You are on page 1of 8

Hiện tượng “Cắm chốt” (Fixation) trong phân tâm học

Nhìn chung, cắm chốt là một dạng thôi thúc mang tính ám ảnh, có thể có hoặc không thể hiện
bằng hành động liên quan đến sự vật, khái niệm hay con người nhất định. Được giới thiệu lần
đầu bởi Sigmund Freud, cắm chốt là tập trung liên tục vào những nguồn năng lượng tìm kiếm sự
thỏa mãn của bản năng xuất hiện vào giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tính dục.
Cắm chốt ở các giai đoạn miệng, hậu môn, dương vật tượng trưng xuất hiện khi có một vấn đề
hay xung đột xuất hiện trong các giai đoạn này còn chưa được giải quyết, khiến chủ thể vẫn mãi
tập trung vào giai đoạn đó và không thể bước sang giai đoạn kế tiếp.

In general, a fixation is an obsessive drive that may or may not be acted on involving an object,
concept, or person. Initially introduced by Sigmund Freud, a fixation is a persistent focus of the
id’s pleasure-seeking energies at an early stage of psychosexual development. Oral, anal, and
phallic fixations occur when an issue or conflict in a psychosexual stage remains unresolved,
leaving the individual focused on this stage and unable to move onto the next.

Ví dụ, những người “cắm chốt” ở giai đoạn miệng có thể sẽ xuất hiện một số vấn đề liên quan
đến rượu bia, thuốc lá, ăn uống hay có tật cắn móng tay.

For example, individuals with oral fixations may have problems with drinking, smoking, eating,
or nail-biting.
Sự hình thành của Cắm chốt. How Fixations Develop
Theo nhà phân tâm học Sigmund Freud, trẻ em trải qua một chuỗi các giai đoạn phát triển tâm
lý tính dục, là khoảng thời gian mà các nguồn năng lượng tính dục của bản năng được tập trung
vào một số vùng khác nhau trên cơ thể.

According to psychoanalyst Sigmund Freud, children develop through a series of psychosexual


stages during which the id’s libidinal energies become focused on different areas of the body.
Bản năng và các nguồn năng lượng tính dục. The Id and Libidinal Energies
Bản năng (Cái “nó”), thành tố duy nhất của tâm trí được cho là xuất hiện ngay từ lúc mới sinh,
vận hành theo nguyên lý thỏa mãn trong vô thức. Các nguồn năng lượng tính dục, còn được biết
đến với tên gọi là dục năng, được xem là một trong những thôi thúc và khao khát sinh dục bị
ảnh hưởng nặng nề với bản năng. Bản năng điều khiển dục năng, tìm kiếm tối đa những tình
huống khoái lạc.

The id, the only aspect of the mind thought to be present at birth, operates on the pleasure
principle on an unconscious level. Libidinal energies, otherwise known as the libido, are
considered biological and sexual drives and desires that are heavily influenced by the id. The id
drives the libido, seeking out the most pleasurable situations possible.
Ví dụ, trong suốt giai đoạn hậu môn, theo lẽ thường thì một đứa bé sẽ đạt được cảm giác thỏa
mãn và thành công khi kiểm soát được bàng quang và chuyển động ruột. Vậy điều này liên quan
gì đến sự hình thành của căm chốt?

During the anal stage, for example, a child supposedly gains a sense of satisfaction and
accomplishment by controlling his or her bladder and bowel movements. So what does this have
to do with the development of a fixation?
Freud tin rằng sự phát triển của một nhân cách lành mạnh lúc trưởng thành là kết quả của việc
hoàn thành thành công mỗi giai đoạn phát triển tâm lý tính dục. Ở mỗi thời điểm của quá trình,
trẻ sẽ đối mặt với một xung đột cần được giải quyết để thành công bước sang giai đoạn tiếp
theo. Quá trình xử lý xung đột này đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân cách
thời trưởng thành.

Freud believed that the development of a healthy adult personality was the result of successfully
completing each of the psychosexual stages. At each point in development, children face a
conflict that must be resolved in order to move on successfully to the next stage. How this
conflict is resolved plays a role in the formation of adult personality.
Freud cho rằng, việc không thể hoàn thành một giai đoạn, có thể khiến chủ thể vẫn còn “mắc
kẹt” lại giai đoạn đó. Nói cách khác, họ sẽ bị “cắm chốt” ở mốc phát triển đó. Freud cũng tin
rằng cắm chốt có thể xuất hiện nếu một giai đoạn cụ thể nào đó để lại một ấn tượng quá lớn lên
tính cách của chủ thể.

Failing to successfully complete a stage, Freud suggested, would cause that person to remain
essentially “stuck.” In other words, they would become fixated at that point in development.
Freud also believed that fixations could result if a particular stage left a dominant impression
on an individual’s personality.
Giải quyết các xung đột tâm lý tính dục đòi hỏi cần phải có một nguồn dục năng lớn. Nếu nguồn
năng lược này được mở rộng ở quy mô lớn vào một giai đoạn phát triển cụ thể nào đó, thì những
sự kiện diễn ra trong giai đoạn đó sau này có khả năng sẽ để lại một ấn tượng mạnh mẽ lên tính
cách của chủ thể.

Resolving the psychosexual conflicts requires a considerable amount of the libido’s energy. If a
great deal of this energy is expended at a particular point in development, the events of that
stage may ultimately leave a stronger impression on that individual’s personality.

Ví dụ. Examples of Fixations


Có nhiều cách khác nhau mà 3 nhóm căm chốt đề cập ở trên có thể xuất hiện ở mỗi người.

There are multiple ways the three fixations mentioned above may manifest in different
individuals.
Cắm chốt giai đoạn miệng. Oral Fixations
Giai đoạn miệng thường diễn ra từ lúc mới sinh cho đến tầm 18 tháng tuổi, trong suốt quá trình
này, nhu cầu về miệng (ăn uống) của trẻ hoặc được đáp ứng, hoặc bị kích thích quá đà hoặc
không được đáp ứng. Ví dụ, Freud cho rằng nếu một đứa trẻ gặp khó khăn trong quá trình cai
sữa, chúng có thể hình thành cắm chốt giai đoạn miệng.

The oral stage tends to occur between birth and around 18 months old, during which time the
oral (feeding) needs of the child are either met, overstimulated, or unmet. For example, Freud
might suggest that if a child has issues during the weaning process, they might develop an oral
fixation.
Freud cũng cho rằng cắn móng tay, hút thuốc, nhai kẹo cao su và lạm dụng rượu bia cũng là
những dấu hiệu của cắm chốt giai đoạn miệng. Điều này cho thấy chủ thể không giải quyết được
xung đột quan trọng trong suốt giai đoạn phát triển tâm lý tính dục đầu tiên, chính là giai đoạn
miệng.

Freud may also suggest that nail-biting, smoking, gum-chewing, and excessive drinking are
signs of an oral fixation. This would indicate that the individual did not resolve the primary
conflicts during the earliest stage of psychosexual development, the oral stage.

Cắm chốt giai đoạn hậu môn. Anal Fixations


Giai đoạn thứ hai trong quá trình phát triển tâm lý tính dục có
tên gọi là giai đoạn hậu môn vì nó chủ yếu tập trung vào điều
khiển chuyển động ruột. Cắm chốt ở giai đoạn này có thể dẫn
đến cái mà Freud gọi là dạng tính cách kiềm nén hậu môn và
giải phóng hậu môn.

The second stage of psychosexual development is known as the anal stage because it is
primarily focused on controlling bowel movements. Fixations at this point in development can
lead to what Freud called anal-retentive and anal-expulsive personalities.
– Những người “kiềm nén hậu môn”: Nhóm này có thể phải trải qua quá trình tập đi vệ sinh
nghiêm ngặt và khắc nghiệt quá mức từ hồi bé và có thể bị ám ảnh với sự ngăn nắp và vệ sinh
sau này khi lớn lên.

Anal-retentive individuals: This group may have experienced overly strict and harsh potty
training as children and may grow to be overly obsessed with orderliness and tidiness.
– Những người “giải phóng hậu môn”: Mặt khác, nhóm giải phóng hậu môn ngày xưa có thể
được dạy đi vệ sinh một cách qua loa, kết quả là sau này lớn lên sẽ có tính luộm thuộm và xuề
xòa.

Anal-expulsive individuals: On the other hand, anal-expulsive individuals may have


experienced very lax potty training, resulting in them being very messy and disorganized as
adults.
Dù là nhóm nào thì cả hai dạng cắm chốt này đều là kết quả của một xung đột quan trọng chưa
được giải quyết phù hợp xuất hiện trong giai đoạn phát triển này.

In either case, both types of fixations result from not properly resolving the critical conflict that
takes place during this stage of development.
Cắm chốt giai đoạn dương vật tượng trưng. Phallic Fixations
Giai đoạn dương vật tượng trưng về cơ bản là tập trung vào việc đồng nhất hóa với người cha
mẹ cũng giới. Freud cho rằng cắm chốt ở giai đoạn này có thể khiến tính cách lúc trưởng thành
của chủ thể trở nên kiêu ngạo, thích phô trương và có hành vi tình dục hung hăng.

The phallic stage of development is primarily focused on identifying with the same-sex parent.
Freud suggested that fixations at this point could lead to adult personalities that are overly
vain, exhibitionistic, and sexually aggressive.
Ở giai đoạn này, các bé trai có thể xuất hiện cái mà Freud gọi là Phức cảm Oedipus. Các bé gái
sẽ xuất hiện một vấn đề tương tự có tên gọi là Phức cảm Electra. Nếu không được giải quyết,
những phức cảm này sẽ vẫn cứ “lảng vảng” và tiếp tục ảnh hưởng lên hành vi trong thời trưởng
thành.

At this stage, boys may develop what Freud referred to as an Oedipus complex. Girls may
develop an analogous issue known as an Electra complex. If not resolved, these complexes may
linger and continue to affect behavior into adulthood.
Điều trị cắm chốt. Treatments for Fixation
Vậy chính xác thì cắm chốt được xử lý như thế nào? Theo thuyết phân tâm của Freud, quá
trình chuyển di đóng một vai trò quan trọng trong điều trị cắm chốt. Về cơ bản, một chốt cắm
tồn tại từ lâu sẽ được “chuyển dịch” sang một cái mới, cho phép chủ thể tỉnh táo đối phó với vấn
đề.

So how exactly are fixations resolved? According to Freud’s psychoanalytic theory, the process
of transference plays an important role in treating such fixations. Essentially, an old fixation is
transferred to a new one, allowing the person to consciously deal with the problem.
Trị liệu. Therapy
Mục tiêu của trị liệu phân tâm học là tận dụng quá trình chuyển di để giải phóng năng lượng của
tình trạng cắm chốt. Trị liệu viên có thể trao đổi vối khách hàng về những dạng phản ứng và
kiểu thái độ mà họ quan sát được khi khách hàng vô thức phóng chiếu nó lên họ. Điều này cho
phép họ giúp khách hàng mang những cảm xúc vô thức trong quá khứ về với trạng thái tỉnh thức
hiện tại.

The goal of psychoanalytic therapy is to utilize the process of transference to release the
energies of fixations. The therapist may discuss with their client patterns of reactions and
attitudes that they observe their client unconsciously projecting onto them. This allows them to
help their client bring their unconscious feelings from their past into conscious awareness.
Nếu bạn không mấy mặn mà với các kỹ thuật phân tâm học, thì hãy luôn nhớ rằng kết quả trị
liệu tốt nhất sẽ phản ánh mối quan hệ giữa khách hàng và trị liệu viên, không phải học thuyết
hay phương pháp mà trị liệu viên sử dụng. Nếu bạn thực sự quyết định đến gặp trị liệu viên, hãy
chắc chắn rằng bạn cảm thấy thoải mái bên họ và tin tưởng họ. Bạn có thể cân nhắc các phương
pháp trị liệu khác:

If you aren’t one for psychoanalytic methods, keep in mind that the most effective therapeutic
outcomes reflect the client/therapist relationship, not the theory or methods the therapist
utilizes. If you do opt to see a therapist, be sure you feel comfortable around them and trust
them. Other therapeutic methods to consider:
– Liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT) có thể được áp dụng để xử lý những suy nghĩ, cảm
xúc và các dạng hành vi mà khách hàng muốn thay đổi.

Cognitive behavioral therapy (CBT) may be used to address the thoughts, emotions, and
behavioral patterns that the client would like to shift.
– Giải mẫn cảm chuyện động nhãn cầu và tái nhận thức (EMDR) có thể là một lựa chọn
hữu ích với những người đã từng có những trải nghiệm sang chấn trong quá khứ.

Eye movement desensitization and reprocessing (EMDR) may be a helpful option for
individuals who have experienced previous traumatic experiences.
– Trị liệu hỗ trợ bằng ngựa (EAP) có thể là một lựa chọn tuyệt vời cho những người thích trị
liệu bằng các hoạt động ngoài trời hơn là ở trong văn phòng.

Equine-assisted psychotherapy (EAP) can be a great option for those who prefer to do
therapeutic work outdoors versus in an office setting.
– Các phương pháp trị liệu tập trung vào sang chấn: Có thể bao gồm trị liệu nhận thức hành
vi tập trung vào sang chấn và EMDR.

Trauma-centered therapeutic methods: These may include trauma-focused cognitive


behavioral therapy and eye movement desensitization and reprocessing.
Hãy luôn nhớ rằng nhiều trị liệu viên thường sử dụng phương pháp kết hợp khi chọn lựa mô
hình điều trị phù hợp.
Keep in mind that many therapists tend to use an eclectic approach when it comes to selecting
their treatment framework.
Tự lực. Self-Help
Tùy thuộc vào độ phức tạp của vấn đề mà bạn muốn giải quyết mà có nhiều kỹ thuật bạn có thể
thử thực hiện. Bao gồm:

Depending on the complexity of the issue you would like to work on, there are various
techniques you can try on your own. These include:
– Chánh niệm: Phương pháp này có thể được dùng để giúp bạn kết nối với cơ thể, hình thành
sự thấu hiểu sâu hơn với quá trình suy nghĩ trong bạn và có thể làm giảm căng thẳng.

Mindfulness: This method may be used to help connect with your body, develop deeper insight
into your own thought process, and may also reduce stress.
– Tập thể dục: Tập luyện thường xuyên có thể làm giảm căng thẳng nói chung và là một cách
để thay thế những thói quen bạn muốn thay đổi, như cắn móng tay hay hút thuốc lá.

Exercise: Exercising regularly may help reduce overall stress and be used as a way to replace
habits you’d like to shift, such as nail biting or smoking.
– Các kỹ thuật thư giãn: Nhiều phương pháp thư giãn, như thư giãn cơ bắp tăng dần, mường
tượng hóa, và các bài tập thở có thể giúp làm giảm căng thẳng, xóa bỏ áp lực và hướng sự tập
trung năng lượng vào bên trong.

Relaxation techniques: Various relaxation methods, including progressive muscle relaxation,


visualization, and breathing exercises, may help reduce stress, ease tension, and refocus your
energy inward.
– Ghi chép lại: Tập thói quen ghi lại mọi việc có thể giúp bạn tự chiêm nghiệm lại những hành
vi cắm chốt cụ thể nào đó và hiểu rõ hơn chốt cắm này ảnh hưởng như thế nào lên suy nghĩ, cảm
xúc và hành vi của bạn.

Journaling: Getting into the habit of journaling may help you reflect on your specific fixation
and better understand how your fixation impacts your thoughts, emotions, and behaviors.
– Khẳng định: Lặp lại những lời khẳng định tích cực với bản thân hay viết chúng ra có thể giúp
bạn kéo sự tập trung trở lại vào những thế mạnh của mình.
Affirmations: Reciting positive affirmations to yourself or writing them down may help you re-
focus your energy on your strengths.
Khi nào nên liên hệ bác sĩ. When to Call Your Doctor
Các triệu chứng liên quan đến cắm chốt có thể khác nhau tùy người. Nếu bạn đang gặp khó
khăn trong các hoạt động thường ngày, để ý thấy sự suy giảm chất lượng cuộc sống, đang có
những suy nghĩ khó chịu, và/hoặc có xuất hiện những hành vi có hại, lúc đó bạn cần liên hệ với
bác sĩ ngay lập tức.

The symptoms associated with fixation can vary from person to person. If you are experiencing
difficulty with acts of daily living, are noticing a reduction in your quality of life, are having
distressing thoughts, and/or are engaging in harmful behaviors, it’s important to reach out to
your doctor right away.
Lời cuối. Final thoughts
Cắm chốt là một nội dung rất quan trọng trong học thuyết của Freud và những nhà phân tâm học
thế hệ mới. Một vấn đề lớn ở đây là mặc dù các nhà tư tưởng thời đầu kết nối cắm chốt với các
sự kiện nhất định đã từng diễn ra thời thơ ấu nhưng vẫn rất khó, thậm chí là không thể liên kết
cắm chốt ở người trưởng thành như cắn móng tay với một sự xung đột châm ngòi cụ thể nào đó
trong thời thơ ấu.

Fixations were important to Freudian and many neo-Freudian theories. One major problem is
that while early theorists connected fixations to specific childhood events, it is difficult or
impossible to link adult fixations such as nail-biting to a specific triggering conflict in early
childhood.
Nếu bạn thực sự xuất hiện hành có vấn đề hay cắm chốt vào một sự vật hay thói quen cụ thể nào
đó, bạn có thể làm một số điều để vượt qua tình trạng này. Trị liệu hành vi, nhận thức hay nhận
thức – hành vi chẳng hạn, thường được sử dụng để hình thành những dạng suy nghĩ và hành vi
mới và tích cực hơn.

If you do have a problematic behavior or fixation on a particular object or habit, there are
things that you can do to overcome such tendencies. Behavior, cognitive, and cognitive-
behavioral therapies, for example, are often used to develop newer, more productive thought
and behavior patterns.

You might also like