You are on page 1of 12

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH


*******

BUỔI THẢO LUẬN THỨ 3 :


TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Giảng viên: Ngô Thị Anh Vân


Sinh viên: Võ Thanh Tùng
MSSV: 1853801090086
Lớp: TMQT43.2
BUỔI THẢO LUẬN THỨ 3 :
TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Giảng viên: Ngô Thị Anh Vân

Sinh viên: Võ Thanh Tùng

MSSV: 1853801090086

Lớp: TMQT43.2
Bài tập 1: Khái niệm tài sản

Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho một vài ví dụ minh
họa về giấy tờ có giá.

Trả lời

Giấy tờ có giá được hiểu là giất tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong
giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu,
tín phiếu, kỳ phiếu,…

Cơ sở pháp lý: Theo Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của Tổ chức
tín dụng ban hành kèm Quyết định 7/2008/QĐ-NHNN ngày 11/08/2009) của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước thì “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng hát hành để huy
động vốn, trong đó xác định nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác nhau giữa tổ chức tín dụng và người mua”.

Câu 2: Trong bài viết Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, tác giả Nguyễn Minh
Oanh có coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”
là tàu sản không?

Trả lời

Tác giả Nguyễn Minh Oanh có coi “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” là tài sản vì trong bài viết có đoạn: “Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng kí ô tô, sổ
tiết kiệm… không hải là giất tờ có giá. Nếu cần hải xem xét thì nó chỉ đơn thuần được coi là
một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó”.

Như vậy, tác giả xác định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không hải là giất tờ có giá mà là vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ
đó. Mà vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó thì người đó nắm giữ được, quản
lý được. Từ đó có thể nói “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” chính là vật mà căn cứ theo điều 163 BLDS 25 là một loại tài sản.

Câu 3: Trong bài viết Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện để
đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tác giả Đỗ Thành Công có coi “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài sản không?

Trả lời

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
(QSHN) thể hiện sự công nhận của Nhà nước đối với QSDĐ, QSHN hợp pháp của người sư
dụng và đó là chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước với người sử
dụng hoặc người sở hữu (căn cứ theo bài viết của tác giả Đỗ Thành Công).

Hai loại giấy tờ nêu trên chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của người
đứng tên trên giấy tờ đó (Các loại tài sản trong Luật Dân sự Việt nam-Th.S Nguyễn Minh
Oanh).

Do đó, hai loại giấy tờ này không phải giấy tờ có giá nên không được coi là một loại
tài sản.

Câu 4: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không?

Trả lời

Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” không được coi là giấy tờ có giá.

Theo quyết định số 06, Bản án số 39 và quy định tại khoản 16, điều 3, Luật Đất đai
nêu rõ “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”. Như vậy, hai loại giấy tờ trên không phải là
giấy tờ có giá.

Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?

Trả lời

Trên thực tiễn xét xử,‘’ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà’’ không phải là tài sản. Tuy nhiên, trong Quyết định số 06 và Bản án số 39 chưa có sự
thống nhất về việc định danh hai loại giấy tờ này có phải là tài sản hay không.

Vì :

+ Trong Quyết định trên có nêu rõ nhận định của TAND tỉnh Khánh Hòa về định nghĩa của
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất :’’ … chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử
dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản…’’

+ Trong Bản án số 39, TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long lại nhận định : ‘’ … là chứng
thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,... cho thấy nội dung này hàm chứa một
số quyền về tài sản gắn liền với đất…’’
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm
tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài)

Trả lời

Theo tôi, hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến ‘’ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà’’ nhìn từ khái niệm tài sản là chưa thỏa
đáng.

Theo nhận định của TAND Tỉnh Khánh Hòa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không phải là tài sản và không thể xem là giấy tờ có giá vì vậy không thể áp dụng những
biện pháp dân sư đối với những giấy tờ này.

Song, nếu quy chiếu vào khoản 1, điều 105 BLDS 2015 :’’ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản.’’ thì giấy chứng nhận sử dụng đất là một vật và nó vẫn có thể được
coi là tài sản. Điều này hoàn toàn hợp lí bởi giấy chứng nhận sử dụng đất tồn tại dưới một
hình thức vật chất nhất định, có hình dạng cụ thể và trong trong khả năng chiếm hữu, sở hữu
của con người.

Câu 7: Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Trả lời

Nếu ta áp dụng BLDS năm 2015 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà là tài sản, mà cụ thể ở đây là vật. Ta xét khoản1, điều 105, BLDS năm 2015

Điều 105. Tài sản

- Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có đủ điều kiện cần thiết
để được xem là vật:

+ Là một bộ phận của thế giới vật chất (có cả hình dạng cụ thể là tờ giấy)

+ Tồn tại khách quan với ý chí con người.

+ Con người có khả năng chiếm hữu, làm chủ vật thông qua đăng ký, nắm giữ, chiếm giữ,
quản lý.

+ Có giá trị sử dụng là được dùng để chứng minh quyền sử dụng đất /quyền sở hữu nhà hợp
pháp của người sử dụng.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

Trả lời

Trong bản án số 39, Tòa án không đề cập đến việc giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà là tài sản.

Tòa án cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý (ta cần
tránh nhầm lẫn với giấy tờ có giá) để nhà nước xác nhận quyền sử dụng sở hữu đất, quyền sở
hữu nhà và các tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất. Từ đó,
Tòa án cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hàm chứa một số quyền về tài sản gắn
liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.

Theo ý kiến của em, tòa án có thể xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài
sản, mà cụ thể ở đây là vật (theo như lập luận ở câu số 7). Khi tòa án xác định giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là tài sản thì tòa án có thể căn cứ vào khoản 1, điều 166, BLDS năm
2015 để giải quyết vụ án.

Điều 166. Quyền đòi lại tài sản

- Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.

+ Ông B và bà H có đầy đủ chứng cứ hợp pháp chứng minh giấy sử dụng quyền sử dụng đất
số AM 090902 thuộc quyền sở hữu của mình.

+ Bà T do đã rút yêu cầu đòi nợ nên việc bà T chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AM 090902 là trái pháp luật.

Câu 9: Bitcoin là gì ?

Trả lời

Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng
phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị có
kết nối internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào. Bitcoin có
cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình: Không có một ngân hàng trung
ương nào quản lý nó và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức mạng ngang hàng trên
Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân chia theo lịch trình định sẵn
dựa trên các thuật toán. Bitcoin là loại tiền mã hoá điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được
sử dụng rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Đến tháng 7/2018, Bitcoin là loại tiền mã
hóa có giá trị thị trường lớn nhất thế giới.
Câu 10: Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không ?

Trả lời

Theo Tòa án : “Cho đến thời điểm hiện nay chưa có bất cứ một văn bản quy phạm
pháp luật nào quy định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là hàng hóa, dịch vụ, sử dụng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Cụ thể theo điều 163 BLDS 2005 quy định : “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và theo điều 3 Luật Thương mại quy định
: “Hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
những vật gắn liền với đất đai” Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam không chấp
nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số
96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp
pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.”, “pháp luật hiện hành không quy định ngành
nghề kinh doanh nạp tiền ảo và cũng không có khái niệm tiền ảo, đến nay chưa có văn bản
quy phạm pháp luật nào điều chỉnh về việc mua bán tiền ảo trên Internet.”

Bởi hiện nay chưa có bất cứ một quy định pháp luật nào điều chỉnh tài sản ảo, Bitcoin
cũng không được thừa nhận như là một loại tiền tệ hay một phương tiện thanh toán hợp pháp
nên Bitcoin không là tài sản theo pháp luật Việt Nam.

Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam

Trả lời

Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt
Nam là hoàn toàn hợp lý. Bởi theo điều 163 BLDS 2005 quy định tài sản bao gồm “vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Vậy, BLDS 2005 mới chỉ liệt kê những đối tượng có thể
được coi là tài sản mà không đưa ra khái niệm cụ thể về tài sản, cũng không đưa ra tiêu chí
chung để làm căn cứ xác định đối tượng nào đó có phải là tài sản hay không, hiện tại cũng
chưa có bất kỳ quy định nào hay khung pháp lý quản lý những giao dịch Bitcoin từ phía
Chính phủ. Năm 2014, Ngân hàng nhà nước phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin,
không công nhận Bitcoin là tiền tệ hay phương tiện thanh toán. Ngoài ra, Bộ Công Thương
cũng phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin, không công nhận Bitcoin là hàng hóa
hay dịch vụ. Như tòa án đã phân tích và chứng minh thì “khung pháp lý về tiền kỹ thuật số
(tiền ảo) cũng như hành vi mua bán tiền ảo qua mạng Internet đang được hoàn thiện, hiện
chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa và
mua bán tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho phép và chịu
thuế”. Vậy có thể thấy được rằng: việc giao dịch, sở hữu, đào Bitcoin tại Việt Nam không
phải là vi phạm pháp luật mà chưa có quy định nào điều chỉnh, quan điểm và cách giải quyết
vụ án của Tòa là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tế và pháp luật hiện hành, bảo vệ
quyền lợi tốt nhất cho người dân.

Theo tôi, tiền ảo cũng nên được xét như là một loại tài sản và cần có điều luật cụ thể
để điều chỉnh về loại “tài sản” này bởi trên thực tế, tuy không có bất kỳ một quy định nào
bảo hộ cho loại “tài sản” này nhưng vẫn có rất nhiều giao dịch dân sự diễn ra và các giao
dịch đó có trị giá lên đến hàng tỷ đồng. Ngày 21 tháng 8 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã
ký phê duyệt đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền
ảo, trong đó có Bitcoin. Đây có lẽ là tín hiệu chính thức từ phía Chính phủ rằng các giao
dịch Bitcoin sẽ được hợp pháp hóa vào tháng 8 năm 2018, phân Bitcin vào danh mục “tài
sản ảo”.

Xét tiền ảo như một loại tài sản bởi nó là kho tài nguyên trên mạng máy tính giống
như kho vàng dưới lòng đất, xác định trị giá bằng tiền, có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, phải dùng công sức, trí tuệ và máy móc hỗ trợ mới có thể khai thác được nó. Điều
181 BLDS 2005 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Con người không thể thông qua các
giác quan của mình để tiếp cận được với quyền tài sản nên quyền tài sản không tạo cho mọi
người khả năng tiếp cận mang tính vật thể mà cần phải xác định loại tài sản này thông qua
giá trị thể hiện bằng tiền. Nhờ thông qua giá trị bằng tiền của quyền tài sản mà chúng ta có
thể tiếp cận và tạo nên khả năng cảm nhận đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối với
“tài sản ảo”, đó là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Điều đó cho thấy, “tài sản ảo” có
bản chất “rất gần” với quyền tài sản và do đó việc thừa nhận nó như một loại tài sản cũng là
hợp lý. Về giá trị kinh tế và giá trị sử dụng, “tài sản ảo” cũng đáp ứng được rất nhiều nhu
cầu trong cuộc sống con người. Hiện nay trên thế giới, các quốc gia cũng coi “tài sản ảo”
như một loại tài sản và có những khung pháp lý nhất định thừa nhận và bảo hộ cho loại tài
sản này.

Bài tập 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu

Câu 12: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?

Trả lời

Đoạn “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, công khai…” của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.

Theo em, khẳng định này của Tòa án là không đúng vì chị Nhữ Thị Vân đã khai ông
nội chị thuê nhà số 2 Hàng Bút của cụ Dư Thị Hảo từ năm 1954, hàng năm gia đình chị đóng
tiền thuê nhà cho ông Chính là con cụ Hảo và sau khi ông nội chị chết năm 1995 thì gia đình
chị không đóng tiền thuê nhà cho ông Chính nữa. Như vậy, gia đình chị chỉ được xem là
“chiếm hữu” nhà đất khi chấm dứt việc trả tiền thuê nhà cho ông Chính năm 1995, tính đến
thời điểm xảy ra tranh chấp là chưa đủ 30 năm.

Câu 13: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?

Trả lời

Đoạn “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, công khai…” của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.

Theo em, khẳng định này của Tòa án là không hợp lý vì như đã giải thích ở câu trên,
gia đình chị Vân chiếm hữu nhà đất chưa tới 30 năm. Thêm vào đó, đây không phải là chiếm
hữu ngay tình căn cứ theo Điều 189 Bộ luật dân sự 2005: “người chiếm hữu tài sản không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc
chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”. Chị Vân và các thành viên khác trong
gia đình biết nhà đất là của cụ Hảo cho gia đình chị thuê nhưng vẫn ngang nhiên chiếm hữu
nên không thể cho là ngay tình được.

Câu 14: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?

Trả lời

Đoạn “...chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu
là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn
khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng
minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001).”

Tôi cho rằng việc Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất
có tranh chấp trên 30 năm là hợp lí vì khoản 1 Điều 182 BLDS 2015 quy định: “Chiếm hữu
liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh
chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”. Và Quyết định trên của Tòa
án cho thấy gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà có tranh chấp từ năm 1954, phía nguyên đơn
có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh
(chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đồng thời, bản
án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm có quyết định của Tòa án chấp nhận yêu cầu
đòi nhà cho thuê được thực hiện vào năm 2005 và năm 2011. Vì các lẽ trên, theo quan điểm
của tôi, Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm
là hợp lí.

Câu 15: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?

Trả lời

Đoạn“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, ... chị Vân
khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở,
sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.”

Tôi cho rằng việc Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm là hợp lí vì khoản 1 Điều 183 BLDS 2015 quy định: “Chiếm
hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu diếm; tài
sản đang chiếm hữu được thực hiện theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo
quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.”. Và Quyết định trên của Tòa án cho thấy chị Vân
đã chiếm hữu và sống tại căn nhà trên mà không hề giấu giếm, xem đó như căn nhà của
mình; theo đó, chị còn công khai bán căn nhà cho anh Sơn, chị Ngọc. Vì các lẽ trên, theo
quan điểm của tôi, Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm là hợp lí.

Câu 16: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án?

Trả lời

Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp dựa trên
đoạn: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975
nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường
Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân
trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ hào không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.”

Theo em khẳng định của Tòa án còn nhiều thiếu sót vì:

- Tòa án có giả định rằng: trong trường hợp có căn cứ xác định nhà đất nêu trên vắng chủ và
không có sự quản lý của nhà nước, thì cụ Hảo không còn là chủ sở hữu, mà quyền sở hữu
thuộc về chị Vân theo khoản 1 điều 247 BLDS 2005.

- Tuy nhiên theo điều 10 Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở
được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991:
3. Trong trường hợp trước khi đi vắng, nếu chủ sở hữu nhà ở không có uỷ quyền quản lý hợp
pháp thì công nhận quyền sở hữu cho bố, mẹ, vợ, chồng, con của người đó đang quản lý, sử
dụng nhà ở đó; nếu không ó những người nói trên, thì công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho
người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý,
sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực.”

Ta thấy, ông Chính không chứng minh được cụ Hảo ủy quyền quản lý nhà cho mình,
như vậy ta xem như cụ Hảo không có ủy quyền quản lý hợp pháp cho bất kỳ ai. Căn cứ theo
điều 10 Nghị quyết số 58 nêu trên, quyền sở hữu thuộc về con của cụ Hảo là ông Chính.

- Ngoài ra theo điều 189 BLDS 2005:

“Điều 189. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình

Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà
không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”

Căn cứ theo định nghĩa trên, ta không thể xác định chị Vân là bên ngay tình vì theo
lời khai của chị Vân, chị biết căn nhà thuộc quyền sở hữu của cụ Hảo và do ông Chính cho
gia đình chị thuê, nhưng lại ngưng nộp tiền thuê nhà sau năm 1995. Vì vậy không thể nói chị
Vân không biết về việc chiếm hữu này là không có căn cứ pháp luật.

Câu 17: Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

Trả lời

Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp, vì
như đã giải thích ở câu 16, không thể xác định chị Vân là bên ngay tình vì chị Vân có biết về
quyền sở hữu nhà của cụ Hảo nhưng vẫn chiếm hữu mà không dựa trên căn cứ của pháp
luật.

Ngoài ra nếu xét căn nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội thuộc
diện nhà vắng chủ thì quyền sở hữu sẽ thuộc về con cái của bà Hảo chứ không phải chị Vân.
Nếu xét căn nhà theo diện không vắng chủ thì do cụ Hảo đã mất nên căn nhà sẽ thuộc về
những người thừa kế, cũng là con của cụ Hảo.

Bài tập 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản

Câu 18: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Trả lời
Theo khoản 1 điều 441 BLDS 2015, trước khi ghe xoài được giao cho bà Dung thì bà
Thuỷ là người phải chịu rủi ro, còn sau khi ghe xoài đã được giao cho bà Dung thì bà Dung
sẽ là người phải chịu rủi ro

Câu 19: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sỏ hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trả lời

Theo khoản 1 điều 161 BLDS 2015, kể từ khi số xoài này được chuyển giao cho bà
Dung, bà Dung đã là chủ sở hữu của nó, sau đấy mới xảy ra sự kiện cháy chợ, lúc đó chủ sở
hữu vẫn là bà Dung.

Câu 20: Bà dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Trả lời

Theo khoản 2 điều 440 BLDS 2015, bà Dung có nghĩa vụ phải trả tiền tại thời điểm
nhận ghe xoài. Khi ghe xoài bị hư, vì bà Dung đã là chủ sở hữu của nó (Theo khoản 1 điều
161 BLDS 2015) nên bà Dung phải tự chịu rủi ro cho ghe xoài của mình (Theo khoản 1 điều
162 và khoản 1 điều 441 BLDS 2015), việc này không liên quan đến việc mua bán ghe xoài
nên bà Dung vẫn phải trả tiền cho bà Thuỷ theo thoả thuận.

You might also like