Nam 3.1 Khái niệm về động viên • Động lực làm việc của người lao động bao gồm các yếu tố bên trong kích thích tinh thần làm việc của người lao động, giúp con người nỗ lực làm việc để hiệu quả công việc đạt được cao nhất nhằm tạo ra năng suất cao cho tổ chức • Động viên nhân viên là kích thích sự khao khát tự nguyện của người lao động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức. 3.2 Các học thuyết về động viên
3.2.1 Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow
120
70
50
2004 2005 2006 2007
Chart Title in here
3.2.2 Thuyết của David Mc. Clelland David Mc. Clelland cho rằng con người có ba nhu cầu cơ bản: nhu cầu thành tựu, nhu cầu liên minh và nhu cầu quyền lực. •Nhu cầu thành tựu: Những người có nhu cầu thành tựu cao là những người luôn có trách nhiệm trong công việc, luôn giải quyết công việc tốt hơn. Họ luôn cố gắng vượt qua khó khăn, trở ngại. • Nhu cầu liên minh: nhóm người này họ luôn mong muốn được sống gần gũi thân thiện với mọi người xung quanh, mong muốn được người khác yêu quý, chấp nhận. • Nhu cầu quyền lực: đây là nhu cầu kiểm soát và ảnh hưởng môi trường làm việc của người khác, nhiều nghiên cứu cho rằng các nhà quản trị là những người có nhu cầu quyền lực mạnh và nhu cầu thành tựu cao. 3.2.3 Lý thuyết ERG Giáo sư Clayton Alderfer đại học Yale đã tiến hành nghiên cứu và điều chỉnh lại những vấn đề trong nghiên cứu lý thuyết của Maslow. Lý thuyết này cho rằng những hành động của con người đều được hình thành từ ba nhóm: tồn tại, quan hệ và phát triển •Nhu cầu tồn tại: nhu cầu này gồm những đòi hỏi về vật chất tối cần thiết cho sự tồn tại của con người, con người không thể thiếu những nhu cầu này • Nhu cầu quan hệ: Con người không ai có thể sống độc lập một cá nhân riêng biệt được mà cần được đòi hỏi về những mối quan hệ giữa người này với người khác, giữa các cá nhân với nhau. Nhu cầu quan hệ gồm các nhu cầu xã hội và một phần nhu cầu tự trọng (từ bên ngoài). • Nhu cầu phát triển: Nhu cầu này đòi hỏi bên trong mỗi con người cho sự phát triển cá nhân, nó bao gồm nhu cầu tự thể hiện và một phần nhu cầu tự trọng (từ bên trong) 3.2.4 Thuyết hai nhân tố của F.Herzberg Frederick Herzberg cho rằng mối quan hệ của cá nhân với công việc là mối quan hệ cơ bản và thái độ hướng đến công việc có thể xác định được sự thành công hay thất bại của chính cá nhân đó. Theo học thuyết này, nhân tố bên trong sẽ liên quan đến sự hài lòng trong công việc còn nhân tố bên ngoài sẽ dẫn đến sự bất mãn trong công việc. 3.2.5 Thuyết mong đợi Lý thuyết này được dựa trên nghiên cứu cho rằng con người sẽ cố gắng nỗ lực làm việc khi biết rằng nỗ lực này sẽ mang lại kết quả như mình mong muốn. Victor H. Vroom thì cho rằng động viên chính là kết quả của những mong đợi của cá nhân. Sự động viên của con người phụ thuộc vào hai nhân tố: mức độ mong muốn thực sự của cá nhân đối với việc giải quyết công việc, cá nhân đó nghĩ về công việc thế nào và sẽ đạt đến nó như thế nào. 3.2.6 Thuyết về sự công bằng Bất cứ người lao động nào khi làm việc trong tổ chức họ đều mong muốn được đối xử công bằng, được đánh giá đúng năng lực của mình. Chính vì thế, họ thường so sánh những đóng góp mà họ cống hiến cho tổ chức với những lợi ích mà tổ chức mang lại cho họ (công bằng cá nhân). Đồng thời, họ cũng so sánh những đóng góp, cống hiến, đãi ngộ và phần thưởng của mình với những người khác (công bằng xã hội). 3.3 Ứng dụng các học thuyết trong động viên nhân viên 3.3.1 Động viên thông qua việc thiết kế công việc Bất kỳ công việc nào cũng nhằm thực hiện hai chức năng có liên quan với nhau: Với tổ chức nó được xem là đơn vị năng suất và đối với cá nhân người lao động nó được xem là đơn vị nghề nghiệp Để yếu tố động viên có hiệu quả thì việc thiết kế công việc phải đảm bảo tạo ra được những công việc ý nghĩa, hấp dẫn, và thách thức sự thông minh 3.3.2 Động viên thông qua phần thưởng Phần thưởng được hiểu là những gì thuộc về vật chất hoặc tâm lý mà người lao động nhận được từ việc thực hiện nhiệm vụ của họ. Phần thưởng phải thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người lao động: Mỗi người lao động sẽ có những sở thích khác nhau, do đó việc thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người lao động cũng không giống nhau. 3.4 Tạo động lực trong các tổ chức ở Việt Nam 3.4.1 Những vấn đề đặt ra trong tạo động lực Các nhà quản lý trong các tổ chức của Việt Nam chưa đặc biệt chú tâm nghiên cứu và ứng dụng các học thuyết về tạo động lực. Quan niệm về động lực và tạo động lực còn đơn giản, cứng nhắc, thiếu linh hoạt và kiến thức về tạo động lực thiếu tính hệ thống. Bên cạnh đó, vẫn còn mắc những sai lầm trong nhận thức và đưa ra các chính sách và biện pháp về tạo động lực. 3.4.2 Các chương trình quản lý nhằm tạo động lực Các nhà quản lý trong các tổ chức của Mỹ và châu Âu đã đưa ra một số chương trình quản lý. Các chương trình này cũng được nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức nước ngoài ở Việt Nam áp dụng. Có nhiều chương trình được các tổ chức Việt Nam ứng dụng như: Quản lý theo mục tiêu, chương trình suy tôn nhân viên, chương trình khuyến khích nhân viên tham gia vào quá trình ra quyết định, chương trình trả thù lao, phúc lợi linh hoạt. • Quản lý theo mục tiêu: tính cụ thể của mục tiêu, việc ra quyết định có sự tham gia, trong khoảng thời gian cụ thể và sự phản hồi kết quả. • Chương trình suy tôn nhân viên: người lao động được tuyên dương hay được trao tặng bằng khen trước sự chứng kiến của toàn thể những người lao động trong tổ chức. • Chương trình khuyến khích nhân viên tham gia vào quá trình ra quyết định: thu hút sự tham gia của nhân viên nhằm tận dụng toàn bộ năng lực của nhân viên và quá trình này được thiết kế để khuyến khích lòng tận tụy vì sự thành công của tổ chức. • Chương trình trả thù lao, phúc lợi linh hoạt: Phần thù lao này không phải lúc nào cũng cố định chính xác mà có thể thay đổi tùy thuộc tình hình thực hiện công việc của người lao động như thế nào.. LOGO