You are on page 1of 24

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC................................................................1

1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời...............................................................................................................1

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời..................................................................................................2

3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?........2

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay..........................3

5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn
nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?...............................................................3

6. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?.................................................................3

7. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?.......3

8. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?.......................................................................................................................... 4

9. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?............................................................................................................................ 4

10. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ..................................................................................4

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC...............................6

1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời?........................................................................................................................ 6

2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?.........................................................6

3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?........................................................................................................... 6
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm..............7

5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................................7

6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?..........8

7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết?.....................................................................................8

8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?.....................................................................................9

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C
và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm..............................9

VẤN ĐỀ 3: DI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG...................................................11

1. Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng không? Nêu
ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết........................................................11

2. Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng?.................................................................................................................11

3. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời...................................................11

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của
vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015..........................................................12

VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG...........................................13

1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.....................................................................................................13

2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng?.................................................................................................................13
3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?.....................................................13

4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?......................................................14

5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.................................................14

6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và
giải pháp của Tòa án trong vụ việc được nghiên cứu...............................................15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................16


VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC

*Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Toà án nhân dân tỉnh Phú
Yên:
Nguyên đơn: ông Nguyễn Thành Hiếu (con riêng của ông Nguyễn Này).
Bị đơn: bà Đặng Thị Trọng (vợ hợp pháp của ông Nguyễn Này).
Nội dung: Ngày 19/12/2007, ông Nguyễn này có lập di chúc cho anh Hiếu được toàn
quyền sử dụng đất của ông Này và bà Trọng đứng tên. Ngày 16/11/2008, ông Này chết
nhưng bà Trọng không cho ông Hiếu tiếp tục hành nghề và đuổi ra khỏi nhà. Ông
Hiếu đã khởi kiện đòi lô đất, xin nhận nhà và thối lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng.
Xét thấy, ông Này đã viết di chúc bằng tay, không có chứng thực, công chứng nhưng
trong lúc đó ông Này vẫn còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, ép buộc và có
rất nhiều người làm chứng (em gái, em trai, cha ông Này) do đó di chúc đã được coi là
hợp pháp. Bên cạnh đó, lô đất đó thuộc sở hữu của hai vợ chồng ông Này nhưng lại
không có sự thỏa thuận của bà Trọng là không hợp pháp vì chỉ có một phần giá trị lô
đất đó đồng ý để lại cho anh Hiếu nhưng lại cho anh Hiếu toàn quyền sử dụng lô đất
đó khi ông chết và bà Trọng phải có nghĩa vụ thanh toán cho anh Hiếu 78.795.000đ.

1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc viết tay có giá trị pháp lý là:
Phải viết ra và giải thich khi đi thi nếu ko sẽ ko có điểm.
Thứ nhất, căn cứ vào Điều 633 BLDS 2015: 
“Người lập di chúc phải tự viết tay và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 của bộ luật này.”
Thứ hai, căn cứ vào khoản 1 Điều 630 BLDS 2015:
“Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
hình thức di chúc không trái quy định của luật.”

1
Thứ ba, căn cứ vào Điều 631 BLDS 2015:
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung
khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì
mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người
làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này không được coi là người làm chứng hợp pháp. Vì
những người làm chứng cho ông Này là cha, em gái, em trai, đều thuộc hàng thừa kế
thứ nhất theo Điều 651 BLDS 2015 do đó những người này không thể là người làm
chứng hợp pháp theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015. Cụ thể:
Theo điểm a, b khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại.”
Theo Điều 632 BLDS 2015 thì:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

2
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do chính ông Này tự viết tay. Cụ thể trong phần xét
thấy: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa
phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn,
sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp.”

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này là di chúc
viết tay là hợp lý vì di chúc của ông Này được viết trong lúc minh mẫn, sáng suốt,
không bị lừa dối hay bị cưỡng ép; hình thức di chúc cũng không trái quy định của luật,
đạo đức xã hội đã tuân thủ đủ các điều kiện của Điều 632 BLDS 2015.

* Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT:


Nguyên đơn: ông Đỗ Văn Quang.
Bị đơn: bà Hoàng Thị Ngân
Nội dung: Cụ Đỗ Thị Hựu (mẹ ông Quang) kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng có 2 người
con là ông Hồng (1986, vợ là bà Ngâm và 1 đức con chung) và bà Lựu. Năm 1950, cụ
Hằng chết không có di chúc. Đến 1954, cụ Hựu sống chung với Sách và có con là ông
Quang. Ngoài ra, cụ Hựu còn có 1 người con chung với cụ Dị. Ngày 05/2/2005, cụ
Hựu chết, toàn bộ đất do bà Ngâm quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo di chúc bà Hựu. Nay ông Quang khởi kiện yêu cầu hủy di
chúc do đó không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế tài sản theo quy định của pháp
luật.
Xét thấy, đất tranh chấp là tài sản của cụ Hằng và cụ Hựu do tổ tiên để lại. Sau khi cụ
Hựu chết, bà Ngâm đã lam không đúng theo di chúc đã tự ý kê khai đăng ký và được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, ông Đỗ cho rằng, đất nêu trên
tài sản của dòng họ Đỗ là không đúng do dòng họ kê khai, đăng kí sử dụng đất này Di

3
chúc của ông Hựu đã không đúng theo quy định của di chúc người không biết chữ
theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 nên di chúc không có căn cứ. Tòa đã quyết định
hủy bỏ bản án tòa án phúc thẩm và xem xét lại.

5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? Cụ Hựu có biết chữ không?
Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
- Di chúc của cụ Hựu đã được thành lập vào ngày 25/11/1998, do cụ Hựu đọc cho
ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Quý ký tên làm chứng. Sau đó ngày
04/01/1999, bà Lựu mang di chúc đến cho ông Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã
Mai Lâm xác nhận. Cụ thể trong phần xét thấy: “Đối với phần di chúc ngày
25/11/1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ
khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị
Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di
chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai
Lâm xác nhận”.
- Cụ Hựu là người không biết chữ. Điều đó được thể hiện trong phần xét thấy của
Quyết định số 874: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.”

6. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thoả mãn điều kiện của khoản 3 Điều 652
BLDS 2005. Theo đó thì: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực.”

Không thể dùng dd634 (vì họ có thể có khả năng đọc chữ)

7. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và
có công chứng hoặc chứng thực”. Mà theo đó thì người làm chứng cho di chúc của
ông Hựu là ông Vũ và bà Quý nên đã đáp ứng một phần điều kiện về di chúc hợp pháp
trong di chúc của ông Hựu.

4
8. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?

Điều kiện không đáp ứng được đối với di chúc của ông Hựu là việc công chứng,
chứng thực. Cụ thể trong phần Xét thấy của Quyết định số 874: di chúc của cụ Hựu có
2 người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý; có xác nhận ông Thưởng và xác nhận của
UBND Xã Mai Lâm do bà Lựu mang di chúc đến. Tuy nhiên, do ông Thưởng không
trực tiếp chứng kiến cụ Hựu lập di chúc nên UBND xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký
của Ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung di chúc. Do đó di chúc này được xem
là hợp pháp là không có căn cứ.

9. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không?
Vì sao? 
Căn cứ theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực”. Di chúc này đã đáp ứng điều kiện về người
làm chứng tuy nhiên căn cứ theo Điều 656 BLDS 2005: “Trong trường hợp người lập
di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải
có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản
di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc” thì vẫn chưa đáp ứng điều kiện
điểm chỉ của người lập di chúc. Vì thông qua giám định vân tay của cụ Hựu tại bản di
chúc, Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể
hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó chưa đủ căn cứ xác
định di chúc nêu trên có thể hiện đúng ý chí của ông Hựu hay không.
10. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ.
- Các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không biết
chữ: tại khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 và khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 có quy định:

5
“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

- BLDS quy định về việc công chứng, chứng thực của di chúc nhưng không nêu
người công chứng, chứng thực là ai. Vì vậy, nên bổ sung quy định này vào chế định di
chúc của người không biết chữ. Theo đó, người đi công chứng, chứng thực phải là
người thể hiện ý chí của người lập di chúc thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng, chính
xác nội dung tránh di chúc bị thay đổi nội dung, làm sai với nội dung gốc ban đầu dẫn
tới những tranh chấp không đáng có.

- BLDS còn quy định thêm về thời hạn công chứng, chứng thực của người không
biết chữ. Ta có thể áp dụng thời hạn của di chúc miệng vào trong trường hợp này là
trong thời hạn 5 ngày, di chúc phải được công chứng, chứng thực kể từ ngày lập di
chúc.

6
VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC

*Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: cụ Lê Thanh Quý
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc
Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955 và có 12 con chung, tạo lập được bất động
sản bao gồm nhà và đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận.
Ngày 06/04/2009, cụ Hương chết, có để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà
và đất số 302 cho 5 người con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng và Quảng Thị Kiều, di chúc đã được công chứng. Nay
cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cụ ra làm 2 phần, được
hưởng ½ giá trị căn nhà bằng hiện vật, 2/3 suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của cụ Hương để lại. Ông Lộc và Ông Dũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của cụ
Quý đối với phần tài sản chung của 2 cụ, tuy nhiên, căn nhà hiện nay do 2 ông quản lý
và sử dụng, xin cụ Quý được hưởng một phần vì không còn chỗ ở khác. Tại Bản án
dân sự sơ thẩm công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền là tài sản chung của
cụ Hương và cụ Quý. Cụ Quý được hưởng ½ căn nhà, 1/2 giá trị tiền xây dựng nhà,
ngoài ra còn được hưởng thừa kế của cụ Hương 18,8m 2 diện tích đất và giá trị tiền xây
dựng nhà 5 người con được đề cập trong di chúc của cụ Hương và 2 con là Minh Trí
và Kiều Nga mỗi người được hưởng 64,3m2 đất và giá trị tiền xây dựng nhà của căn
nhà 302 Nguyễn Thượng Hiền. Tòa án quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ để xét xử lại theo
quy định.

1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời? 
Cụ Hương đã định đoạt tài sản nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là
302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận). Trong Quyết định số 359 có
đoạn: “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị

7
Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc này về hình thức có công chứng của
Phòng Công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương
có giấy chứng nhận sức khỏe của bệnh viện quận Phú Nhuận xác định cụ Hương minh
mẫn.”

2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài
sản chung của vợ chồng cụ Hương: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị
một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý”.

3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời? 
- Tòa án đã công nhận di chúc có hiệu lực một phần đối với tài sản của cụ Hương
(½ nhà đất) được chia cho 5 người con sau khi đã chia cho cụ Quý ⅔ suất thừa kế theo
pháp luật. Cụ Quý vẫn được chia thừa kế mặc dù không được chia trong di chúc của
cụ Hương vì căn cứ khoản 1 Điều 669 BLDS 2005: “Những người sau đây vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu
di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi
họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những
người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật
này: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng”.
- Trong Quyết định số 359 có đoạn: “Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của
cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (½
nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn
Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý ⅔ suất thừa kế theo pháp luật, còn ½ diện tích
đất còn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá của hội
đồng định giá thì được chia cho cụ Quý ½ và thêm ⅔ suất thừa kế theo pháp luật và
phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương
là có căn cứ.”

8
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. 
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý vì :
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015 thì di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác. Vợ
chồng cụ Hương kết hôn vào năm 1962 và cụ Hương được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vào năm 1994. Căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Nói cách khác, cụ Hương sở hữu ½ nhà đất tại số 302 Nguyễn
Thượng Hiền, phường 5, Quận Phú Nhuận trong khối tài sản chung của vợ chồng. 
Thứ hai, căn cứ theo Điều 609 BLDS 2015 thì cá nhân có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản của mình chứ không có quyền định đoạt tài sản của người khác. Nói cách
khác, cụ Hương chỉ có quyền định đoạt ½ nhà đất nêu trên chứ không phải toàn bộ
như nội dung bản di chúc.
Thứ ba, theo khoản 4 Điều 643 BLDS 2015, chỉ có quyền định đoạt tài sản của cụ
Quý trong di chúc của cụ Hương bị vô hiệu và di chúc được xem là có hiệu lực một
phần. Bởi lẽ, việc vô hiệu này không làm ảnh hưởng đến việc định đoạt ½ nhà đất còn
lại thuộc sở hữu của cụ Hương.

5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 
*Trường hợp 1: trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương có để lại di chúc thì di
sản sẽ được chia theo di chúc. 
Cụ Hương vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp
luật nếu cụ Hương không được cụ Quý cho hưởng di sản hoặc hưởng phần di sản ít
hơn 2/3 suất của một người thừa kế (Điều 644 BLDS 2015). Vì vậy, di chúc cụ Hương
để lại căn nhà chia cho 5 người con vẫn chỉ có giá trị pháp lý một phần (tài sản được
hưởng /từ di sản thừa kế và ½ nhà đất) (Điều 650, 651 BLDS 2015).
*Trường hợp 2: trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương nhưng không để lại di
chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật.
Cụ Hương là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất được chia tài sản bằng tài sản của
các đồng thừa kế (các con của cụ Hương, cụ Quý). Cụ thể cụ Hương được hưởng 1/6

9
di sản thừa kế. Vì vậy, di chúc của cụ Hương chỉ có giá trị pháp lý một phần (tài sản
được hưởng 1/6 từ di sản thừa kế và ½ nhà đất).
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao? 
Trong trường hợp tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý:
- Về hình thức, bản di chúc này đã được công chứng. Tại thời điểm lập di chúc, cụ
Hương cũng có giấy chứng nhận sức khỏe của bệnh viện xác nhận cụ minh mẫn.
- Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lý vì tài sản lúc này thuộc
sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định đoạt theo quy định
tại Điều 631 BLDS 2005 về Quyền thừa kế của cá nhân: “Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”
- Nếu tài sản thuộc sở hữu chung của cụ Quý và cụ Hương thì di chúc chỉ có giá trị
pháp lý một phần, đó là phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương.
Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 652 và Điều 631 BLDS 2005 thì di chúc của cụ
Hương hoàn toàn có giá trị pháp lý.

7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết? 
Trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi trước khi hai cụ chết: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất
tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND
ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử
dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của
Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”. Ngày
thu hồi là ngày 21/7/2010 và ngày chết của cụ C 07/9/2010, cụ D 21/1/2011. Do đó,
quyền sử dụng đất của 2 cụ đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết.

10
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định
vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm? 
- Trong phần “Nhận định của Tòa án” của Quyết định 58 cho thấy: “Ngày 16-12-
2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là bất động sản tại thửa đất
số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên cho con trai tôi (ông Nguyễn Văn D1). Ngày 15-01-
2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để lại
phần tài sản của mình tại thửa đất nêu trên cho ông D1, Khi Nhà nước thu hồi, bồi
thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì ông D1
được đứng tên và nhận tiền”. 
- Hướng xác định vừa nêu trên của Tòa giám đốc thẩm là có căn cứ và rất hợp lý, vì: 
+ Thửa đất tại xứ M là tài sản chung của cụ C và cụ D nhưng chỉ có cụ C chuyển
nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của cụ D, cụ C tự ý định đoạt tài sản chung của
hai cụ thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ C và ông
Y, vì vậy quyền sử dụng đất vẫn thuộc về cụ D và cụ C. 
+ Xét theo khoản 2 Điều 42 Luật đất đai: “Người bị thu hồi loại đất nào thì được
bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định
thu hồi” thì mặc dù thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số
1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố nhưng giá trị quyền
sử dụng đất vẫn được bồi thường. Vì vậy nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài
sản trên.

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu
hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm. 
- Đoạn trong Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ
D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: “Ngoài
ra, tài sản mà cụ C và cụ D để lại là quyền sử dụng đất trên thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010 của Ủy ban
nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sư dụng đất của người có đất bị thu

11
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ  có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”. 
- Hướng vừa nêu của Tòa là hoàn toàn hợp lý vì thửa đất số 38 bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND nên 2 cụ vẫn có quyền lập di chúc định đoạt giá trị
quyền sử dụng đất cho ông D1. 

12
VẤN ĐỀ 3: DI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

*Tóm tắt bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ:
Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H.
Bị đơn: anh Hoàng Tuyết H.
Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Tháng 01/2016 ông X chết và có
để lại bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/08/2015, anh H, anh H2, anh H3
không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận
di chúc chung của vợ chồng là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù hợp với quy
định tại chương XXII của BLDS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên
đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, không phải nằm điều trị cho đến thời
điểm trước khi chết. Nội dung của bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội phù hợp quy định Điều 630 BLDS 2015. Áp dụng Điều 627,
Điều 630 BLDS 2015; khoản 1, khoản 5 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ
khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quyết
định: công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H hợp pháp,
không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di
sản của ông Hoàng Minh X.

1. Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng không?
Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết. 
Theo pháp luật Ấn Độ: Halsbury’s Laws of England, Hailsham’s Edition, Vol.34,
tr.17, đoạn 12 luật quy định như sau: “Di chúc chung là di chúc do hai hoặc nhiều
người lập di chúc lập thành một văn bản duy nhất, được mỗi người lập di chúc thực
hiện hợp lệ, định đoạt tài sản riêng của họ hoặc tài sản chung của họ”.
Như vậy, di chúc chung là do 2 người trở lên lập với mục đích để lại tài sản chung cho
một số người nhất định mà không có cam kết qua lại với nhau.

13
2. Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng? 
Đoạn của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng là
đoạn sau: “Ngày 10/08/2015 bà và ông C cùng nhau lập di chúc chung của vợ chồng
do ông X viết với nội dung: nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà
quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng H1.
Khi viết di chúc ông X hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, không bị ai ép buộc. Sau khi
viết xong do ông X đi bệnh viện điều trị nên bản di chúc không được chứng thực. Đến
ngày 12/01/2016 ông X chết, sau đó bà có họp gia đình để công bố di chúc, thì anh H
cho rằng không phải chữ viết của ông X, nên gây khó khăn cho bà trong việc thay đổi
nội dung di chúc. Vì chỉ có anh H1 trông nom bố mẹ lúc đau ốm, bà hiện nay tuổi cao,
không con nào có trách nhiệm nên bà yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của ông X để
lại là hợp pháp, giải quyết cho bà thay đổi nội dung di chúc phần của bà và đề nghị
Tòa án chia tài sản chung cho bà.”

3. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời. 
Theo Bản án, yêu cầu của bà Hoàng Thị H là công nhận di chúc chung của vợ chồng
bà là hợp pháp. Vì vậy Tòa án công nhận di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp
lý theo BLDS 2015. Ở đoạn: “Quá trình giải quyết vụ án, anh H, anh H2 và anh H3
không đưa ra được bất cứ một chứng cứ nào chứng minh cho việc bản di chúc ngày
10/8/2015 không phải do ông Hoàng Minh X viết. Từ những căn cứ nêu trên HĐXX
chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị H.”

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015. 
Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ
với BLDS 2015 là hợp lý dù BLDS 2015 không có quy định cụ thể về trường hợp di
chúc chung của vợ chồng như BLDS 2005. Theo đó:
+ Người lập di chúc là ông X hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc,
không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép tại thời điểm tạo lập di chúc và nội dung của di

14
chúc không phạm vào điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội theo khoản 1 Điều
630 BLDS 2015.
+ Hình thức di chúc cũng phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 633 BLDS
2015 đối với di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực. Ông X tự tay
viết và ký vào bản di chúc đã được giám định chữ ký xác nhận bản di chúc này là do
cùng một người ký và viết ra theo Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017.

15
VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

*Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội:
Cụ D và cụ C kết hôn với nhau từ năm 1957 nhưng không đăng ký kết hôn. Năm
1959, trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ D và cụ C, cụ D mua thửa đất ở xứ M của ông
Đ, nay là thửa đất số 38 tại khu M. Do cụ C không sinh nở được nên đã đồng ý cụ D
lấy cụ N và sinh ra ông D1. Năm 1987, ông Y nhận chuyển nhượng của cụ C thửa đất
số 38, tuy không viết giấy biên nhận nhưng có sự chứng kiến của bà B và bà K. Từ
năm 2006, cụ C quay về Hưng Yên, ông D1 và cụ D đến để quản lý thửa đất ở khu M
nhưng ông Y không đồng ý. Năm 2009, giữa ông Y và gia đình cụ D xảy ra tranh chấp
đối với thửa đất số 38. Ngày 16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại thửa đất
số 38 cho ông D1. Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M để lại
phần tài sản của cụ tại thửa đất số 38 cho ông D1. Sau khi cụ D mất, Phòng công
chứng đã tiến hành việc công chứng theo quy định của pháp luật. Năm 2013, ông Y
được biết Phòng công chứng M đã công chứng Di chúc của cụ D và cụ C, ông cho
rằng việc công chứngnày không đúng với quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông nên ông đề nghị Tòa án tuyên bố 2 văn bản
công chứng vô hiệu. Tòa án sơ thẩm tuyên bố văn bản Công chứng Di chúc của Phòng
công chứng M đối với Di chúc của cụ D và cụ C vô hiệu. Tòa án phúc thẩm đã quyết
định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp cao đã quyết định hủy
Bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời. 
Di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý phải đáp ứng những điều kiện sau:

16
+ Di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không chỉ định người quản
lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
+ Di sản của người chết đã đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó.
+ Người lập di chúc để lại một phần tài sản để dùng cho việc thờ cúng.
Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 2015, Điều 670 BLDS 2005.

2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng? 
Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được dùng vào việc thờ cúng: “Tại tờ
di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đông thừa
hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị
em của anh được đồng ý chia di sản và giao cho anh được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận.”

3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không? 
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp thỏa mãn vụ việc
đang nghiên cứu:
Theo khoản 1, Điều 670, BLDS 2005 quy định:
 “1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ
định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa
kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”. 

17
    Tài sản của người chết đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó và còn thừa lại.
Tuy nhiên, di chúc không định đoạt tài sản chỉ dùng vào việc thờ cúng. Theo đó, tài
sản bà Lùng để lại nhà đất là để thờ cúng nhưng không phải toàn bộ di sản của bà. Vì
vậy, các điều kiện để di sản dùng vào việc thừa kế thỏa mãn trong vụ việc nghiên cứu.

4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? 
Trong vụ tranh chấp này, di sản được chia cho 7 người con của bà Lùng. Theo đó, có
5/7 người đồng ý chia di sản cụ thể là anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh
Được đồng ý chia di sản nhưng anh Tân, chị Hương không đồng ý. Dựa vào đoạn:
“Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện
tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em họp lại chia di sản của mẹ anh,
nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.

5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? 
Cuối cùng Toà án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
Vì bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, mà
Toà án đã quy thành giá trị tiền để chia thừa kế cho 7 người con.
Câu trả lời nằm ở đoạn: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà
đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được là người đang
quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho
anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận. Anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, chị
Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương là hàng thừa kế thứ nhất của bà Lùng, anh
chị được hưởng di sản bằng nhau, mỗi người được hưởng giá trị bằng tiền là
37.423.857đ (261.967.000đ chia cho 7 người) giao cho anh Được sở hữu di sản nhà
đất, anh Được phải có trách nhiệm thanh toán bằng tiền cho anh Thảo, anh Tân, anh
Xuân, chị Hoa và chị Hương mỗi người 37.423.857đ (tính số tròn là 37.424.000đ),
nhưng anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh
Được. Vì vậy anh Được được sở hữu phần của anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị
Hoa và phần của anh Được tổng số là 187.120.000đ, anh Được phải thanh toán cho
anh Tân, chị Hương mỗi người là 37.424.000đ.”

18
6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc được nghiên cứu. 
 Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015. Di sản dùng vào việc thờ cúng:  
“Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực
hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản
lý để thờ cúng”. Nhưng trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có
nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
=> Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định của
BLDS 2015. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì
cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi
lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị: anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân,
chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh
Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý
ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của
những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ quản lý. Tuy nhiên, Tòa
án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai
người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà
không định đoạt.

19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
2. Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
3. Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
4. Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
5. Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh
Phú Thọ.
6. Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai.
7. BLDS 2015.
8. BLDS 2005.
9. Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, chương II.
10. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 62 và tiếp theo.
11. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.253 đến 255.
12. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 51-53 và 54-57.
13. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.255.
14. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương VI.
15. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 108-110.

20
16. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.256.
17. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 95 và tiếp theo.
18. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.257 đến 258.

21

You might also like