về DN, hàng hoá, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao
dịch liên quan đến hàng hoá, dịch vụ
=>công cụ vi phạm là yếu tố đặc trưng của hành vi lôi kéo khách hàng bất chính.
- Mục đích: lôi kéo khách hàng của DN khác.
Lưu ý: LCT 2018 chỉ yêu cầu là hành vi đó có mục đích thu hút khách hàng mà không quan
tâm đến khía cạnh DN thực hiện hành vi đã đạt mục đích này hay chưa.=> Do đó, hành vi vi
phạm được coi là hoàn thành mà không cần xem xét đến việc DN thực hiện hành vi có thêm
khách hàng hoặc DN khác bị giảm sút số lượng khách hàng hay không.
- Các dạng hành vi
+Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
=>Dạng hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng trong hành vi “lôi
kéo khách hàng bất chính" có nhiều điểm khác biệt so với hành vi “cung cấp thông tin không
trung thực về doanh nghiệp khác”
● Nội dung thông tin là về DN khác và hướng đến việc hạ thấp uy tín, thương hiệu
của họ
● Hành vi “lôi kéo khách hàng bất chính" được thực hiện bằng hình thức đưa thông tin
gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng là thông tin gắn liền với hoạt động sản
xuất, kinh doanh của chính doanh nghiệp hành vi. Tức là DN thực hiện hành vi đã
truyền tải thông tin không chính xác về chính mình để thu hút khách hàng =>Hành vi
này được xem là bất chính do vi phạm nguyên tắc trung thực trong KD.

+So sánh hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của DN khác nhưng
không chứng minh được nội dung.
● Lưu ý: so với trường hợp đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng ở
hành vi 1 =>phạm vi thông tin mà DN sử dụng trong trường hợp được quy định tại
điểm b K5 Đ45 LCT chỉ là những thông tin về hàng hoá, dịch vụ
● Hành vi so sánh quy định tại điểm b K5Đ45 LCT 2018 là nhằm mục đích cạnh tranh,
bởi vậy
(i) hàng hoá, dịch vụ được so sánh với nhau phải cùng loại, nghĩa là có cùng chức năng và
mục đích sử dụng
(ii) hàng hoá, dịch vụ được so sánh với nhau là hàng hoá, dịch vụ của DN thực hiện hành vi
so sánh và hàng hoá, dịch vụ của DN khác.
=>Tính bất chính của dạng hành vi này không nằm ở sự so sánh, mà ở chỗ DN thực hiện
hành vi so sánh “không chứng minh được nội dung".

2.6 Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ.
Theo quy định tại K6Đ45 LCT 2018, “bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn
bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ DN khác cùng kinh doanh loại hàng hoá, dịch
vụ đó" là hành vi CTKLM bị cấm.
- Chủ thể thực hiện hành vi: các doanh nghiệp
- Đối tượng tác động: DN khác kinh doanh cùng loại hàng hoá, dịch vụ đó
Như vậy, để xác định vi phạm cần phải
+Xác định chính xác giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ thực tế của doanh
nghiệp
+Xác định giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ hoặc hoá đơn mua hàng hoá để bán
lại.
+Kết quả so sánh cho thấy giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ nhỏ hơn giá thành
toàn bộ.
Giá thành toàn bộ = giá thành sản xuất + chi phí lưu thông
Về hậu quả, hành vi vi phạm dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp
khác
+Có doanh nghiệp bị loại bỏ xảy ra trên thực tế
+Nguy cơ loại bỏ là hiện hữu nếu không được ngăn chặn kịp thời
3. XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
3.1 Nguyên tắc xử lý hành vi CTKLM
- Các chủ thể vi phạm PLCT phải bị xử phạt và bị buộc áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả.
*Thẩm quyền xử lý
- Hành vi hạn chế cạnh tranh: Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh (K3 Đ113 LCT 2018)
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Chủ tịch UBCTQG là cơ quan có thẩm quyền xử lý
(K5 Đ113 LCT 2018)
- Đối với các hành vi CTKLM được quy định trong luật khác thì thẩm quyền xử lý được xác
định theo quy định của PL khác có liên quan (K6 Đ113 LCT)
VD: hành vi CTKLM quy định tại Luật SHTT thì bị xử lý theo Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được ban hành căn cứ Luật này.
*Các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Điều 110 LCT 2018 quy định về hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả,
trong đó các hình thức xử phạt vi phạm áp dụng đối với hành vi hạn chế cạnh tranh và hành
vi CTKLM là như nhau.
-Chỉ có 2 biện pháp khắc phục hậu quả dành cho hành vi CTKLM
(i) cải chính công khai
(ii)các biện pháp cần thiết khác để khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm.
*Các hình thức xử phạt
- Có 2 hình thức xử phạt chính: (i) cạnh tranh, (ii) phạt tiền
- Mặc dù LCT cho áp dụng 1 trong 2 hình thức xử phạt chính nêu trên, nhưng trên thực
tế NĐ số 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
cạnh tranh CHỈ QUY ĐỊNH PHẠT TIỀN đối với các hành vi CTKLM (Điều 16-21
NĐ 75/2019)
- Hình thức xử phạt bổ sung: NĐ 75/2019. Cụ thể đối với hành vi xâm phạm thông tin
bí mật trong KD, hành vi ép buộc trong kinh doanh, hành vi cung cấp thông tin không
trung thực về DN khác và hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ
chỉ áp dụng 2 hình thức xử phạt bổ sung
(i) tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về cạnh tranh
(ii) tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
-Trong khi đó đối với hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác và hành vi lôi kéo
khách hàng bất chính còn áp dụng cả hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.
CHƯƠNG III: PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH.
1. Khái niệm và đặc điểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh
*Khái niệm [K2Đ3 LCT 2018]
- Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động
hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.
- K3Đ3 LCT 2018 giải thích “tác động hạn chế cạnh tranh" là tác động loại trừ, làm
giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.
+Thứ nhất, LCT 2018 đã thay đổi cách tiếp cận khi định nghĩa khái niệm “hành vi hạn chế
cạnh tranh” với mục đích bao trùm tất cả các hành vi có tác động hạn chế cạnh tranh và các
hành vi tiềm ẩn nguy cơ gây tác động hạn chế cạnh tranh.
+Thứ hai, LCT 2018 đã tách tập trung kinh tế ra khỏi các hành vi đương nhiên bị coi là hành
vi hạn chế cạnh tranh. Tập trung kinh tế không luôn có tác động bất lợi đến cạnh tranh mà
một số trường hợp có thể đem lại các ảnh hưởng tích cực đến cạnh tranh như làm tăng cường
năng lực cạnh tranh hoặc tăng cường khả năng áp dụng tiến bộ KHKT để nâng cao năng suất
hoặc năng lực sản xuất.
+Thứ ba, điểm mới của LCT 2018 trong việc xác định khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
còn là việc không giới hạn chủ thể thực hiện hành vi bị kiểm soát là các doanh nghiệp như
LCT 2004. Theo đó, các chủ thể khác ngoài DN như hiệp hội ngành nghề hoạt động tại VN,
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước cũng có thể trở thành chủ thể thực
hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. “Điều 8 LCT 2018 cũng cấm các hành vi có tác động hoặc
có nguy cơ gây tác động hạn chế cạnh tranh của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức, cá
nhân khác.”
*Đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh
- Chủ thể thực hiện hành vi: doanh nghiệp1 hoặc nhóm doanh nghiệp
=>mở rộng chủ thể bị kiểm soát. Theo LCT 2018, chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh còn bao gồm cả các cơ quan nhà nước khi thực hiện các hành vi gây cản trở cạnh tranh
trên thị trường, đây cũng bị coi là các hành vi có tác động hoặc có khả năng gây tác động đến
hoạt động cạnh tranh trên thị trường và bị nghiêm cấm theo K1Đ8 LCT

1
Theo quy định tại K1 Đ2 LCT 2018, DN được hiểu là các tổ chức, cá nhân kinh doanh, không phụ thuộc thành
phần kinh tế hay lĩnh vực kinh doanh, kể cả đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam.
=>Các tổ chức, cá nhân khác trong đó phổ biến nhất là các hiệp hội ngành, nghề hoạt động tại
VN, cũng có thể trở thành chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh khi thực hiện các
hành vi cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, ép buộc hoặc tổ chức để DN thực hiện hành vi
hạn chế cạnh tranh (K2Đ8)
- Hành vi hạn chế cạnh tranh được thực hiện bởi một chủ thể độc lập hoặc thông qua
sự liên kết của một nhóm chủ thể có vị trí hoặc có quyền lực nhất định trên thị
trường để có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh.
- Hành vi hạn chế cạnh tranh thường được thực hiện trên cùng một thị trường liên quan.
LCT 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, không
chỉ là thoả thuận ngang-thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường
liên quan, mà còn là các thỏa thuận dọc-thoả thuận giữa các DN ở các công đoạn khác
nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hoá,
dịch vụ nhất định.
- Mục đích của hành vi hạn chế cạnh tranh: nhằm loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc
cản trở cạnh tranh trên thị trường.
- Hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm (i) loại bỏ hoặc làm giảm mức
độ cạnh tranh trên thị trường; (ii) thay đổi cấu trúc cạnh tranh của thị trường hoặc
tương quan cạnh tranh giữa các DN dẫn đến giảm áp lực cạnh tranh giữa các DN.
- Tác động gián tiếp của hành vi (i) hiện tượng phá sản hoặc giải thể của các DN ko đủ
mạnh để tồn tại; (ii) ngăn cản sự tham gia thị trường của các DN mới và (iii) xâm hại
đến lợi ích của khách hàng, của người tiêu dùng..
THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN VÀ THỊ PHẦN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN
- Theo quy định tại K7 Đ3 và Đ9 LCT 2018, thị trường liên quan bao gồm thị trường
sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan
+Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế
cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
+Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hoá, dịch
vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể
với các khu lân cận.
THỊ PHẦN
XĐ thị phần của DN:
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của thị trường liên quan, thị phần của DN trên thị trường liên
quan được xđ theo một trong các PP sau:
- Tỷ lệ % giữa doanh thu bán ra của dn này đối với tổng doanh thu bán ra của tất cả các DN
trên TT liên quan theo tháng, quý, năm.
- Tỷ lệ % giữa doanh số mua vào của DN này đối với tổng doanh số mua vào của tất cả các
DN trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm
- Tỷ lệ % giữa số đơn vị HH, dv bán ra của DN này với tổng số đơn vị HH, DV bán ra của tất
cả các DN trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
- Tỷ lệ % giữa số đơn vị HH, dv mua vào của DN này với tổng số đơn vị HH, dv mua vào
của tất cả các DN trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
Thị phần kết hợp:
- TPKH là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các DN tham gia vào thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh hoặc tập trung KT.
- Khi xđ thị phần kết hợp cần đặt chúng vào trạng thái động với các diễn biến có thể xảy ra
trong tương lai gần.
XĐ sức mạnh kinh tế:
- Năng lực tài chính của DN cũng như là khả năng huy động vốn.
- Nluc về công nghệ của DN.
- Khả năng sử dụng các nhãn hiệu và thương hiệu nổi tiếng.
- Quy mô của hệ thống đại lý, phân phối.
- Tỷ lệ thị phần của DN hay nhóm DN trên thị trường liên quan.
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Theo quy định của LCT 2018, hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm
- Thoả thuận hạn chế cạnh tranh
- Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
- Khái niệm
K4 Đ3 LCT 2018 quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là “hành vi thỏa thuận giữa các bên
dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh". Như
vậy, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được định nghĩa một cách khái quát bao gồm các thoả
thuận theo đó nhiều bên (từ hai trở lên) thống nhất thực hiện các hành vi có tác động hoặc có
khả năng gây tác động “loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường".
-Thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm các thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc
+Thoả thuận ngang diễn ra giữa các chủ thể là đối thủ cạnh tranh của nhau trong khi thỏa
thuận dọc diễn ra giữa các bên kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi
sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hoá dịch vụ nhất định.
=>các thoả thuận ngang thường có tác động hạn chế cạnh tranh ở mức độ nghiêm trọng hơn
- Đặc điểm của thoả thuận hạn chế cạnh tranh
+Chủ thể tham gia: chủ yếu là các DN
+Nội dung của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh: các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường
mà các DN đang cạnh tranh với nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều
kiện ký kết hợp đồng và các yếu tố khác trong nội dung hợp đồng
+Hậu quả: làm giảm hoặc thậm chí làm triệt tiêu, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị
trường.
*Những thoả thuận hạn chế cạnh tranh cần kiểm soát
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh thường không nhằm nâng cao năng lực sản xuất mà để tìm
kiếm lợi nhuận bằng mọi giá. Tuy nhiên, không phải thoả thuận có tính chất hạn chế cạnh
tranh nào cũng cần phải kiểm soát vì trong thực tế, có những thỏa thuận mặc dù có tính chất
hạn chế cạnh tranh xong lại có tác động tích cực đến thị trường dưới những góc độ nhất định.
Ví dụ như thỏa thuận thuần tuý đóng vai trò (xét về chức năng) là bổ trợ đối với một thỏa
thuận hợp tác lớn và quan trọng hơn (thỏa thuận chính) mà bản thân những thỏa thuận chính
này lại có lợi cho nền kinh tế thì không nên bị coi là bất hợp pháp.
=>K2 Điều 14 LCT 2018 cho phép miễn trừ đối với một số thoả thuận dù có tính chất hạn
chế cạnh tranh nhưng được phép thực hiện theo pháp luật chuyên ngành do có một số tác
động tích cực nhất định như thỏa thuận trong lĩnh vực lao động, thỏa thuận hợp tác trong các
ngành, lĩnh vực đặc thù
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá và dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp
-Thoả thuận về giá thường thấy đối với những sản phẩm đồng nhất vì dễ đạt được sự thỏa
thuận.
-Các hành vi được liệt kê tại Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP bao gồm: áp dụng thống
nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở một mức cụ thể; áp
dụng công thức tính giá chung; duy trì tỷ lệ cố định về giá của các sản phẩm liên quan; không
chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất;
dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; không giảm giá nếu không thông báo với các thành
viên khác của thoả thuận; và sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về
giá bắt đầu. Ngoài các hành vi này, các thỏa thuận khác liên quan đến giá bị CQĐTVVCC
xác định là “gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh" cũng có thể bị
kết luận là hành vi thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
- Thỏa thuận ấn định giá gây hạn chế cạnh tranh vì thỏa thuận giá giữa các DN kinh doanh
trên một thị trường liên quan đã loại trừ một trong các yếu tố tạo nên sự quyết liệt của cạnh
tranh: yếu tố giá cả. Thỏa thuận ấn định giá có thể dẫn tới những hậu quả sau đây:
+ Bóc lột người tiêu dùng hoặc bóc lột đối tác kinh doanh.
+ Về bản chất, thỏa thuận ấn định giá làm cho các đối thủ cạnh tranh không còn cạnh
tranh với nhau về giá hoặc làm cho mức độ cạnh tranh về giá giảm và dẫn đến việc
khách hàng không còn cơ hội để lựa chọn mức giá tối ưu. Chính vì vậy, thỏa thuận
ấn định giá được coi là một dạng thỏa thuận có tác động hạn chế cạnh tranh
nhất.
Ví dụ:
+thoả thuận ấn định giá trực tiếp
trong ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, các DN sản xuất xi măng đã ký thoả thuận với
nhau thống nhất cùng tăng giá bán xi măng.
- chủ thể thực hiện hành vi: các DN đáp ứng điều kiện về là đối tượng áp dụng Luật
Cạnh tranh tại khoản 1 Điều 2 của Luật này.
- Nội dung: thoả thuận ấn định giá xi măng một cách trực tiếp
- Hậu quả:
+Trong kinh doanh, về nguyên tắc, giá cả do thị trường quyết định, nếu các bên thoả thuận ấn
định giá của hàng hoá có thể dẫn đến bóc lột người tiêu dùng.
Thoả thuận ấn định giá làm cho các DN sản xuất xi măng không còn cạnh tranh với nhau về
giá, làm cho mức độ cạnh tranh về giá giảm đã mất đi bản chất của cạnh tranh và dẫn đến
việc khách hàng không còn cơ hội để lựa chọn mức giá tối ưu (bóc lột người tiêu dùng)
+thoả thuận ấn định giá hàng hoá dịch vụ gián tiếp.
trong ngành công nghiệp dược phẩm, các công ty sản xuất thuốc A, B và C thỏa thuận với
nhau để sử dụng các biện pháp gián tiếp như việc phân phối độc quyền cho một số nhà phân
phối hoặc thiết lập các hệ thống mức giá chi phí chung. Các biện pháp này được thiết kế để
duy trì mức giá cố định, tăng giá một cách không công bằng, gây ra hậu quả tiêu cực đối với
người tiêu dùng. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp gián tiếp để
thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ mà không có lý do kinh doanh chính đáng, vi phạm
Luật Cạnh tranh 2018.
- Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp
hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Đây là dạng thỏa thuận nhằm giao cho từng DN những khu vực thị trường, những nhóm
khách hàng hoặc nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ cụ thể.
Nhóm thỏa thuận này có thể bao gồm những hành vi cụ thể sau:
+Thứ nhất, thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ. Đây là thỏa thuận nhằm thống nhất về số
lượng hàng hoá, dịch vụ; địa điểm mua bán hàng hoá, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi
bên tham gia thoả thuận. Thỏa thuận này xác định phạm vi thị trường của mỗi bên tham gia
thoả thuận và thông qua đó có thể xác lập vị thế độc quyền của từng bên tham gia thỏa thuận
trên thị trường được phân chia, đem đến hệ quả triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường được phân
chia.
+Thứ hai, thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Đây là thỏa thuận phân
chia thị trường nguyên liệu cho các bên tham gia thoả thuận. Theo đó, mỗi bên tham gia thỏa
thuận chỉ được mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.
+Nhóm thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp hàng hoá , dịch vụ có các
dấu hiệu sau:
● thị trường liên quan được chia thành các vùng thị trường theo số lượng hàng hoá, dịch
vụ hoặc phân chia theo địa điểm mua bán sản phẩm; phân chia theo khách nhóm
khách hàng hoặc nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho mỗi DN tham gia thoả thuận
● Mỗi DN tham gia thoả thuận có cơ hội trở thành độc quyền trong khu vực thị trường
được phân chia.
+Hậu quả trực tiếp của dạng thỏa thuận này là làm giảm áp lực cạnh tranh trên thị trường
được phân chia. Thỏa thuận này nguy hiểm cho cạnh tranh ở chỗ có thể tạo ra vị thế độc
quyền cho DN cụ thể đó trên thị trường được phân chia hoặc ít nhất là giảm bớt số lượng đối
thủ cạnh tranh của DN đã được phân chia thị trường trên thị trường đã được phân chia đó.

Ví dụ, trong ngành công nghiệp hoá chất, các công ty A, B và C đã thỏa thuận với nhau để
phân chia các khu vực hoặc địa bàn cụ thể, mỗi công ty sẽ có trách nhiệm sản xuất và cung
cấp hoá chất trong khu vực mà họ được phân chia mà không phải đối mặt với sự cạnh tranh
từ các công ty khác. Điều này có thể dẫn đến một thị trường không cạnh tranh, nơi các doanh
nghiệp không cần phải cạnh tranh với nhau để cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, gây ra thiệt
hại cho người tiêu dùng thông qua việc giữ giá cao và không có sự lựa chọn đa dạng. Điều
này sẽ bị coi là vi phạm Luật Cạnh tranh 2018 về thỏa thuận phân chia khách hàng, thị trường
tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa và dịch vụ.

- Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ
Tên gọi của thỏa thuận này đã thể hiện các nội dung của thoả thuận. Trước LCT, 2018, Điều
16 NĐ 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn LCT 2004 quy định các thỏa thuận này bao gồm hai
dạng thỏa thuận cụ thể sau:
+Thứ nhất, thoả thuận hạn chế lượng sản xuất, lượng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Đây là thỏa thuận thống nhất cắt giảm số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó.
+Thứ hai, thỏa thuận kiểm soát lượng sx, lượng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đây là
thỏa thuận thống nhất ấn định số lượng, khối lượng sx, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.
Nhìn chung, thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ là những toan tính tác động trực tiếp đến cán cân cung cầu hiện có trên
thị trường và thông qua đó tạo ra sự khan hiếm giả tạo của hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của
thoả thuận. Dạng thỏa thuận này gây lãng phí các nguồn lực xã hội do nó chủ động hạn chế
nguồn cung trong khi có khả năng đáp ứng vì thế dẫn đến hậu quả bóc lột người tiêu dùng.

Ba công ty thu mua cà phê tại tỉnh Đ thống nhất cùng thực hiện trong 2 tuần đầu tháng
12/2017 chỉ thu mua cà phê của nông dân mỗi ngày tối đa 60 tấn (giảm hơn 30% so với năm
trước) với giá 30 triệu đồng/tấn cà phê xô, thấp hơn giá thị trường 1 triệu đồng/tấn.)
Xem xét hành vi trên có thuộc hành vi hạn chế cạnh tranh theo Điều 11 Luật Cạnh tranh
2018. Việc 3 công ty thoả thuận kiểm soát số lượng mua hàng hoá và ấn định giá hàng hoá
theo Khoản 1,3 Điều 11 Luật này. Việc thỏa thuận thu mua có thể gây nên việc cung thấp hơn
cầu, 3 công ty trên sẽ dễ dàng nắm được thị trường, tăng giá bán ra, ảnh hưởng đến người tiêu
dùng. Việc thu mua với giá thấp hơn giá thị trường có thể gây ảnh hưởng đến nhà trồng cà
phê. Do đó đây được xem là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

- Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu
thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Thông đồng trong đấu thầu là việc các DN tham gia dự thầu thống nhất về cách thức để chỉ
định một, một số DN tham gia thoả thuận thắng thầu. Như vậy, thông đồng trong đấu thầu chỉ
bị coi là hạn chế cạnh tranh khi thoả mãn các dấu hiệu sau:
+Thứ nhất, chủ thể tham gia thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu là các DN dự thầu.
+Thứ hai, nội dung của thoả thuận là các DN tham gia dự thầu thống nhất để một hoặc một
số DN đã tham gia thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, hoặc cung ứng dịch
vụ.
+Thứ ba, bản chất hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu là các bên
tham gia thoả thuận đã loại bỏ sự cạnh tranh giữa họ với nhau để có lợi thế hơn so với các
DN không tham gia thoả thuận, triệt tiêu lợi ích kinh tế của việc mua sắm hàng hoá, dịch vụ
thông qua mời thầu.
Như vậy, việc thông đồng trong đấu thầu tự nó đã là hành vi hạn chế cạnh tranh, đi ngược lại
với mục tiêu của các bên dự thầu là tìm cách bán hàng hoá, dịch vụ với giá cả và các điều
kiện khác một cách cạnh tranh nhất. Thông đồng trong đấu thầu làm lãng phí giá trị xã hội, đi
ngược lại với mục đích đấu thầu, nên bị coi là một trong những thoả thuận hạn chế cạnh tranh
cần phải bị xoá bỏ vô điều kiện.
Ví dụ, trong một hợp đồng đấu thầu công cộng cho việc xây dựng một dự án cơ sở hạ tầng,
các doanh nghiệp X, Y và Z thống nhất để chỉ có một trong số họ sẽ tham gia vào đấu thầu và
được chọn làm nhà thầu chiến thắng. Các doanh nghiệp khác không được phép tham gia hoặc
họ sẽ tham gia chỉ để tạo điều kiện cho một doanh nghiệp cụ thể trong nhóm có thể thắng
thầu. Điều này tạo ra một môi trường không cạnh tranh trong đấu thầu, và ảnh hưởng đến tính
minh bạch và công bằng trong quá trình đấu thầu, cũng như gây ra thiệt hại cho ngân sách
công và tiêu cực đối với quyền lợi của cộng đồng. Thỏa thuận như vậy sẽ vi phạm Khoản 4
Điều 11 của Luật Cạnh tranh 2018.
- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh.
Về nguyên tắc, các DN có quyền tự mình quyết định việc giao dịch hay không giao dịch với
bất kỳ chủ thể nào. Tuy nhiên, thoả thuận giữa hai DN trở lên về việc không kinh doanh/giao
dịch với một chủ thể khác chắc chắn có tác động hạn chế cạnh tranh.
Nhóm hành vi này bao gồm 2 dạng cụ thể:
+Thứ nhất, thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho DN khác tham gia thị trường. Đây là
thỏa thuận theo đó các DN tham gia thoả thuận thống nhất không giao dịch với DN không
tham gia thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây
(i) Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử dụng
dịch vụ của DN không tham gia thỏa thuận hoặc;
(ii) Mua bán hàng hoá với giá đủ để DN không tham gia thỏa thuận không thể tham gia thị
trường liên quan.
+Thứ hai, thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho DN khác phát triển kinh doanh. Đây là
dạng thoả thuận thống nhất không giao dịch với DN không tham gia thỏa thuận hoặc cùng
hành động dưới một trong các hình thức sau đây
(i) yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân
biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của DN không tham gia thoả thuận
(ii)Mua bán hàng hoá, dịch vụ với mức giá đủ để DN không tham gia thỏa thuận không thể
mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
=>Dạng thỏa thuận này làm giảm năng lực cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh của các DN
tham gia thoả thuận trong dài hạn.
A và B là hai doanh nghiệp kinh doanh thiết bị y tế nhập khẩu tại Tp. HCM có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan là 32%, đã ký thỏa thuận hợp tác với nhau, trong đó có điều
khoản: (1) Thống nhất cùng tăng giá bán các mặt hàng lên 12% do giá đô la Mỹ tăng cao,
(11) Thống nhất yêu cầu các đại lý của mình không được phân phối các thiết bị y tế do
các doanh nghiệp khác nhập khẩu.
- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
tham gia thỏa thuận.
Đó là việc thống nhất không giao dịch với DN không tham gia thoả thuận và cùng hành động
dưới các hình thức quy định tại điểm a K1 và K2 Điều 19 NĐ 116/2005/NĐ-CP, cụ thể bao
gồm:
+Thứ nhất, các DN tham gia thỏa thuận cùng yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình
không mua, bán hàng hoá, không sử dụng dịch vụ của DN không tham gia thoả thuận.
+Thứ hai, các DN tham gia thỏa thuận yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, nhà bán lẻ
đang giao dịch với mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hoá của DN không tham gia
thoả thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá của DN không tham gia thoả
thuận.
+Thứ ba, các DN tham gia thỏa thuận cùng thống nhất mua bán hàng hoá, dịch vụ với mức
giá đủ để DN không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
+Thứ tư, các DN tham gia thỏa thuận cùng thống nhất mua bán hàng hoá, dịch vụ với mức
giá đủ để DN không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên quan.
Về cơ bản, các thỏa thuận này có các dấu hiệu giống với thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm,
không cho DN khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, mục đích của
thoả thuận loại bỏ là nguy hại hơn mục đích của thoả thuận ngăn cản ở chỗ, thỏa thuận ngăn
cản là cản trở sự gia nhập hoặc mở rộng kinh doanh của đối thủ. Trong khi đó, thoả thuận loại
bỏ nhằm đến việc trừ khử các DN đang hoạt động nhưng không tham gia thoả thuận ra khỏi
thị trường

- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
Các hướng dẫn tại Điều 17 NĐ 116/2005/NĐ-CP về nhóm thoả thuận hạn chế phát triển kỹ
thuật, công nghệ và hạn chế đầu tư có thể được tham khảo để nhận dạng các thoả thuận thuộc
nhóm này.

+Thứ nhất, thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật. Nội dung của thỏa thuận này là các bên
thống nhất mua phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu huỷ
hoặc không sử dụng.
+Thứ hai, thoả thuận hạn chế đầu tư. Nội dung của thỏa thuận này là các bên thống nhất
không đưa thêm vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng hàng hoá, dịch vụ hoặc để mở
rộng và phát triển hoạt động kinh doanh khác.
=>Các thỏa thuận này không chỉ có tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường mà còn có tác
động kìm hãm sự phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh
và vì thế có tác động rất xấu đến thị trường.
Ví dụ, trong ngành công nghiệp dược phẩm, các công ty A, B và C có thể thỏa thuận với
nhau không đầu tư thêm vốn để nghiên cứu và phát triển các loại thuốc mới, không cải tiến
công nghệ sản xuất để tăng hiệu suất và chất lượng sản phẩm, hoặc không mở rộng hoạt động
kinh doanh ra các lĩnh vực mới như dịch vụ y tế hoặc chăm sóc sức khỏe. Thỏa thuận này sẽ
hạn chế sự cạnh tranh và phát triển trong ngành công nghiệp dược phẩm, ảnh hưởng đến sự
lựa chọn và chất lượng của sản phẩm dược phẩm trên thị trường, và đồng thời gây thiệt hại
cho người tiêu dùng. Điều này sẽ bị coi là vi phạm Luật Cạnh tranh 2018 về thỏa thuận hạn
chế đầu tư và phát triển kỹ thuật, công nghệ.

- Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp
khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp
đồng.
Công ty sữa X sản xuất sản phẩm sữa tươi Himilk theo công thức mới có khả năng làm giảm
cholesterol cho người dùng. Công ty muốn đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm này nên đồng ý cho
nhiều đối tác phân phối sản phẩm sữa tươi Himilk. Tuy nhiên, Công ty X đưa ra điều kiện
muốn trở thành nhà phân phối sản phẩm Himilk, các công ty đối tác phải mua một số cổ phần
nhất định của công ty Cao Nguyên, nhằm đảm bảo bí mật công thức chế biến sữa Himilk
không bị rò rỉ ra bên ngoài trong quá trình phân phối và phải sử dụng dịch vụ quảng cáo của
Công ty X.
- Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
CTCP X là doanh nghiệp sản xuất nước uống đóng chai. Công ty TNHH Y chuyên phân phối
nước giải khát. Ngày 19/05/2015 hai công ty này kí kết hợp đồng phân phối với nội dung như
sau: Công ty Y cam kết chỉ phân phối mặt hàng nước uống đóng chai của X và không bán bất
cứ sản phẩm nào của đối thủ cạnh tranh của công ty X

- Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung
ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
Các doanh nghiệp lớn cung cấp mặt hàng mì ăn liền (có thương hiệu riêng) thoả thuận với
siêu thị C với nội dung sẽ không cung cấp mặt hàng mì ăn liền cho các siêu thị khác đồng
thời siêu thị C cũng sẽ không trưng bày các mặt hàng mì ăn liền của các thương hiệu khác.

- Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
PHÂN LOẠI CÁC THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
- Dựa vào mối quan hệ của các chủ thể tham gia thoả thuận
+Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang
+Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc
- Dựa vào mức độ tác động hạn chế cạnh tranh của thoả thuận
+Thoả thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng
+Thoả thuận hạn chế cạnh tranh ít nghiêm trọng
NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH BỊ
KIỂM SOÁT THEO LCT 2018
LCT 2018 cũng xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dựa trên 2 nguyên tắc
(i) cấm tuyệt đối
(ii) cấm có điều kiện
CẤM TUYỆT ĐỐI
Các dạng thoả thuận bị cấm tuyệt đối
K2 Đ12 LCT 2018 quy định các thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các DN quy định tại các
K4, 5, 6 Điều 11 LCT là các dạng thoả thuận bị cấm tuyệt đối.
(4) Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu
trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
(5) Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc
phát triển kinh doanh.
(6) Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia
thỏa thuận.
Việc áp dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối: Cấm tuyệt đối được hiểu là
+Thứ nhất, các thoả thuận nói trên bị cấm thực hiện trong mọi trường hợp mà (i) không cần
căn cứ vào việc các DN có cùng hoạt động trên một thị trường liên quan hay không, và (ii)
không cần phải đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh trên thị
trường
- Thứ hai, không áp dụng miễn trừ đối với các thỏa thuận trên
CẤM CÓ ĐIỀU KIỆN
Các dạng thoả thuận bị cấm có điều kiện:
Nguyên tắc cấm có điều kiện áp dụng đối với hai nhóm thoả thuận hạn chế cạnh tranh sau
đây:
+Thứ nhất, nhóm các thỏa thuận quy định tại K1 Đ12 LCT 2018, đó là các thoả thuận giữa
các DN trên cùng thị trường liên quan quy định tại các K1, 2, 3 Điều 11 LCT 2018. Các dạng
thỏa thuận này bị cấm mà không cần phải đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh trên thị trường.
+Thứ hai, nhóm các thỏa thuận quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 12 LCT 2018 khi các
thoả thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể trên thị trường, gồm
(i) các thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các DN trên cùng thị trường liên quan quy định tại
các K7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 LCT 2018
(ii) các thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các DN kinh doanh ở các công đoạn khác nhau
trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất
định quy định tại các K1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 LCT 2018.
- Các điều kiện áp dụng
+Thứ nhất, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tại các K1, 2, 3 Điều 11 LCT
2018 chỉ bị cấm khi các DN tham gia thoả thuận có cùng thị trường liên quan.
+Thứ hai, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các K7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 LCT
2018 chỉ bị cấm khi thỏa mãn hai điều kiện sau: (i) các DN tham gia thoả thuận có cùng thị
trường liên quan và (ii) thoả thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường

CHƯƠNG IV: TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ.
CHƯƠNG V: CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH VÀ TỐ TỤNG CẠNH TRANH

You might also like