You are on page 1of 11

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM

BÀI THẢO LUẬN THÁNG THỨ HAI (TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ)
Bộ môn: Quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Giảng viên: Lê Thanh Hà

Lớp: TM45.1

Nhóm: 05

STT HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH VIÊN


1 Trương Thị Mai Anh 2053801011021
2 Phùng Nguyễn Ngọc Ánh 2053801011024
3 Lê Hoàng Chương 2053801011035
4 Nguyễn Trung Đức 2053801011050
5 Nguyễn Minh Dương 2053801011055
6 Nguyễn Quỳnh Giang 2053801011067
7 Lê Đại Hải 2053801011076

 Hình thức sở hữu

NIÊN KHÓA 2020-2024


Câu 1: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình thức sở hữu
trong BLDS.
Có 6 hình thức sở hữu trong BLDS năm 2005. Các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp.
Cơ sở pháp lý Điều 172 BLDS năm 2005.
Câu 2: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2015? Nêu rõ các hình thức sở hữu
trong BLDS
Có 3 hình thức sở hữu trong BLDS 2015. Gồm:
- Sở hữu toàn dân (Điều 197 đến Điều 204 BLDS năm 2015)
+ Theo Điều 197 BLDS năm 2015 sở hữu toàn dân là: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
- Sở hữu riêng (Điều 205 và Điều 206 BLDS năm 2015)
+ Theo Điều 205 BLDS năm 2015 sở hữu riêng là:
“1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.
- Sở hữu chung (Điều 207 đến Điều 220 BLDS năm 2015)
+ Theo Điều 207 BLDS năm 2015 sở hữu chung là:
“1. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.
2. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất”.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi về hình thức sở hữu giữa hai Bộ luật
trên.
- Sở hữu Nhà nước (BLDS năm 2005) – sở hữu toàn dân (BLDS năm 2015):
Trong Điều 200 BLDS năm 2005 quy định: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao
gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và

1
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các
tài sản khác do pháp luật quy định”.
Còn BLDS năm 2015 (Điều 197) quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước
đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý”.
Xét thấy hai hình thức này đều được giải thích theo cách giống nhau tuy nhiên việc thay đổi
từ sở hữu Nhà nước thành sở hữu toàn dân đã góp phần làm rõ hơn nội dung, bản chất của loại
hình sở hữu này.
- Sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể (BLDS năm 2005) – sở hữu riêng
(BLDS năm 2015):
Nếu trong BLDS năm 2005, sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu của tổ chức được phân
chia thành các mục khác nhau thì tại BLDS năm 2015, 3 loại hình thức sở hữu này được gộp
thành sở hữu riêng được quy định tại khoản 1 Điều 205 Bộ luật này: “Sở hữu riêng là sở hữu
của một cá nhân hoặc một pháp nhân”. Việc gộp chung các hình thức lại nhằm tạo sự ngắn gọn,
loại bỏ những yếu tố như rườm rà, khó hiểu, gây trở ngại cho việc áp dụng bộ luật.
- Sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể, sở hữu chung (BLDS năm 2005) – sở hữu chung
(BLDS năm 2015):
Nếu trong BLDS năm 2005, sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể mặc dù vẫn có hình thức
thuộc sở hữu chung song lại thuộc mục riêng thì trong BLDS năm 2015, các loại hình trên
được gộp thành hình thức sở hữu chung. Cũng giống như việc gộp sở hữu tư nhân, sở hữu tập
thể, sở hữu của tổ chức thành sở hữu riêng thì việc gộp sở hữu của tổ chức, sở hữu tập thể, sở
hữu chung thành hình thức sở hữu chung nhằm tạo ra sự ngắn gọn, bớt rườm rà, dễ dàng hơn
trong việc áp dụng pháp luật.
 Một số vấn đề liên quan đến chế định thừa kế
Câu 1: Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di
chúc có giá trị pháp lý không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc không có giá
trị pháp lí. Căn cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 quy định về Di chúc hợp pháp:
“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng
ép”.
Câu 2: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc năm 2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định như
vậy?
Theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ Như không trong trạng thái minh mẫn.
Tòa phúc thẩm quyết định như vậy vì lý do Bệnh xá Công an tỉnh An Giang không có chức
năng khám sức khỏe để lập di chúc.

2
Dẫn chứng cho câu trả lời: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận di
chúc của bà Như lập ngày 1-1-2005 là di chúc hợp pháp vì lý do Bệnh xá Công an tỉnh An
Giang không có chức năng khám sức khỏe để lập di chúc là không có căn cứ”.
Câu 3: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ
Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
Trong vụ việc nêu trên, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ Như có minh
mẫn.
Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy vì: ông On, ông Kiếm và ông Hiếu đều có lời khai
xác nhận tại thời điểm bà Như lập di chúc, trạng thái tinh thần của bà Như vui vẻ, minh mẫn.
Bên cạnh đó, bác sĩ Tăng Diệu Hiền có kết luận tình trạng sức khỏe và tinh thần của bà Như
được ghi trong Giấy chứng nhận khám sức khỏe ngày 26/12/2004, trước ngày bà Như lập di
chúc 05 ngày không mâu thuẫn với lời khai xác nhận của ông On, ông Kiếm và ông Hiếu.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Theo nhóm em hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý khi chỉ ra được bản di
chúc này thể hiện đúng ý chí của bà Như vì được bà Như lập ra khi còn minh mẫn và sang suốt
và yêu cầu ông Truyền phải tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật về yêu cầu phản tố xin
được hưởng di sản theo di chúc của bà Như.
Câu 5: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc năm 2001 cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định như
vậy?
Trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết minh mẫn
đoạn trong Quyết định có nêu: “Tại tờ khai của ông Dầm ngày 7-2-2002 (BL 62) và của ông
Thắng ngày 1-4-2002 (BL 64) đều xác nhận khi lập di chúc, cụ Biết là người minh mẫn và đọc
(nói) nội dung di chúc cho ông Thắng viết. Mặt khác, ngày 4-1-2001 cụ Biết ký (điểm chỉ) hợp
đồng cho bà Mỹ thuê vườn cây với thời hạn 4 năm, theo lời khai của bà Mỹ ngày 11-3-2002
(BL 25) thì trước ngày ký hợp đồng một tuần, cụ biết có là người minh mẫn, còn chỉ dẫn cho bà
Mỹ cách chăm sóc vườn cây. Do đó, có căn cứ xác định cụ Biết lập di chúc ngày 3-1-2001
trong tình trạng minh mẫn. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ Biết lạp di chúc ngày 3-1-2001
đã 84 tuổi; trước đó vào tháng 11, 12 năm 2002 cụ Biết phải nhập viện điều trị với triệu chứng
theo chuẩn đoán là “thiếu máu cơ tim, xuất huyết não, cao huyết áp; cụ Biết lạp di chúc ngày 3-
1-2001 thì ngày 14-1-2001 cụ Biết chết, để cho rằng cụ Biết lập di chúc trong tình trạng thiếu
minh mẫn , sáng suốt là không có căn cứ”.
Câu 6: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ
Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi di chúc năm 2001 cụ Biết có minh mẫn.
Theo lời khai của ông Dầm, ông Thắng và bà Mỹ cho biết ông Dầm là người minh mẫn và

3
không có chứng cứ nào chứng minh ông Biết không sáng suốt, minh mẫn khi lập di chúc. Đồng
thời, trong bản án có đoạn: “Tại các quyết định giám đốc thẩm số 61/GĐT-DS ngày 25-5-2004
và số 231/2006/DS-GĐT ngày 28-9-2006, Tòa dân sự Tóa án nhân dân tối cao đã hủy các bản
án dân sự phúc thẩm số 48/DS-PT ngày 21-4-2003 và số 122/2006/DS-PT ngày 22-6-2006 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm lại theo hướng công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày 3-1-2001 là hợp pháp
phần di sản của cụ Biết”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa giám đốc thẩm
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm đó là công nhận bản di chúc này là hợp pháp.
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định di chúc hợp pháp khi: “1. Di
chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ,
cưỡng ép;”. Trong trường hợp này cụ Biết hoàn toàn minh mẫn sáng suốt. Mặt khác di chúc
của cụ Biết là di chúc miệng. Theo Khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc
miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng,
người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên
hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm
chứng.”. Trong trường hợp của cụ Biết thì khi cụ Biết lập di chúc thì có ông Thắng và ông Dầm
làm chứng và được cụ Thắng ghi chép lại. Sau khi viết xong ông Thắng và ông Dầm kí tên làm
chứng vào bản di chúc.
Như vậy với những điều kiện thỏa mãn trên thì việc Tòa giám đốc thẩm công nhận tờ di
chúc lập ngày 03/01/2001 là hợp lý.
Câu 8: Di tặng là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng
phải được ghi rõ trong di chúc.
Cơ sở pháp lý: Điều 646 BLDS năm 2015: “1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một
phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2. Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và
còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế.
3. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ
trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì
phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
4
Câu 9: Để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều kiện gì? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
- Di tặng cũng là di chúc. Vì vậy, để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều
kiện có trong di chúc.
- Yêu cầu về nội dung được quy định tại Điều 653 BLDS năm 2005 về Nội dung của di chúc
bằng văn bản:
“1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá
nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi
trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
- Yêu cầu về hình thức được quy định từ Điều 655 đến Điều 658, BLDS 2005.
Câu 10: Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho ai? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?
- Trong Quyết định năm 2009, cụ biết đã di tặng cho ba người cháu ngoại là ông Hùng, bà
Diễm và ông Hoàng.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Cụ Biết di tặng tài sản riêng và chung cho ba cháu ngoại là ông Hùng, bà Diễm và ông
Hoàng”.
Câu 11: Di tặng trên có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?
Di tặng trên không được Toà án chấp nhận.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Toà án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất quyền
hưởng di sản” lập ngày 20/9/1997 và “Tờ di chúc” ngày 15/9/2000 bởi các văn bản này không
phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến di
tặng.
Hướng giải quyết của Toà án là hợp lí. 

5
Bởi lẽ căn cứ Khoản 5, Điều 667, BLDS 2005 thì khi một người để lại nhiều bản di chúc đối
với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật. Vì vậy chỉ có “Tờ di chúc”
lập ngày 03/01/2001 có hiệu lực pháp luật, mà trong tờ di chúc này không có đề cập tới di tặng.
Tuy nhiên, BLDS quy định, người để lại di sản chỉ “dành một phần di sản để di tặng cho người
khác” nhưng BLDS không cho biết “một phần di sản” là như thế nào. Theo đó, bà Biết đã di
tặng toàn bộ di sản của mình và do đó không phù hợp với quy định trên. 
13, Truất quyền thừa kế là gì? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Truất quyền có nghĩa là không cho hưởng cái quyền đáng được hưởng. Truất quyền thừa
kế có thể hiểu là không cho hưởng quyền thừa kế. Nếu không có việc truất quyền này thì đương
nhiên người đó sẽ được hưởng thừa kế. Điều này được quy định tại Khoản 1 Điều 626 BLDS
năm 2015:
“Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
…”
14, Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
15.Truất quyền trên của cụ Biết có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
Truất quyền trên của cụ Biết không được Tòa án chấp nhận. Đoạn của Quyết định cho câu
trả lời: “Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày
20/9/1997 và “Tờ di chúc” ngày 15/9/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với quy định
của pháp luật cả về nội dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.
16. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến truất
quyền thừa kế.
Bà Nguyệt và con nuôi bà Nguyệt thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của ông Kiệt,
bà Biết, do vậy, bà Biết và ông Kiệt hoàn toàn có thể truất quyền thừa kế của hai người này thì
hướng giải quyết của Tòa là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên, chồng bà Nguyệt không thuộc diện thừa kế theo pháp luật nên ông Kiệt và bà
Biết không thể truất quyền hưởng di sản đối với chồng bà Nguyệt
Đối với phần tài sản của bà Biết (sở hữu chung hay sở hữu riêng với người khác), pháp luật
cho phép bà Biết truất quyền hưởng di sản đối với người thừa kế theo pháp luật của bà Biết.
Theo quy định hiện hành, người truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật của
mình phải là “người lập di chúc”, truất quyền phải gắn liền với di chúc. ĐIều đó có nghĩa là bà
Biết chỉ có thể thực hiện việc truất quyền khi bà Biết lập di chúc tức có sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình sau khi chết ( Đ646 BLDS 2005 ). Bà Biết có di tặng tài
6
sản của mình cho ba người cháu ngoại nên có thể xác định bà Biết đã lập di chúc nên điều kiện
theo đó người truất quyền phải là người lập di chúc được thỏa mãn. Vì vậy, Tòa án không chấp
nhận tờ truất quyền là không hoàn toàn thuyết phục đối với phần tài sản cụ Biết.
Câu 17: Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nào? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 phần tài sản của cụ Biết trong khối tài sản
chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt.
Dẫn chứng cho câu trả lời: “...thì phải công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày 3-1-2001 có
hiệu lực đối với tài sản của cụ Biết trong khối tài sản chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết
được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt;...”
Câu 18: Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý phần
nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý đối với phần tài sản
của cụ Biết trong khối tài sản chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết được hưởng thừa kế di
sản của cụ Kiệt.
Dẫn chứng cho câu trả lời: “...thì phải công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày 3-1-2001 có
hiệu lực đối với tài sản của cụ Biết trong khối tài sản chung với cụ Kiệt và phần tài sản cụ Biết
được hưởng thừa kế di sản của cụ Kiệt;...”
Câu 19: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và Tòa dân
sự.
Theo nhóm tôi, hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và Toà dân sự là đúng đắn, vì căn cứ
theo Điều 652 BLDS 2005 (tức Điều 630 BLDS 2015), di chúc được lập bởi cụ Biết vào ngày
3-1-2001 hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để công nhận là một di chúc hợp pháp và phần di sản của
cụ phải được tiến hành chia theo di chúc theo đúng như quy định của luật.
Câu 20: Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di sản” trong
chế định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Về hình thức áp dụng:
+ Điều 626 BLDS năm 2015 quy định truất quyền hưởng di sản thừa kế là quyền của
người lập di chúc mà không phải là quyền của người để lại di sản. Tức là, khi và chỉ khi tồn tại
di chúc mới có thể truất quyền hưởng di sản thừa kế. Vì vậy, truất quyền hưởng di sản chỉ có
thể được áp dụng đối với hình thức thừa kế theo di chúc.
+ Trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật có hành vi vi phạm
pháp luật gây ảnh hưởng tới người để lại di sản hoặc người thừa kế khác, được quy định tại
Điều 621 BLDS năm 2015 có thể bị pháp luật tước quyền hưởng di sản thừa kế. Như vậy, tước
quyền hưởng di sản thừa kế được áp dụng trong cả hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế
theo pháp luật.
- Về chủ thể:
7
+ Pháp luật thừa kế nước ta ghi nhận truất quyền hưởng di sản thừa kế là quyền của người
lập di chúc. Vì thế chủ thể truất quyền thừa kế phải là người lập di chúc. Tuy nhiên, quy định
hạn chế hiệu lực đối với trường hợp truất quyền thừa kế lại xuất phát từ ý chí chủ quan của nhà
nước. Với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng và cần thiết cho một số người thừa kế,
pháp luật thừa kế nước ta đã hạn chế quyền tự do định đoạt của người để lại di sản. Cụ thể tại
Điều 644 BLDS năm 2015, pháp luật quy định rằng con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và
con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động của người để lại di sản là những đối
tượng luôn được hưởng ít nhất hai phần ba xuất thừa kế theo pháp luật trong trường hợp họ
không được người để lại di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng di sản ít hơn hai phần ba
suất thừa kế theo pháp luật, trừ trường hợp khi họ từ chối nhận di sản quy định tại Điều 620
BLDS năm 2015 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản quy định tại khoản 1
Điều 621 BLDS năm 2015.
+ Bên cạnh đó, chủ thể hạn chế cá nhân không được quyền hưởng thừa kế là Nhà nước.
Tuy nhiên bản chất của quy định hạn chế hiệu lực về không cho cá nhân có quyền hưởng thừa
kế theo khoản 2 Điều 621 BLDS năm 2015 lại xuất phát bởi ý chí của người để lại di chúc cũng
như bảo vệ quyền nhân thân, sự bình đẳng của những người được hưởng thừa kế nếu như xuất
hiện sự gian dối tại khoản 1. Những quy định tại khoản 1 điều này bị hạn chế bởi khoản 2. Qua
đó, thể hiện rõ quyền tự do ý chí của người lập di chúc đối với việc dịch chuyển tài sản của
mình sau khi chết.
- Về đối tượng:
+ Người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế luôn là người thừa kế theo pháp luật của
người lập di chúc. Vì luật quy định rằng, người lập di chúc được “truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế” quy định tại khoản 1 Điều 626 BLDS năm 2015. Nên được hiểu rằng nếu như
không bị truất thì họ là một trong những người thừa kế của người để lại di sản
+ Những người bị truất quyền hưởng di sản có thể có hoặc không có những hành vi vi
phạm pháp luật đối với người để lại di sản cũng như những người thừa kế khác. Những người
này có thể hoàn toàn xứng đáng và đáp ứng đầy đủ điều kiện mà pháp luật quy định để hưởng
di sản nhưng người lập di chúc định đoạt họ không được hưởng di sản nên họ không có quyền
hưởng di sản.
+ Khác với trường hợp truất quyền hưởng di sản thừa kế, người bị tước quyền hưởng di
sản không bị giới hạn là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Người bị tước
quyền hưởng di sản được quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 là những người vi
phạm pháp luật, có những hành vi vi phạm đạo đức, ảnh hưởng tới sức khỏe, nhân thân, ý chí
của người để lại di chúc, giả dối, tạo phần lợi về mình, tạo sự bất bình đẳng giữa những người
thừa kế (hành vi bất xứng).
- Về lí do
+ Người lập di chúc có thể có nhiều lí do mang tích chủ quan để truất quyền thừa kế của
một hoặc một vài cá nhân. Có thế dựa trên phương diện kinh tế hoặc cũng có thể dựa trên
phương diện tình cảm. Trên thực tế, trong quan hệ gia đình, tuy có quan hệ huyết thống nhưng
lại nảy sinh nhiều vấn đề và có thể dẫn tới mâu thuẫn khiến ý chí người để lại di chúc không
muốn cho người còn sống sẽ được nhận di sản của mình. Pháp luật không quy định bắt buộc
8
người lập di chúc phải nêu rõ lí do truất quyền thừa kế của một chủ thể, người để lại di sản có
thể truất quyền thừa kế của một hay một số người mà không cần đưa ra bất cứ lí do nào, hoàn
toàn tôn trọng ý chí tự do định đoạt của người để lại di sản.
+ Nhưng ngược lại, đối với trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản
thừa kế phải xuất phát từ lí do rõ ràng, cụ thể đó là: họ có những hành vi trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,.. của người để lại di sản
hoặc những người thừa kế khác và họ phải bị kết án do hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe hoặc hành vi về ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;người bị kết án
về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di
sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng; người có hành vi lừa dối, cưỡng ép howajc
ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, hủy đi di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản trái với ý chí người để lại di sản.
- Về hệ quả pháp luật:
+ Một người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản nghĩa là họ sẽ không được hưởng di sản
thừa kế của người để lại di sản dưới một hình thức thừa kế nào kể cả thừa kế theo pháp luật lẫn
thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, trường hợp người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc,
những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc thì dù bị truất quyền thừa kế vẫn được
hưởng một phần tài sản nhất định.
+ Khác với trường hợp bị truất quyền thừa kế, đối với người bị pháp luật xếp vào diện
không có quyền hưởng di sản thừa kế thì dù họ có là người thừa kế không phụ thuộc nội dung
di chúc thì họ vẫn không có quyền hưởng di sản thừa kế chỉ ngoiaj trừ trường hợp người viết di
chúc đã biết hành vị vi phạm của họ nhưng vẫn cho hưởng thừa kế.
Câu 21: Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga có
hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga không có hành vi vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là: “Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa có cơ sở
xác định bà Nga đã có hành vi bạc đãi cha mẹ, nên cũng không có cơ sở để xác định bà Nga đã
có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình, để xác định bà Nga không
được hưởng thừa kế tài sản của ông Bình, bà Như theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 646
Bộ luật Dân sự năm 1995.”
Câu 22: Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng ông Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của ông Bình không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng
ông Bình thì bà Nga không được hưởng thừa kế di sản của ông Bình.
- Cơ sở pháp lý:
9
Điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005:
Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản
“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.
23, Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hành vi của bà Nga
Trong Quyết định của Tòa án không có hướng giải quyết nào liên quan đến hành vi của bà
Nga.

10

You might also like